[Funland] Ung thư phổi - Điều trị đích

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 520: CẬP NHẬT THÔNG TIN MỚI NHẤT VỀ THUỐC ĐÍCH ALK THẾ HỆ 4 NELADALKIB !


1
. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 8/5/2025, Tập đoàn dược phẩm Nuvalent đã ra thông cáo báo chí về thông tin mới nhất của Thuốc đích ALK thế hệ 4 Neladalkib :

-> Tập đoàn dự kiến sẽ công bố vào cuối năm 2025 dữ liệu về hiệu quả của Thuốc đích ALK thế hệ 4 Neladalkib khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển DƯƠNG TÍNH ALK ĐÃ KHÁNG thuốc đích trước đó.

-> Tập đoàn lên kế hoạch bắt đầu phase3 cho nghiên cứu ALKAZAR. Nghiên cứu ALKAZAR được thiết kế ngẫu nhiên có đối chứng trên quy mô toàn cầu nhằm so sánh ĐỐI ĐẦU Thuốc đích ALK thế hệ 4 Neladalkib với thuốc đích ALK thế hệ 2 Alectinib khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ DƯƠNG TÍNH ALK trước đó CHƯA trải qua điều trị thuốc đích. Dữ liệu cụ thể của nghiên cứu ALKAZAR sẽ được Tập đoàn báo cáo tại Hội nghị ASCO 2025 được tổ chức tại Chicago Mỹ trong 5 ngày, kể từ ngày 30/5/2025 cho đến ngày 3/6/2025.



2. Vậy là ngoài mục tiêu trị kháng thì Thuốc đích ALK thế hệ 4 Neladalkib còn có mục tiêu làm điều trị ở ngay BƯỚC ĐẦU.

Tiêu chuẩn điều trị bước đầu được yêu thích nhất hiện nay là Thuốc đích ALK thế hệ 2 Alectinib. Và Alectinib lần này sẽ bị đem ra làm con dê tế thần cho hành trình khẳng định vị thế tốt nhất của Thuốc đích ALK thế hệ 4 Neladalkib !


Khoa học phát triển thật khủng khiếp. Sóng sau đè sóng trước. Cái tốt nhất ngày hôm nay sẽ trở thành cái kém nhất trong nay mai !!!



107402500-1713363852819-gettyimages-1631177370-RAFAPRESS_28082023-08029.jpeg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 521: MỸ CẤP PHÉP NGHIÊN CỨU TRÊN NGƯỜI CHO THUỐC MỚI CÓ NGUYÊN LÝ GIỐNG THUỐC BOM TẤN TARLATAMAB !



1
. Vào ngày 6/5/2025, Tập đoàn IDEAYA Biosciences ra thông cáo báo chí về việc Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã cấp phép cho Thuốc IDE849 được sử dụng nghiên cứu trên người tại phase 1.

IDE849 là một loại thuốc kháng thể liên hợp ADC có cùng nguyên lý hoạt động giống thuốc bom tấn Tarlatamab khi cùng nhắm đến DLL3.

Nghiên cứu NCT06443489 sẽ được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc IDE849 khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư thể rắn ( bao gồm ung thư phổi tế bào nhỏ, ung thư phổi không tế bào nhỏ… ) tại Mỹ.



2. Một điều cần nói thêm : Tập đoàn IDEAYA Biosciences là của Mỹ NHƯNG Thuốc IDE849 lại được phát minh bởi Tập đoàn Hengrui Pharma có xuất sứ từ…Trung Quốc !!!

Tập đoàn IDEAYA Biosciences đã ký kết với Tập đoàn Hengrui Pharma để được độc quyền phát triển và thương mại hoá Thuốc IDE849 trên phạm vi toàn cầu ngoài Trung Quốc. Theo thoả thuận, Tập đoàn Hengrui Pharma sẽ nhận được HƠN 1 TỶ ĐÔ từ Tập đoàn IDEAYA Biosciences !!!

Tại Trung Quốc, thuốc IDE849 đã được thử nghiệm trên những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ tại phase 1 với tỷ lệ đáp ứng toàn bộ lên đến xấp xỉ 73% !!! Dữ liệu dự kiến sẽ được Tập đoàn Hengrui Pharma công bố vào quý 3 năm nay.

Như vậy tính đến nay trên nhóm mình đã bàn tới 3 thuốc do Trung Quốc phát minh đang thách thức ngôi vị độc tôn của Thuốc Tarlatamab-loại thuốc bom tấn có giá 1.6 tỷ vnd cho 1 tháng sử dụng.


Tin vui là số lượng kẻ thách thức ko chỉ dừng lại ở con số 3 !!

Trung Hoa đang vượt lên với tốc độ khủng khiếp !!!



