http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/03/chung-ta-da-de-phong-trung-quoc-chiem-gac-ma/
 				Thứ sáu, 15/3/2013, 11:56 GMT+7 
 	 
'Chúng ta đã đề phòng Trung Quốc chiếm Gạc Ma' 
 "Sau chiến tranh biên giới năm 1979, khi xuất quân ra  Gạc Ma quân ta đã có đề phòng. Quân chủng Hải quân đã lường đến tình  huống có xung đột vũ trang và quán triệt phải chiến đấu để giữ đảo",  thượng tá Hoàng Hoan kể lại.
> Ký ức về trận chiến Gạc Ma năm 1988/ 'Sẵn sàng để máu mình tô thắm cờ tổ quốc'
 Thượng tá Hoàng Hoan từng giữ chức Phó chỉ huy chính  trị Trung đoàn 83 (Quân chủng Hải quân) giai đoạn 1988 - 1997 và là  người trực tiếp chỉ huy Trung đoàn khi lính Trung Quốc đổ bộ đánh chiếm  trái phép đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988 trao đổi với 
VnExpress.net xung quanh trận đụng độ này.
   
	
	
		
		
	
	
  Thượng tá Hoàng Hoan mô tả lại thời khắc xảy ra trận đụng độ 14/3/1988 trên tấm bản đồ. Ảnh: 
Nguyễn Đông. - Bối cảnh tình hình tại quần đảo Trường Sa như thế nào vào giai đoạn xảy ra trận đụng độ Gạc Ma năm 1988 thưa ông? 
 - Năm 1976, Quân chủng Hải quân chỉ đạo chiến sĩ đi  kiểm tra các đảo chìm, cắm mốc chủ quyền. Tháng 10/1987 tình hình trên  quần đảo Trường Sa rất phức tạp, Trung Quốc đơn phương đưa tàu chiến  hoạt động ở vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
 Cuối năm 1987, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Bộ Tư lệnh Hải  quân tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, trong đó gồm cả việc  củng cố, xây dựng thêm các hạng mục công trình chiến đấu, sinh hoạt cho  bộ đội. Nhiệm vụ cấp bách nên sau Tết Nhâm Thìn, các chiến sĩ vào cảng  Cam Ranh (Khánh Hòa) sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
 20h ngày 11/3/1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của  thuyền trưởng Vũ Phi Trừ nhận lệnh xuất phát từ Cam Ranh chở theo 70 bộ  đội công binh của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ đoàn 146 ra xây dựng  cụm đảo Gạc Ma. Khi bộ đội đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba tàu  chiến Trung Quốc áp sát, giật cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái  phép. Sau đó, tàu Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu HQ 605 đang bảo vệ và  xây dựng đảo Len Đao và tàu HQ 505 canh giữ Cô Lin.
 Trước khi xảy ra xung đột vũ trang tại Gạc Ma, giữa  Việt Nam và Trung Quốc đã có tranh chấp ở đảo Châu Viên (thuộc quần đảo  Trường Sa). Hai tàu của Hải quân Việt Nam chuẩn bị vào đảo thì phía  Trung Quốc đã kéo nhiều tàu đến, buộc quân ta phải rút về Đá Đông.
 
- Trong tình hình đó Việt Nam đã có những chuẩn bị gì trước thời điểm Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma?
 - Do có kinh nghiệm từ chiến tranh biên giới năm 1979  nên khi xuất quân ra Gạc Ma quân ta đã có đề phòng. Quân chủng Hải quân  đã lường đến tình huống có xung đột vũ trang. Lãnh đạo Quân chủng quán  triệt nhiệm vụ với chiến sĩ tham gia nhiệm vụ là nếu có biến cố thì bằng  mọi giá phải chiến đấu để giữ đảo. 
 Lúc này, lực lượng công binh ra Trường Sa có nhiệm vụ  xây dựng nhà chòi cho bộ đội ở, tạo thành thế trận vững chắc trên biển.  Tâm thế của hải quân Việt Nam lúc đó là làm nhiệm vụ xây dựng trên đảo  thuộc chủ quyền của mình. Tàu HQ 604 và HQ 605 là những tàu vận tải, vũ  khí trang bị chỉ có AK và súng trường. Chủ trương của trung ương khi đó  là không để chiến sự xảy ra ở Trường Sa.
   
