Hôm qua đi suối đá lấy thạch xương bồ. Thấy người dân đun nước uống. Giải thích cho họ rất khó vì tôi không biết tiếng mường.
Nó có tinh dầu gây hưng phấn nên dễ làm người ta thích thú. Tuy nhiên, cấm sử dụng cây này trong thời gian dài theo đường uống nếu không có thuốc khắc chế.
Gây biến đổi gene, sử dụng tuỳ tiện gây ung thư, cấm dùng cho người âm hư hoả vượng. Trong thuốc bắc dùng thạch xương bồ tương đối nhiều và có vẻ hơi lạm dụng. Người Trung quốc thích hiệu quả trước mắt, thấy ngay, khỏi nhanh.
Tại Việt Nam, trong thời gian xem xét để xác định giới hạn an toàn của thành phần asaron trong dược liệu xương bồ, Cục Quản lý Dược đã có công văn số 14975/QLD-ĐK ngày 02/10/2012. Theo đó, tạm ngừng cấp số đăng ký mới, đăng ký lại các chế phẩm thuốc ho bổ phế chứa dược liệu thạch xương bồ, khuyến khích các công ty nghiên cứu thay thế thạch xương bồ bằng một vị thuốc khác có tác dụng tương tự về mặt y học cổ truyền và trong thành phần không có beta-asaron.
Đó là lý do tại sao sản phẩm bổ phế trị ho từ năm 2013 vị không ngon như trước, cũng không hiệu quả như trc mà chuyển sang vị hơi đắng, khét. Vì đã bị cấm xương bồ trong thành phần thuốc.
Tại mỹ cấm từ năm 1968.
Nghiên cứu trên chuột cho thấy beta-asaron có độc tính trung bình. Độc tính của tinh dầu xương bồ thường tăng theo hàm lượng beta-asaron chứa trong đó. Các nghiên cứu này cũng cho thấy Xương bồ có nhiều tác dụng bất lợi trên tim, gan và hệ thần kinh trung ương [10].
Beta-asaron có khả năng gây ung thư và đột biến gen [2], [3], [5], [7], [8]. Một nghiên cứu kéo dài trong 2 năm trên chuột có bổ sung vào chế độ ăn tinh dầu xương bồ với các liều 500; 1000; 2500 và 5000 ppm cho thấy có sự ức chế tăng trưởng và xuất hiện u tá tràng ác tính ở chuột sau khi sử dụng 59 tuần với tất cả các liều sử dụng. Lô chứng không dùng tinh dầu xương bồ không quan sát thấy u tương tự [2].
Beta-asaron thể hiện khả năng gây đột biến gen (biến đổi mạnh cấu trúc nhiễm sắc thể và làm tăng tỷ lệ trao đổi chromatid chị em) trong mẫu nuôi cấy tế bào bạch huyết người. Trong số các chủng Salmonella typhimurium TA98, 100, 1535, 1537 và 1538 được thử nghiệm, dịch chiết rễ xương bồ, cồn thuốc và beta-asaron chỉ gây đột biến gen trên chủng TA100 trong điều kiện có mặt của hỗn hợp hoạt hóa microsom. Dịch chiết xương bồ cũng không thể hiện khả năng gây đột biến gen khi thử với các chủng Salmonella typhimurium trên (trừ chủng TA1538) cả trong điều kiện có và không có mặt hỗn hợp hoạt hóa microsom [2].
Độ an toàn và độc tính của xương bồ chưa được đánh giá trên lâm sàng và cần có thêm các nghiên cứu về vấn đề này [2], [4].
Tham khảo số:
2. Joanne Barnes, Linda A Anderson, J David Phillipson. Herbal medicines. Pharmaceutical Press, 2007.
3. European Medicines Agency, Committee on Herbal Medicinal Products. Public statement of the use of herbal medicinal products containing asarone. December 2003.
4. Micromedex 2.0-AltMedex system. Monograph “Calamus”, accessed on 12 July 2012.
5. Jeff M. Jellin et al. Natural Medicines comprehensive database. Pharmacists Letter, 2010.
6. Aronson JK. Meyler’s side effect of herbal medicines. Oxford, 2009.
7. Dennis V.C. Awang. Tyler’s herbs of choice: The therapeutic use of phytomedicinals. CRC Press, 2009.
8. Heber D. PDR for Herbal Medicines, 4th edition. Thomson Healthcare, 2007.
9. U.S. Food & Drug Administration. CFR Code of Federal Regulations Title 21, volume 3, revised as of 1 April 2011.
10. European Commission, Scientific Committee on Food. Opinion of the Scientific Committee on Food on the presence of β -asarone in flavourings and other food ingredients with flavouring properties. December 2001.
Điều đáng ngại ở đây là các thầy thuốc Việt phần lớn học từ trung quốc, họ nhầm lẫn giữa độc tính cấp và độc tính âm thầm trong tế tân, thạch xương bồ và họ mộc hương nam.
Trong bài thuốc, đặc biệt cổ phương phối ngũ đã tính toán để cân bằng như quế chi cùng thược dược. Độc tính cấp dễ quan sát các thầy thuốc xưa đã lưu ý, độc tính xuất hiện muộn phải trải qua nhiều nghiên cứu hiện đại mới phát hiện. Btw, các phép chữa bệnh ban đầu cũng rất thô sơ, sau nhờ những thiên tài mới phát triển được như những gì chúng ta thấy, k có Trọng Cảnh k có phép tắc dùng thuốc đối chứng, k có Vương Thúc Hòa k có mạch kinh, k có Đông Viên trị tỳ không có phép tắc,... Đại ý là sau mỗi đời sự hiểu biết lại rộng ra thêm. K quá cố chấp trọng cổ bất trọng kim, trước là kim sau là cổ.