DALL·E-2024-12-06-15.57.03-A-dramatic-depiction-of-an-eagle-and-a-dragon-clashing-in-mid-air-f...png
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 522: SAU THÀNH CÔNG TRONG ĐỘT BIẾN GEN EGFR, PHÁC ĐỒ GỘP ĐÍCH + THUỐC AMIVANTAMAB SẼ ĐƯỢC THỬ NGHIỆM TRONG ĐỘT BIẾN DUNG HỢP GEN ALK, ROS1 VÀ RET !!!



1
. Cách đây 9 tháng mình đã từng bàn về việc phác đồ gộp Thuốc Amivantamab + Thuốc đích th3 EGFR Lazertinib đã chính thức trở thành tiêu chuẩn điều trị toàn cầu. Hướng đi này được phê duyệt bởi nó cho thấy khi bổ sung thêm Thuốc Amivantamab vào với Thuốc đích th3 Lazertinib đã giúp kéo dài được thời gian hợp thuốc lên đến hơn 7 tháng và thời gian sống còn toàn bộ đến hơn 1 năm so với việc chỉ dùng một mình Thuốc đích th3 Osimertinib.

Chiến lược này đã thành công trong gia đình EGFR. Vậy câu hỏi đặt ra là liệu chiến lược này có thể áp dụng cho các loại đột biến gen khác ?



2. Vào đầu tháng 5/2025, nghiên cứu NCT05845671 đã được tiến hành. Nghiên cứu NCT05845671 được thiết kế ở phase1/2 nhằm đánh giá hiệu quả của phác đồ gộp Thuốc Amivantamab + Thuốc đích khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển DƯƠNG TÍNH đột biến dung hợp gen ALK hoặc ROS1 hoặc RET.

Nghiên cứu sẽ được thực hiện tại 4 Trung tâm y tế lớn ở Mỹ.

Liệu lần này, thành công trong EGFR có lặp lại với các loại đột biến gen khác?

Chúng ta cùng chờ xem !


2025-04-17_mRNA-based-bladder-cancer_1080x566.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 523: BÀN VỀ HIỆU QUẢ CỦA THUỐC AMIVANTAMAB KHI ĐIỀU TRỊ CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN CHÈN GEN EGFR EXON20 ĐÃ KHÁNG HOÁ TRỊ VÀ CÁCH XỬ LÝ KHI XUẤT HIỆN DI CĂN NÃO.



1
. Vào ngày 10/5/2025, chuyên gia Jose Trigo cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về tính khả thi của Xạ Phẫu đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ DƯƠNG TÍNH đột biến chèn gen EGFR EXON20 bị di căn não trong khi dùng Thuốc Amivantamab TRƯỚC đó đã trải qua điều trị Hoá trị platinum.


2. Tổng cộng 114 bệnh nhân đủ điều kiện đã được đưa vào nghiên cứu. Toàn bộ bệnh nhân sẽ được điều trị đơn độc bằng Thuốc Amivantamab sau khi ĐÃ KHÁNG Hoá trị platinum.

Tại trung vị thời gian theo dõi 12.5 tháng, Kết quả phân tích cho thấy:

=>> Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 43%.
=>> Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 6.7 tháng.
=>> Trung vị thời gian duy trì đáp ứng đạt 10.8 tháng.

Tại thời điểm phân tích dữ liệu, bối cảnh kháng thuốc:

=>> Số bệnh nhân có bệnh tiến triển là 72 người ( chiếm 63% ).
=>> Có 25 bệnh nhân ( chiếm 35% ) vẫn tiếp tục dùng Thuốc Amivantamab SAU khi bệnh tiến triển và trung vị thời gian tiếp tục dùng Amivantamab đạt 4.2 tháng.
=>> Các vị trí xuất hiện bệnh tiến triển đầu tiên phổ biến nhất là ở phổi/ màng phổi với tỷ lệ 29%, xương với tỷ lệ 21%, não với tỷ lệ 15% và hạch bạch huyết với tỷ lệ 12%.

Xét RIÊNG những bệnh nhân có bệnh tiến triển đầu tiên ở nội sọ:

=>> Có 13 bệnh nhân xuất hiện bệnh tiến triển đầu tiên chỉ ở nội sọ ( chiếm 11%). Có 6 trong 13 bệnh nhân này được Xạ Phẫu di căn não trong khi vẫn tiếp tục dùng thuốc Amivantamab và trung vị thời gian tiếp tục dùng Amivantamab lúc này đạt 4.0 tháng.

=>> Xạ phẫu cho dung nạp tốt khi không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được ghi nhận.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Thuốc Amivantamab chứng tỏ hiệu quả hứa hẹn đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến chèn gen EGFR EXON20 ĐÃ KHÁNG hoá trị platinum. Tỷ lệ bệnh nhân có bệnh tiến triển chỉ ở nội sọ sau khi dùng Amivantamab là không phổ biến. Nếu bệnh nhân có bệnh tiến triển đầu tiên ở vị trí nội sọ, chiến lược Xạ Phẫu trong khi vẫn tiếp tục dùng thuốc Amivantamab là một chiến lược khả thi .



