Nhân đọc vài tài liệu về túi khí trên mạng, em tập hợp và đưa lên OF để các cụ cùng đọc.
Sơ lược lịch sử túi khí
Túi khí xe hơi đựơc phát minh ra vào năm 1968, tuy nhiên, phải sau một số năm nghiên cứu, túi khí mới bắt đầu được phổ biến rộng rãi trên các xe thương mại.
General Motors là hãng xe đầu tiên triển khai túi khí trên các model xe của hãng từ năm 1975. Tiếp đó công ty Mercedes là hãng lắp túi khí trên tất cả các model xe của mình kể từ năm 1986. Vào cuối những năm 1980s, nhiều hãng xe đều lắp túi khí vào vị trí tài xế, và sang thập kỷ 90 thì ghế hành khách cũng được lắp túi khí khá đầy đủ. Tới năm 1998, luật Giao thông liên bang Mỹ đã yêu cầu tất cả các xe mới đều phải có túi khí cho cả tài xế và cho hành khách. Cũng trong năm đó, các túi khí thế hệ thứ 2 ra đời, với lực nổ nhẹ nhàng hơn nhằm giảm khả năng gây thương tích cho người trong xe. Một vài năm sau đó, túi khí liên tục đựơc mở rộng áp dụng cho các xe thể thao, xe van, xe tải nhẹ..
Nguyên lý làm việc của túi khí
Hầu hết các model xe đều có túi khí được kích hoạt bằng 1, 2 hoặc 3 cảm biến (sensor). Các sensor này phát hiện sự giảm tốc đột ngột ví dụ như đâm nhau, bị đâm mạnh hay phanh quá gấp... và kích hoạt mạch điện tử làm nổ túi khí. Túi khí thường bung ra trong khoảng thời gian rất ngắn thường < 50 mili giây, tương đương tốc độ 200 dặm/giờ (321km/h). Trên túi khí có một vài lỗ nằm phía sau có tác dụng làm túi khí xẹp đi ngay sau khi nó bung ra, điều này giúp giảm lực va đập với người lái (hoặc hành khách).Trước năm 1998, các túi khí thường nổ rất mạnh. Sau đó túi khí thế hệ 2 ra đời với lực nổ giảm khoảng 20%, đỡ gây chấn thương cho người ngồi trong xe. Hiện tại có túi khí thế hệ 3 còn an toàn hơn nữa.
Những airbag đầu tiên được kích hoạt bung túi bằng khí nén. Nhược điểm của kiểu túi khí này là mất không gian chứa bình khí và áp suất duy trì lâu hơn sau khi túi bung, điều này gây nguy hiểm cho người trong xe. Hầu hết các túi khí hiện tại đều sử dụng một loại thuốc phóng dạng rắn có tác dụng sinh khí nhanh khi bị kích hoạt. Hợp chất sodium azide là hóa chất được dùng phổ biến nhất trong những năm 1990s, nhưng chất này cũng có những nhược điểm do có độc tính và quá hoạt động. Ví dụ xút là một trong những sản phẩm phụ của sodium azide khi túi loại này nổ. Một vài người đã bị bỏng đường hô hấp do túi khí azide nổ. Các hãng sản xuất đã làm thêm tấm lưới ngăn hóa chất nhưng điều này làm lại tăng khối lượng của túi khí và làm tăng nguy cơ chấn thương. Ngườì ta đã ghi nhận một số trường hợp bị thương hoặc thậm chí có trường hợp tử vong do túi khí nổ.