	
	
		
		
	
	
  Chiến sĩ ở đảo chìm Len Đao làm nhiệm vụ canh giữ chủ quyền. Ảnh: 
Nguyễn Đông - Khi xảy ra chiến sự ở Gạc Ma, Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân đã có những động thái như thế nào thưa ông? 
 - Sở chỉ huy Quân chủng lúc đó ở Vùng 4 Hải quân (Cam  Ranh, Khánh Hòa), trực tiếp chỉ huy các lực lượng. Còn Trung đoàn 83  đóng quân cách Sở chỉ huy gần 1 km. Khoảng 8 - 9h sáng 14/3, đất liền  nghe đài phát thanh (lấy lại tin của Bộ Quốc phòng) thông báo xảy ra  chiến sự ở Gạc Ma.
 Bộ Quốc phòng chỉ đạo bằng mọi giá phải kiên quyết giữ  được chủ quyền tại 3 cụm đảo này. Thượng tướng Giáp Văn Cương (chỉ huy  trực tiếp Vùng 4 Hải quân và là Đô đốc đầu tiên của Hải quân Việt Nam)  điều các tàu đang làm nhiệm vụ tại Trường Sa có trách nhiệm cấp cứu  thương binh đưa về đảo Sinh Tồn. Ông điện cho Bộ Quốc phòng yêu cầu điều  thêm tàu cứu hộ cấp cứu chiến sĩ.
 Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm tới Bộ Ngoại  giao Trung Quốc phản đối việc nước này xâm phạm chủ quyền ở quần đảo  Trường Sa, đặc biệt là gây xung đột vũ trang tại đảo Gạc Ma.
 
- Khi đó các lực lượng trên quần đảo Trường Sa đã hiệp đồng ra sao thưa ông? 
 - Trận xung đột đã gây cho quân ta thiệt hại rất lớn,  hai tàu chìm, một tàu hư hỏng, 64 chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía  Trung Quốc bắt làm tù binh. Lúc đó, phía ta cũng có nhiều ý kiến khác  nhau về quyết định đánh hay không đánh. 
 Bản thân chỉ huy trưởng Giáp Văn Cương muốn đánh,  nhưng cuối cùng chúng ta đã quyết định đấu tranh bằng pháp lý để bảo vệ  chủ quyền. 
   
	
	
		
		
	
	
  Chiến sĩ hải quân của Trung đoàn công binh 83 làm nhiệm vụ xây dựng các đảo ở Trường Sa sau sự kiện Gạc Ma. 
Ảnh: Tư liệu Trung đoàn 83 - Sau khi Trung Quốc chiếm giữ Gạc Ma, Hải quân đã có những hành động gì để giữ chủ quyền tại các đảo khác?
 - Dù gây tổn thất lớn cho binh đoàn nhưng tình hình  lúc này phải bình tĩnh để xây dựng quyết tâm cho các chiến sĩ. Đêm  16/4/1988, Trung đoàn công binh 83 lại đưa bộ đội ra xây dựng đảo và  riêng năm đó Trung đoàn lập kỷ lục với 20 khung đi đảo, có chiến sĩ đi  đảo tới 5 lần.
 Ở hai đảo chìm Cô Lin và Len Đao được xây dựng hai nhà  sắt (sà lan), mỗi nhà 25 tấn thép chuyển vượt gần 500 km từ đất liền ra  vô cùng vất vả và chỉ kịp sơn chống gỉ. Việc xây dựng này theo chỉ đạo  của Quân chủng Hải quân để xem động thái của Trung Quốc. Các lực lượng  bảo vệ đảo được tăng cường giữ chủ quyền.
 Chính phủ cũng tổ chức phát động phong trào Hướng về  Trường Sa với khẩu hiệu "Vì Trường Sa thân yêu" về cả tinh thần lẫn vật  chất. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng quyết định giao nhiệm vụ cho  6 tỉnh Hải Phòng, Quảng Nam - Đà Nẵng, Nghĩa Bình (Bình Định và Quảng  Ngãi), Vũng Tàu - Côn Đảo, TP HCM, Phú Khánh (Khánh Hòa và Phú Yên), mỗi  địa phương phải có trách nhiệm làm một nhà cấp một lâu bền cho một đảo  bằng kinh phí và cả lực lượng tàu vận tải. Tỉnh Nghĩa Bình huy động đến 5  tàu chở vật liệu và 100 công nhân ra đảo Đá Lớn.
   Năm 1988, Trung Quốc đưa quân ra chiếm đóng bãi đá  Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Do các bãi đá này  không có quân đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa tàu ra bảo vệ và  cuộc chiến nổ ra ngày 14/3/1988. Phía Việt Nam chìm 2 tàu vận tải, 64  chiến sĩ hy sinh, 9 người bị bắt làm tù binh. Từ đó, Trung Quốc chiếm  giữ đảo Gạc Ma, còn Việt Nam vẫn giữ được đảo Cô Lin và Len Đao. 
Nguyễn Đông thực hiện