There-is-limited-evidence-that-smart-drugs-boost-brain-power.png
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 524: HY VỌNG CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI ĐANG RƠI VÀO CẢNH HẾT BÀI: TRƯỜNG XUNG ĐIỆN CHO HIỆU QUẢ ĐẦY HỨA HẸN !



1
. Vào ngày 10/5/2025, chuyên gia William H. Moore cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về hiệu quả của Trường Xung Điện PEF khi được sử dụng làm phương pháp điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn cuối ĐÃ trải qua NHIỀU phác đồ và đang rơi vào cảnh còn ít lựa chọn điều trị hoặc hết bài.



2. Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu trong 1.5 năm, kể từ ngày 1/1/2023 cho đến 1/7/2024 và sử dụng phương pháp ghép cặp điểm xu hướng PSM để phân tích dữ liệu với 41 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn cuối được điều trị bằng Trường Xung Điện và 50 bệnh nhân được ghép cặp KO sử dụng Trường Xung Điện.

Kết quả phân tích cho thấy:

=>> Nhóm bệnh nhân điều trị bằng Trường Xung Điện có tỷ lệ đạt sống không bệnh tiến triển 1 năm là 63.2%, trong khi con số này ở nhóm bệnh nhân KO điều trị Trường Xung Điện chỉ là 11.8%.

=>> Nhóm bệnh nhân điều trị bằng Trường Xung Điện có tỷ lệ đạt sống còn toàn bộ 1 năm là 74.3%, trong khi con số này ở nhóm bệnh nhân KO điều trị Trường Xung Điện chỉ là 33%.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng Trường Xung Điện CÓ THỂ đem lại lợi ích sống còn cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ thuộc dạng khó điều trị. Cần nghiên cứu tiền cứu có đối chứng để xác nhận phát hiện của chúng tôi”.


Liệu đây sẽ là một hướng đi thành công, hay chỉ là những quan sát tình cờ đúng?

Chúng ta cùng chờ xem !



AdobeStock_192016766.jpeg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 525: THÊM THUỐC ĐƯỢC PHÊ DUYỆT TRONG GIA ĐÌNH UNG THƯ PHỔI: THUỐC TELISOTUZUMAB VEDOTIN-TLLV DÀNH CHO BIỂU LỘ QUÁ MỨC c-MET



1
. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 14/5/2025, Tập đoàn AbbVie đã ra thông cáo báo chí về Cục quản lý thực phẩm dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã phê duyệt cấp tốc cho Thuốc telisotuzumab vedotin-tllv dùng để điều trị cho những bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy giai đoạn di căn hoặc tiến triển cục bộ DƯƠNG TÍNH biểu lộ quá mức c-MET cao trước đó ĐÃ trải qua một liệu pháp điều trị toàn thân.



2. Quyết định này được đưa ra sau thành công ở phase2 của nghiên cứu LUMINOSITY. Nghiên cứu LUMINOSITY được thiết kế để đánh giá hiệu quả và an toàn của Thuốc telisotuzumab vedotin-tllv khi điều trị cho những bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy giai đoạn di căn hoặc tiến triển cục bộ DƯƠNG TÍNH biểu lộ quá mức c-MET cao trước đó ĐÃ trải qua một liệu pháp điều trị toàn thân.

Kết quả cho thấy:

=>> Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ đạt 35%.
=>> Trung vị thời gian duy trì đáp ứng đạt 7.2 tháng.


Một điều cần nói thêm, Thuốc telisotuzumab vedotin-tllv là dòng thuốc kháng thể liên hợp ADC. Đây là thuốc ADC đầu tiên và duy nhất cho đến nay được phê duyệt trong bối cảnh này.


Đúng như các nhà quan sát đã dự báo, đã qua kỷ nguyên của thuốc miễn dịch và thuốc đích. Nội trong 10 năm tới sẽ là kỷ nguyên của thuốc kháng thể liên hợp ADC. Với thiết kế vô cùng đặc biệt, ADC được dự báo sẽ mang tới những thay đổi ko thể tưởng tượng được ko chỉ riêng trong ung thư phổi mà còn bao trùm lấy toàn bộ lĩnh vực ung thư !


Chúng ta cùng chờ xem !




2f2511774a2df27a7385fb60446dd807.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 526: HIỆU QUẢ TRONG THẾ GIỚI THỰC CỦA ĐIỀU TRỊ CỦNG CỐ BẰNG THUỐC MIỄN DỊCH DURVALUMAB CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN 3 KHÔNG THỂ MỔ CẮT BỎ ĐÃ TRẢI QUA HOÁ XẠ ĐỒNG THỜI.



1
.Vào ngày 14/5/2025, Chuyên gia Vishal Navani cùng các đồng nghiệp đã cập nhật kết quả của nghiên cứu RELEVANCE. Nghiên cứu RELEVANCE được thiết kế để đánh giá hiệu quả trong thế giới thực của Thuốc miễn dịch Durvalumab khi dùng làm điều trị củng cố SAU khi đã hoá xạ đồng thời cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 3 KO thể mổ cắt bỏ ở Canada.