Các loại thuốc phóng khác đã được nghiên cứu và áp dụng. Ví dụ guanidien nitrate (GuNi) là một loại chất nổ sinh khí không có kiềm và hiện tại được sử dụng khá phổ biến. Một số hãng còn kết hợp với khi trơ, thường là argon, bổ sung thêm khi chất nổ bung ra. Loại này thường đuợc áp dụng cho túi khí bên ghế phụ hoặc các túi bên. Hệ thống túi khí bảo vệ khi xe bị lật , lăn (rollover curtains) được bố trí dọc ở phía trên thành xe và trần xe, và thường được bơm khí helium vào hệ thống để duy trì áp suất trong thời gian lâu hơn. Cũng bởi vì quá trình xe bị lật thường có thể kéo dài và va chạm nhiều lần nên cần duy trì áp suất lâu. Tai nạn xe bị lật hoặc lăn một vài vòng chỉ chiếm khoảng 3% trong số các tai nạn, nhưng tỷ lệ tử vong chiếm tới hơn 33% trong tổng số các trường hợp, bởi vậy hệ thống túi khí bảo vệ khi xe lật (rollover curtains) có tác dụng bảo vệ rất lớn. Một yếu tố rất quan trọng là, khi xe bị lật, nhiều trường hợp thương vong do người trong xe bị văng ra ngoài, trong các trường hợp đó, tỷ lệ cứu sống do đeo seatbelt là rất lớn, nhất là với những người ngồi hàng ghế sau, do những người ngồi sau thường không có thói quen đeo dây và luật cũng không bắt buộc người ngồi sau phải thắt seatbelt.
Kết hợp dây an toàn và túi khí
Túi khí mặc dù có tính bảo vệ cao, nhưng thứ hỗ trợ số 1 phải là dây an toàn. Bởi vậy các xe có thể có túi khi hoặc không, có thể chỉ có một túi hoặc nhiều túi khí (option), nhưng dây an toàn thì luôn luôn phải có. Theo một tài liệu của Mỹ thì tỷ lệ giảm chấn thương do dây an toàn là lên tới 50%, trong khi nếu có túi khí thì tỷ lệ bảo vệ chỉ tăng thêm được 10% nữa mà thôi. Túi khi có thể lỗi mà chúng ta không biết, nhưng dây an toàn thì luôn rất đơn giản và tin cậy.
Chúc các cụ lái xe an toàn.
Sơ lược lịch sử túi khí
Túi khí xe hơi đựơc phát minh ra vào năm 1968, tuy nhiên, phải sau một số năm nghiên cứu, túi khí mới bắt đầu được phổ biến rộng rãi trên các xe thương mại.
General Motors là hãng xe đầu tiên triển khai túi khí trên các model xe của hãng từ năm 1975. Tiếp đó công ty Mercedes là hãng lắp túi khí trên tất cả các model xe của mình kể từ năm 1986. Vào cuối những năm 1980s, nhiều hãng xe đều lắp túi khí vào vị trí tài xế, và sang thập kỷ 90 thì ghế hành khách cũng được lắp túi khí khá đầy đủ. Tới năm 1998, luật Giao thông liên bang Mỹ đã yêu cầu tất cả các xe mới đều phải có túi khí cho cả tài xế và cho hành khách. Cũng trong năm đó, các túi khí thế hệ thứ 2 ra đời, với lực nổ nhẹ nhàng hơn nhằm giảm khả năng gây thương tích cho người trong xe. Một vài năm sau đó, túi khí liên tục đựơc mở rộng áp dụng cho các xe thể thao, xe van, xe tải nhẹ..
Nguyên lý làm việc của túi khí
Hầu hết các model xe đều có túi khí được kích hoạt bằng 1, 2 hoặc 3 cảm biến (sensor). Các sensor này phát hiện sự giảm tốc đột ngột ví dụ như đâm nhau, bị đâm mạnh hay phanh quá gấp... và kích hoạt mạch điện tử làm nổ túi khí. Túi khí thường bung ra trong khoảng thời gian rất ngắn thường < 50 mili giây, tương đương tốc độ 200 dặm/giờ (321km/h). Trên túi khí có một vài lỗ nằm phía sau có tác dụng làm túi khí xẹp đi ngay sau khi nó bung ra, điều này giúp giảm lực va đập với người lái (hoặc hành khách).Trước năm 1998, các túi khí thường nổ rất mạnh. Sau đó túi khí thế hệ 2 ra đời với lực nổ giảm khoảng 20%, đỡ gây chấn thương cho người ngồi trong xe. Hiện tại có túi khí thế hệ 3 còn an toàn hơn nữa.
