e lan man chút về chu kỳ:
Lịch sử nhân loại luôn gắn liền với những chu kỳ biến đổi khí hậu toàn cầu. Thời kỳ "Băng hà nhỏ" kéo dài từ khoảng năm 1300 đến giữa thế kỷ XIX là minh chứng rõ nét cho mối quan hệ này. Đỉnh điểm của giai đoạn này là từ thế kỷ XVI đến XIX, trái đất chứng kiến nhiệt độ giảm mạnh, gây nên những mùa đông cực kỳ lạnh giá, mưa lũ, dịch bệnh lan rộng và nạn đói diễn ra ở khắp nơi trên thế giới.
Nhìn lại thời kỳ ấm Trung cổ (khoảng thế kỷ IX đến XIII), sử liệu Việt Nam thời nhà Lý ghi nhận khí hậu khá ấm áp, ôn hòa. Thậm chí sử sách Trung Quốc còn kể lại mùa đông ở nước ta lúc đó tương đối dễ chịu, mát mẻ như hiện nay, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và dân số thế giới cũng tăng mạnh trong giai đoạn này. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIII, khí hậu bắt đầu chuyển biến xấu đi rõ rệt, khởi đầu bằng sự xuất hiện của dịch hạch từ các khối băng tan do thời kỳ trái đất nóng lên trước đó, lan rộng và cướp đi mạng sống của hàng trăm triệu người. Ở châu Á, biến đổi khí hậu được ghi nhận rõ ràng vào năm 1229 với nạn đói Kanggi kéo dài ở Nhật Bản do khí hậu lạnh, ẩm bất thường suốt nhiều năm liền. Đây cũng chính là giai đoạn suy tàn của nhà Lý tại Việt Nam.
Các thảm họa khí hậu sau đó không ngừng tái diễn. Từ năm 1440, nạn đói lan từ châu Mỹ đến Nhật Bản, gây ra nạn đói Kansho nghiêm trọng, giai đoạn này cũng chứng kiến sự sụp đổ của nhà Trần và nhà Hồ tại Việt Nam. Thời kỳ 1569-1620 đánh dấu những nạn đói rộng khắp châu Âu, riêng tại Nga mỗi mùa có thể chết tới 2 triệu người. Đây cũng là lúc nhà Minh Trung Quốc bị suy sụp vì loạn lạc do đói kém, còn tại Nhật Bản, nạn đói Tenbun diễn ra từ năm 1540. Tại Việt Nam, triều đại Lê sơ và nhà Mạc cũng lần lượt rơi vào suy vong; đặc biệt, cuối thời Mạc liên tục ghi nhận các trận lụt lội nghiêm trọng, có năm lụt tới 7 lần.
Từ năm 1600 trở đi, tình trạng đói kém ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nhật Bản trong thời kỳ Tokugawa ghi nhận tới 154 nạn đói trong khoảng 250 năm. Từ năm 1730, nạn đói càng khủng khiếp hơn ở châu Á. Tại Ấn Độ, mỗi trận đói khiến hàng chục triệu người thiệt mạng. Nhật Bản trong những năm 1780 có gần 1 triệu người chết vì đói, còn Trung Quốc từ năm 1810 đến năm 1846 trải qua 4 trận đói lớn làm chết khoảng 45 triệu người.
Là một quốc gia ven biển nhỏ, Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước các biến động khí hậu. Khi xảy ra thiên tai nghiêm trọng, cả nước đều bị ảnh hưởng. Trong bối cảnh chính trị phân quyền, khi điều kiện thời tiết tốt thì xã hội ổn định, nhưng khi thiên tai ập đến, mâu thuẫn nội bộ bùng phát nhanh chóng. Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận rõ ràng rằng sự sụp đổ của các triều đại như Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, và Mạc đều gắn liền với những giai đoạn khí hậu khắc nghiệt nhất.
Cách ứng phó với thiên tai của các triều đại Việt Nam cũng thể hiện sự thay đổi nhận thức về tác động của khí hậu. Thời Lý-Trần, hệ thống đê điều được xây dựng theo cách linh hoạt, mở khi hết mùa nước, thích nghi với thiên nhiên. Đến thời nhà Lê, đê điều được xây dựng kiên cố, cứng nhắc hơn nhằm kiểm soát dòng chảy, gây ra mất cân bằng lớn giữa các vùng trong và ngoài đê. Điều này đã tạo ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, như hạn hán trong đê, ngập lụt ngoài đê. Ví dụ cụ thể được ghi chép từ Nguyễn Đăng Giai (Tổng đốc Hà Ninh, giai đoạn mà các cụ chưa có kỹ nghệ đóng mở đê bằng cống): vùng trong đê thì thiếu nước trầm trọng, vùng ngoài đê lại thường xuyên ngập lụt nhưng lại có lợi cho việc sản xuất nông nghiệp nhờ phù sa bồi đắp.