2. Tổng cộng 487 bệnh nhân từ 5 trung tâm y tế ở Canada đã được tuyển vô nghiên cứu. Trong đó:
-> Có 144 bệnh nhân chỉ Hoá xạ mà KO dùng củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab.
-> Có 343 bệnh nhân Hoá xạ và điều trị củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab.


Kết quả phân tích cho thấy:

=>> Có 47% bệnh nhân hoàn thành đầy đủ liệu trình củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab.

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của những bệnh nhân dùng củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab DÀI GẤP ĐÔI so với những bệnh nhân KO dùng, cụ thể là 44.6 tháng so với 21.3 tháng.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn toàn bộ 3 năm của những bệnh nhân dùng củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab CAO GẦN GẤP ĐÔI so với những bệnh nhân KO dùng, cụ thể là 56% so với 32%.

=>> Tỷ lệ đạt mốc sống còn toàn bộ 3 năm ở nhóm có bộc lộ miễn dịch PDL1 >= 50%, 1% =< PDL1 =< 49%, PDL1 <1% ở bệnh nhân chỉ hoá xạ mà KO dùng củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab lần lượt là 32%, 38% và 24%.

=>> Tỷ lệ đạt mốc sống còn toàn bộ 3 năm ở nhóm có bộc lộ miễn dịch PDL1 >= 50%, 1% =< PDL1 =< 49%, PDL1 <1% ở bệnh nhân hoá xạ và dùng củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab lần lượt là 69%, 44% và 39%.

=>> Bộc lộ miễn dịch PDL1 cao ( >=50% ) đi kèm với nguy cơ tử vong thấp hơn so với bộc lộ miễn dịch PDL1 âm tính ( <1% ).

=>> Những bệnh nhân hoàn thành đầy đủ liệu trình củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab có trung vị thời gian sống còn toàn bộ DÀI HƠN so với những bệnh nhân phải ngừng thuốc miễn dịch Durvalumab giữa chừng vì tác dụng phụ, cụ thể là chưa hoàn thiện và 41.3 tháng.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Thuốc miễn dịch Durvalumab chứng tỏ lợi ích trong thế giới thực cho những bệnh nhân ở Canada. Trong số những bệnh nhân dùng củng cố thuốc miễn dịch Durvalumab, có sự tương quan giữa bộc lộ miễn dịch PDL1 tăng và thời gian sống còn toàn bộ được kéo dài. Dù vậy, thời gian sống còn có thể bị rút ngắn nếu bệnh nhân phải ngừng thuốc miễn dịch Durvalumab giữa chừng do tác dụng phụ”.



Imfinzi6002PPS0.jpeg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 527: LÀM THẾ NÀO ĐỂ KÉO DÀI THỜI GIAN HỢP THUỐC CHO BỆNH NHÂN ALK: HƯỚNG ĐI GỘP ĐÍCH VỚI KHÁNG SINH MẠCH ???



1
. Trong gia đình ung thư phổi, gen ALK được mệnh danh là gen kim cương. KO hề quá lời khi nói ALK là kim cương bởi rất nhiều bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn cuối di căn bét tè lè nhè từ chân tới đầu DƯƠNG TÍNH ALK vẫn có thể sống khoẻ mạnh cả chục năm !!!

Tuy vậy, điều tuyệt vời đó ko phải dành cho tất cả khi thống kê chỉ ra rằng:

-> Có tới 35% bệnh nhân ALK khi điều trị bước đầu bằng Thuốc đích thế hệ 2 Alectinib hoặc Brigatinib sẽ bị kháng thuốc chỉ trong 12 tháng đầu tiên của việc điều trị.

->
Có tới 22% bệnh nhân ALK khi điều trị bước đầu bằng Thuốc đích thế hệ 3 Lorlatinib sẽ bị kháng thuốc chỉ trong 12 tháng đầu tiên của việc điều trị.

Từ đây, mong muốn kéo dài thời gian hợp thuốc- biến tất cả bệnh nhân ALK đều được hưởng lợi ích lâu dài như nhau là một hướng đi vô cùng quan trọng.

Hôm nay chúng ta sẽ bàn tới một hướng đi như vậy !



2. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 16/5/2025, chuyên gia Oscar Arrieta cùng các đồng nghiệp đã công bố kết quả của nghiên cứu ALEK-B. Nghiên cứu ALEK-B được thiết kế ở phase2 để đánh giá hiệu quả của phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 2 Alectinib + Thuốc kháng sinh mạch Bevacizumab khi điều trị BƯỚC ĐẦU cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ DƯƠNG TÍNH ALK.

Bệnh nhân trong nghiên cứu sẽ được dùng Thuốc đích th2 Alectinib liều 600mg uống 2 lần hằng ngày và truyền Bevacizumab theo liều 15mg/kg mỗi 3 tuần một.