Những airbag đầu tiên được kích hoạt bung túi bằng khí nén. Nhược điểm của kiểu túi khí này là mất không gian chứa bình khí và áp suất duy trì lâu hơn sau khi túi bung, điều này gây nguy hiểm cho người trong xe. Hầu hết các túi khí hiện tại đều sử dụng một loại thuốc phóng dạng rắn có tác dụng sinh khí nhanh khi bị kích hoạt. Hợp chất sodium azide là hóa chất được dùng phổ biến nhất trong những năm 1990s, nhưng chất này cũng có những nhược điểm do có độc tính và quá hoạt động. Ví dụ xút là một trong những sản phẩm phụ của sodium azide khi túi loại này nổ. Một vài người đã bị bỏng đường hô hấp do túi khí azide nổ. Các hãng sản xuất đã làm thêm tấm lưới ngăn hóa chất nhưng điều này làm lại tăng khối lượng của túi khí và làm tăng nguy cơ chấn thương. Ngườì ta đã ghi nhận một số trường hợp bị thương hoặc thậm chí có trường hợp tử vong do túi khí nổ.
Các loại thuốc phóng khác đã được nghiên cứu và áp dụng. Ví dụ guanidien nitrate (GuNi) là một loại chất nổ sinh khí không có kiềm và hiện tại được sử dụng khá phổ biến. Một số hãng còn kết hợp với khi trơ, thường là argon, bổ sung thêm khi chất nổ bung ra. Loại này thường đuợc áp dụng cho túi khí bên ghế phụ hoặc các túi bên. Hệ thống túi khí bảo vệ khi xe bị lật , lăn (rollover curtains) được bố trí dọc ở phía trên thành xe và trần xe, và thường được bơm khí helium vào hệ thống để duy trì áp suất trong thời gian lâu hơn. Cũng bởi vì quá trình xe bị lật thường có thể kéo dài và va chạm nhiều lần nên cần duy trì áp suất lâu. Tai nạn xe bị lật hoặc lăn một vài vòng chỉ chiếm khoảng 3% trong số các tai nạn, nhưng tỷ lệ tử vong chiếm tới hơn 33% trong tổng số các trường hợp, bởi vậy hệ thống túi khí bảo vệ khi xe lật (rollover curtains) có tác dụng bảo vệ rất lớn. Một yếu tố rất quan trọng là, khi xe bị lật, nhiều trường hợp thương vong do người trong xe bị văng ra ngoài, trong các trường hợp đó, tỷ lệ cứu sống do đeo seatbelt là rất lớn, nhất là với những người ngồi hàng ghế sau, do những người ngồi sau thường không có thói quen đeo dây và luật cũng không bắt buộc người ngồi sau phải thắt seatbelt.
Kết hợp dây an toàn và túi khí
Túi khí mặc dù có tính bảo vệ cao, nhưng thứ hỗ trợ số 1 phải là dây an toàn. Bởi vậy các xe có thể có túi khi hoặc không, có thể chỉ có một túi hoặc nhiều túi khí (option), nhưng dây an toàn thì luôn luôn phải có. Theo một tài liệu của Mỹ thì tỷ lệ giảm chấn thương do dây an toàn là lên tới 50%, trong khi nếu có túi khí thì tỷ lệ bảo vệ chỉ tăng thêm được 10% nữa mà thôi. Túi khi có thể lỗi mà chúng ta không biết, nhưng dây an toàn thì luôn rất đơn giản và tin cậy.
Chúc các cụ lái xe an toàn.
Chỉnh sửa cuối: