"Tất cả những hành vi này đều có thể gây nguy hiểm cho tính mạng nạn nhân" cái quan trọng của hành vi là kết quả. Cho tới 22/12 thì bé A ko có tổn thương về sinh mạng. Cái hành vi này bị kết tội bạo hành là đúng, cũng có thể lấy làm yếu tố tăng nặng để xử kịch khung tội hành hạ người khác, nhưng không đủ để kết tội giết người. Đơn giản không có hậu quả thì không thể kết tội hành vi. Thái không có chủ đích giết người, thì cũng không thể viện dẫn cớ "việc nạn nhân còn sống nằm ngoài chủ đích của phạm nhân" để lấy chủ đích giết người bù cho hậu quả-chưa-xảy-ra ngoài ý muốn của thủ phạm.
Không hành động phạm tội giết người: cái này đòi hỏi cụ phải đưa ra được bằng chứng Thái phải có nhận thức về tiến trình giết người đang diễn ra, cũng như có khả năng ngăn chặn sự việc nhưng không làm. Chỉ riêng việc Thái ko có mặt ở hiện trường, ko biết việc Trang đang làm đã đủ để bác bỏ tội danh này.
Thông thường điều khoản này nhằm ngăn chặn nhân viên công vụ phạm tội bỏ mặc ng khác, bởi nó phải thoả các điều kiện: có đủ khả năng nhận thức đc hậu quả, có đủ khả năng ngăn chặn, và yêu cầu đc pháp luật quy định phải làm.
Người thông thường không nhất thiết phải có đủ khả năng nhận ra hậu quả chết người. Và rất dễ để thoát ra khỏi tội trạng đó. Ví dụ cụ là BS đang điều trị bệnh nhân A bị nhồi máu cơ tim, cụ cầm bệnh án điều trị trong BV buộc cụ biết rõ không cho thuốc A thì BN tử vong, cụ không làm thì bị kết tội này. Nhưng cụ cũng là BS, nhưng cụ Không cầm bệnh án điều trị thì khi gặp BN A ngất xỉu ngoài đường, cụ ko cho BN uống thuốc cũng ko thể bị kết tội, bởi không thể đổ cho cụ tội nhận thức đc hậu quả chết người mà không làm.
Ví dụ khác, cụ là nhân viên cứu hộ của bể bơi, khi có người đuối nước cụ bắt buộc phải cứu, bởi không cứu ng thì cụ bị kết tội không hành động dẫn đến chết người, bởi hợp đồng ràng buộc cụ phải có trách nhiệm thực hiện việc này. Nhưng nếu cụ chỉ là người khách đi bơi, cụ không cứu cũng không thể kết tội cụ về mặt pháp luật.