Trong thời gian 2.5 năm, kể từ tháng 4/2020 cho tới tháng 8/2022, 41 bệnh nhân đủ điều kiện đã được đưa vào nghiên cứu trong đó có 7 bệnh nhân đã mắc di căn não ( chiếm 17%).

Tại trung vị thời gian theo dõi 34.5 tháng, kết quả phân tích cho thấy:

=>> Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 100%.
=>> Chí có 3% bệnh nhân bị kháng thuốc trong 12 tháng đầu tiên của việc điều trị.
=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống không bệnh tiến triển 3 NĂM là 64.2%.
=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn toàn bộ 3 NĂM lên đến 87.9%.
=>> Tỷ lệ đạt sống không bệnh tiến triển nội sọ 3 NĂM là 87.8%.
=>> Tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ mức độ 3 hoặc 4 là 46.3%. KO có trường hợp nào được ghi nhận tử vong do tác dụng phụ của phác đồ gộp.



3. Chúng ta thử làm một phép so sánh:

=>> Phác đồ gộp Thuốc đích th2 Alectinib + thuốc kháng sinh mạch Bevacizumab có tỷ lệ bệnh nhân kháng thuốc trong 1 năm đầu chỉ là 3%. Trong khi con số này ở phác đồ dùng đơn độc Thuốc đích Alectinib, Brigatinib và Lorlatinib lần lượt là 35%, 35% và 22% !!!

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống không bệnh tiến triển 3 NĂM khi dùng đơn độc Thuốc đích Alectinib, Brigatinib, lần lượt là 46.4% và 43%. Trong khi đó con số này ở phác đồ gộp Thuốc đích th2 Alectinib + thuốc kháng sinh mạch Bevacizumab là 64.2% !!! Chỉ có Thuốc đích th3 Lorlatinib là đạt được tỷ lệ sống không bệnh tiến triển 3 NĂM tương tự phác đồ gộp Alectinib + Bevacizumab với 63.5%.


Mặc dù đây đều là những dữ liệu được trích ra từ nghiên cứu RIÊNG, nó KO có tính khách quan. Dù vậy, hướng đi gộp Alectinib + Bevacizumab thực sự đang cho thấy hiệu quả đầy hứa hẹn.

Liệu đây sẽ là một tiêu chuẩn điều trị mới hay lại chỉ là những quan sát tình cờ đúng?


Chúng ta cùng chờ xem !



8ff99155b35b06055f4a.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 528: HIỆU QUẢ TUYỆT VỜI CỦA THUỐC MIỄN DỊCH CEMIPLIMAB KHI ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN TIẾN TRIỂN SỞ HỮU PDL1 CAO VÀ BỊ DI CĂN NÃO.



1
. Vào tháng 5/2025, chuyên gia Saadettin Kilickap cùng các đồng nghiệp đã công bố phân tích từ phase3 của nghiên cứu EMPOWER-LUNG 1.

Nghiên cứu EMPOWER-LUNG 1 được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Phác đồ dùng đơn độc Thuốc miễn dịch Cemiplimab khi đối đầu với phác đồ Hoá trị trong điều trị BƯỚC ĐẦU cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển sở hữu bộc lộ miễn dịch PDL1 cao >=50%.

Trong số 565 bệnh nhân được tuyển chọn tham gia nghiên cứu có 69 bệnh nhân ( chiếm 12%) bị di căn não và ĐÃ được xạ não. Trong 69 bệnh nhân này:

-> Có 34 bệnh nhân được điều trị đơn độc bằng Thuốc miễn dịch Cemiplimab.
-> Có 35 bệnh nhân được điều trị bằng Hoá trị.



2. Kết quả phân tích cho thấy:

=>> Xét trên những bệnh nhân di căn não:

+ Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của những bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch Cemiplimab DÀI GẤP 2.5 LẦN so với những bệnh nhân dùng Hoá trị, cụ thể là 52.4 tháng so với 20.7 tháng.

+ Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn toàn bộ 1 năm của những bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch Cemiplimab VƯỢT TRỘI so với những bệnh nhân dùng Hoá trị, cụ thể là 84.7% với 59.6%.

+ Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của những bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch Cemiplimab DÀI GẤP ĐÔI so với những bệnh nhân dùng Hoá trị, cụ thể là 12.5 tháng so với 5.3 tháng.

+ Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống không bệnh tiến triển 1 năm của những bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch Cemiplimab VƯỢT TRỘI so với những bệnh nhân dùng Hoá trị, cụ thể là 55.1% với 6.4%.


=>> Thuốc miễn dịch Cemiplimab cũng sở hữu khả năng dung nạp tốt hơn nhiều so với Hoá trị khi những bệnh nhân điều trị bằng Cemiplimab đều đạt được chất lượng sống tốt hơn với những tác dụng phụ ít hơn.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Thuốc miễn dịch Cemiplimab cải thiện thời gian sống còn so với Hoá trị khi điều trị bước đầu cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển có bộc lộ miễn dịch PDL1 cao >=50% và bị di căn não đã trải qua xạ não trước đó”.



libtayo-cemiplimab-rwlc-injection-500x500.png
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 529: TIN VUI: MỸ CẤP CHỈ ĐỊNH THEO DÕI NHANH CHO THUỐC ZL-1310 CỦA TRUNG QUỐC. NGÔI VỊ ĐỘC TÔN CỦA THUỐC TARLATAMAB CÓ GIÁ 1.6 TỶ/ THÁNG SẮP BỊ PHÁ BỎ ???



1
. Cách đây 2 tháng mình đã từng bàn về việc Thuốc ZL-1310 do Tập đoàn Zai Lab của Trung Quốc phát minh đang là niềm hy vọng sống còn cho những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn ĐÃ KHÁNG Hoá trị hoặc Thuốc miễn dịch.

Sở dĩ ZL-1310 là niềm hy vọng sống còn vì lời giải chính thức cho nhóm bệnh nhân này hiện đang là Thuốc Tarlatamab của Mỹ với giá 1.6 tỷ cho 1 tháng sử dụng !!! Đây là con số nằm ngoài khả năng chi trả của tuyệt đại đa số người dân ở những nước có thu nhập như Việt Nam.

Có lời giải mà ko có khả năng tiếp cận thì khác nào việc KO có lời giải ??? ZL-1310 do Trung Quốc phát minh được kỳ vọng sẽ mang đến lời giải cùng mức giá có thể tiếp cận được tới đại bộ phận người dân.

Tin vui là ngày đó đang đến gần !



2. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 19/5/2025, Tập đoàn Zai Lab của Trung Quốc đã ra thông cáo báo chí về việc Cục quản lý thực phẩm dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã cấp Chỉ Định Theo Dõi Nhanh cho Thuốc ZL-1310 trong điều trị bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn.

Quyết định này được đưa ra sau thành công ở phase 1a/1b của nghiên cứu NCT06179069. Dữ liệu chỉ ra hiệu quả của Thuốc ZL-1310 với :

=>> Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 74%.

=>> Thuốc ZL-1310 cho hiệu quả điều trị với khối u ở tất cả các liều được sử dụng trong nghiên cứu. Cụ thể là các liều 0.8mg/kg, 1.6mg/kg, 2.0mg/kg và 2.4mg/kg.

=>> Thuốc ZL-1310 sở hữu khả năng lên não rất tốt khi những bệnh nhân di căn não trong nghiên cứu đều cho đáp ứng nội sọ.

=>> ĐẶC BIỆT LƯU Ý: có 1 bệnh nhân cho đáp ứng với thuốc ZL-1310 mặc dù trước đó đã kháng thuốc Tarlatamab !

=>> Thuốc ZL-1310 cho dung nạp tốt khi tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ mức độ 3 trở lên là 20% và ko có bệnh nhân nào phải ngừng điều trị do tác dụng phụ của thuốc.



Chúc mừng cộng đồng ung thư phổi tế bào nhỏ !



AdobeStock_861997278-1024x576.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 530: THUỐC ĐÍCH D3S-001 DO TRUNG QUỐC PHÁT TRIỂN CÓ THỂ TRỞ THÀNH BOM TẤN TRONG CỘNG ĐỒNG ĐỘT BIẾN GEN KRAS-G12C.



1
. Vào ngày 19/5/2025, Đại học Trung Quốc Hồng Kông CUHK đã ra thông cáo báo chí về việc hợp tác với Tập đoàn D3Bio trong quá trình phát triển Thuốc đích D3S-001.

Thuốc đích D3S-001 do Tập đoàn D3Bio có trụ sở tại Thượng Hải Trung Quốc phát minh và nghiên cứu được dẫn đầu bởi các chuyên gia tại Đại học Trung Quốc Hồng Kông CUHK nhằm đánh giá hiệu quả của Thuốc đích D3S-001 khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, ung thư đại trực tràng và ung thư tuyến tuỵ.

Dữ liệu tại phase1 chỉ ra:

=>> Đối với những bệnh nhân CHƯA trải qua điều trị thuốc đích trước đó, Thuốc đích D3S-001 cho hiệu quả:
+ Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt xấp xỉ 100%, cụ thể là 97%.
+ Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt hơn 70%.
+ Tại thời điểm phân tích dữ liệu, có tới 70% bệnh nhân đạt mốc duy trì đáp ứng 6 tháng.

=>> Đối với những bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị thuốc đích trước đó, Thuốc đích D3S-001 vẫn cho thấy khả năng TRỊ KHÁNG, cụ thể:
+ Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 80%.
+ Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 30%.

=>> Thuốc đích D3S-001 sở hữu khả năng lên não tốt khi những bệnh nhân di căn não đều được xác nhận u não co ngót hoặc đạt được tình trạng bệnh ổn định.



2. Ví dụ điển hình là bệnh nhân Yu ( người đeo khẩu trang, ngồi bên phải trong ảnh ) bị chẩn đoán mắc ung thư phổi. Ông Yu đã được điều trị bằng Hoá trị, Thuốc miễn dịch nhưng sau đó bị KHÁNG thuốc. Yu đăng ký tham gia nghiên cứu Thuốc đích D3S-001 và đạt được kết quả đáp ứng ngoạn mục khi tình trạng bệnh khó thở của ông thuyên giảm nhanh chóng. Thậm chí kết quả chụp còn chỉ ra khối u đã hoàn toàn biến mất !!!

Hiện ông Yu đang dùng Thuốc đích D3S-001 ổn định ở tháng thứ 15 !!!



20250519_pic4.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 531: TẬP ĐOÀN DƯỢC PHẨM HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI PFIZER CỦA MỸ MUA QUYỀN PHÁT TRIỂN THUỐC MIỄN DỊCH CỦA TRUNG QUỐC VỚI BẢN HỢP ĐỒNG LÊN TỚI GẦN 5 TỶ ĐÔ. MỸ ĐANG THEO ĐUỔI CHÍNH SÁCH DÙNG TIỀN ĐỂ THU HẸP KHOẢNG CÁCH VỚI SỰ ĐI LÊN KINH HOÀNG CỦA TRUNG HOA !!!



1
. Cách đây 8 tháng, mình đã từng bàn về việc Thuốc miễn dịch Ivonescimab đã chính thức trở thành Ông Vua miễn dịch sau khi đánh bại cựu vương Pembrolizumab ( KEYTRUDA ). Thuốc miễn dịch Ivonescimab do Tập đoàn Akeso của TRUNG QUỐC phát minh. Sau đó Tập đoànSummit Therapeutics của Mỹ đã ký kết hợp đồng với tập đoàn Akeso để được độc quyền phát triển và thương mại hoá Ivonescimab ra thị trường toàn cầu. Bản hợp đồng giữa 2 tập đoàn có trị giá lên đến 5 tỷ đô trong đó bao gồm 500 triệu đô tiền mặt trả trước.


Cách đây 6 tháng mình đã từng bàn về việc Tập đoàn MERCK của Mỹ- nơi phát minh ra thuốc miễn dịch Keytruda đã ký kết hợp đồng với Công ty công nghệ sinh học LaNova của Trung Quốc để được độc quyền phát triển, sản xuất và thương mại hoá Thuốc miễn dịch LM-299 trên phạm vi toàn cầu. Bản hợp đồng có trị giá lên đến 3.3 tỷ đô, trong đó LaNova sẽ nhận được một khoản tiền trả trước là 588 triệu đô.


Cách đây 4 ngày mình đã từng bàn về Thuốc miễn dịch SSGJ-707 do Tập đoàn 3Sbio của Trung Quốc phát minh.

Điểm chung của cả 3 Thuốc miễn dịch Ivonescimab, LM-299 và SSGJ-707 là chúng cùng có nguyên lý hoạt động ức chế cả PD1 lẫn VEGF.

Hai kẻ đi trước là Ivonescimab và LM-299 đều đã được các Tập đoàn dược phẩm của Mỹ mua lại. Vậy còn SSGJ-707, số phận của nó sẽ ra sao?



2. Vào ngày 19/5/2025, Tập đoàn Pfizer của Mỹ ra thông cáo báo chí về việc đã ký kết hợp đồng với Tập đoàn 3Sbio của Trung Quốc để được độc quyền phát triển, sản xuất và thương mại hoá Thuốc miễn dịch SSGJ-707 trên phạm vi toàn cầu ngoài Trung Quốc.


Bản hợp đồng sẽ có trị giá lên tới gần 5 tỷ đô, cụ thể là 4.8 tỷ đô. Trong đó Tập đoàn 3Sbio sẽ nhận được một khoản thanh toán trước là 1.25 tỷ đô !!!


Trung Quốc đang vượt lên với tốc độ khủng khiếp, và để bám đuổi, Mỹ đã dùng tiền để mua lại công nghệ và chất xám từ đối thủ. Đây là chính sách cực kỳ khôn ngoan của kẻ vừa giỏi vừa có tiền-chỉ là đang tạm thời bị bỏ lại trong cuộc đua tới ngôi vương.


Trí tuệ đã bị đối phương vượt lên, vậy trước mắt có thể dùng tiền để mua chất xám từ đối thủ hòng cho bản thân có thêm thời gian tích luỹ tri thức và trở lại cuộc đua.




360_F_415504820_IOMsu9Y4nztipwj7NWi6C8JuYywk98MI.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 532: CẢI TIẾN TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN LAN TRÀN



1
. Tiêu chuẩn điều trị BƯỚC ĐẦU cho những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn là truyền tấn công 4 đợt bằng Hoá trị + Thuốc miễn dịch Atezolizumab rồi sau đó chuyển sang duy trì bằng Thuốc miễn dịch Atezolizumab mỗi 3 tuần một cho tới khi bệnh tiến triển.

