Nói thêm:
TQ nhiều triều đại thực thi chính sách cấm biển, vì các lý do:
- Trọng nông: cho rằng dân đói là do kém về nông nghiệp, do mải buôn bán làm giàu mà không đầu tư cho nông nghiệp, nên thời PK coi Nhất Sĩ, Nhì Nông, "hết gạo chạy rông, nhất Nông nhì Sĩ". Sự học chỉ chú trọng vào văn hay chữ tốt, thi đỗ, làm quan. Sách thì chỉ coi trọng sách sử (để cai trị) và sách trồng cây, sách bói toán. Công Thương đều bị coi nhẹ. Người buôn bán bị khinh rẻ, xem là trọc phú.
- Coi nông nghiệp là quan trọng còn vì nông nghiệp ưa sự ổn định, có ổn định thì cây cối gia súc mới sinh sôi, phát triển. Thương và công nghiệp cần sự thay đổi, xáo trộn, biến động để kiếm lời. Nhà buôn phải nhạy bén với thời cuộc, năng động đổi mới. Nhà chính trị xưa lại cần sự ổn định, bảo thủ, trung thành. Kẻ nào gây xáo trộn sẽ đe dọa ngai vàng.
- Thương nghiệp đưa người ta đến thị trường mới, buôn bán càng xa càng tốt, hàng hải phát triển. Đi xa thì mở mang đầu óc, mắc chứng sính ngoại, chê nội, nhiễm tinh thần phê phán, thích thay đổi, thích tiếp thu cái mới, cho nên nhà buôn và ngành hàng hải trở thành nguy cơ tiềm ẩn cho Nhà nước, dưới con mắt bảo thủ, tự vệ, phòng thủ của các chính trị gia PK.
Thày như thế thì trò cũng theo:
Gia Long khi chưa lên ngôi hoàng đế, còn phải đánh nhau với Tây Sơn thì đầu óc khá cởi mở với ngoại thương, bản thân ông giao du rộng rãi với nhà buôn và các nhà truyền giáo nước ngoài. Nhưng sau khi chiếm được cả nước, cần sự vững vàng của triều đại, ông ta lại quay về với chính sách bế quan tỏa cảng.
Phải đến khi nhìn thấy một số quốc gia có công thương phát đạt, tư tưởng cởi mở mà chế độ lại càng vững mạnh, thì tư tưởng hủ lậu kia mới bị đẩy lùi. Tuy nhiên, tư tưởng bế quan tỏa cảng không bao giờ mất hẳn, nó biến tướng, thay đổi màu sắc, để thích nghi với thời đại.