Chiến lược này được Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA phê duyệt cách đây 6 năm, cụ thể là vào ngày 18/3/2019. Kể từ đó đến nay, nó đã chính thức trở thành tiêu chuẩn điều trị bước đầu cho những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn.

Vậy có thể cải tiến hướng đi này để trở nên tốt hơn? Hướng đi này hiện đang bao gồm 2 giai đoạn là:
-> Tấn công.
-> Duy trì.

Hôm nay chúng ta sẽ tập trung vào cải tiến phần duy trì với mong muốn đạt được sống còn tốt hơn khi xét trên toàn bộ chiến lược !



2. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 22/5/2025, Chuyên gia Hossein Borghaei cùng các đồng nghiệp đã công bố kết quả của nghiên cứu IMforte.

Nghiên cứu IMforte được thiết kế NGẪU NHIÊN ở phase3 có quy mô toàn cầu nhằm đánh giá hiệu quả của phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin khi so sánh đối đầu với phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc trong trường hợp dùng làm duy trì cho những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn TRƯỚC ĐÓ đã trải qua điều trị BƯỚC ĐẦU bằng phác đồ Hoá trị + Thuốc miễn dịch Atezolizumab ( Carboplatin + Etoposide + Atezolizumab ).


Tổng cộng 483 bệnh nhân đủ điều kiện đã được đưa vào nghiên cứu. Trong đó:
-> Có 242 bệnh nhân được điều trị duy trì bằng phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin.
-> Có 241 bệnh nhân được điều trị duy trì bằng phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc.


Tại trung vị thời gian theo dõi 15.0 tháng, kết quả phân tích cho thấy:

=>> Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của Phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin TỐT HƠN so với phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc, cụ thể là 5.4 tháng so với 2.1 tháng.

=>> Phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin giúp GIẢM nguy cơ tiến triển bệnh lên đến 46% so với phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc.

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của Phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin TỐT HƠN so với phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc, cụ thể là 13.2 tháng so với 10.6 tháng.

=>> Phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin giúp GIẢM nguy cơ tử vong đến 27% so với phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc.

=>> Tuy phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin cho thời gian sống còn tốt hơn phác đồ Thuốc miễn dịch Atezolizumab đơn độc, nhưng nó lại ĐỘC HƠN. Cụ thể là tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng mức độ 3 hoặc 4 ở 2 phác đồ lần lượt là 25.6% và 5.8%. Tỷ lệ bệnh nhân phải ngừng điều trị do tác dụng phụ ở phác đồ gộp cũng cao hơn phác đồ đơn độc, cụ thể là 6.2% so với 3.3%.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Nghiên cứu IMforte là nghiên cứu phase3 có quy mô toàn cầu ĐẦU TIÊN chứng tỏ được lợi ích sống còn khi điều trị duy trì ở BƯỚC ĐẦU cho bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn. Phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Atezolizumab + Thuốc Lurbinectedin sẽ là một lựa chọn mới cho những bệnh nhân mắc căn bệnh tàn khốc này ”.



pill36736-1.png
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 533: THUỐC ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 4 DO TRUNG QUỐC PHÁT MINH !!!




1
. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 23/5/2025, thông tin Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 do Tập đoàn DIZAL của Trung Quốc phát minh đã được tiết lộ.

Nghiên cứu TIAN-SHAN2 được thiết kế ở phase1/2 nhằm đánh giá hiệu quả của Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR ĐÃ KHÁNG thuốc đích trước đó ( trong đó có thuốc đích thế hệ 3 ).

Tổng cộng 12 bệnh nhân đã được tuyển vô nghiên cứu và được điều trị bằng thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 với liều từ 20mg cho đến 90mg một lần mỗi ngày. Toàn bộ 12 bệnh nhân này đều đã trải qua NHIỀU phác đồ điều trị và được tiên lượng xấu khi còn rất ÍT lựa chọn. Trung vị SỐ phác đồ mà những bệnh nhân này đã trải qua lên đến tận con số 5 !!! Trong đó:

-> Tất cả họ đều đã kháng Thuốc đích và Hoá trị.
-> Có 11 trong số 12 bệnh nhân này đã kháng thuốc đích EGFR thế hệ 3.



2. Tại thời điểm phân tích dữ liệu, Kết quả chỉ ra :

=>> 10 trong số 12 bệnh nhân này ( chiếm 83.3%) có khối u co ngót nhỏ lại sau khi được điều trị bằng Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008.

=>> Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 cho đáp ứng với nhiều biến thể EGFR khác nhau ở liều 20mg trở lên.

=>> Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 sở hữu khả năng lên não rất tốt khi đáp ứng được xác nhận ở những bệnh nhân di căn não.

=>> Nghiên cứu ngừng tuyển bệnh nhân vào 24/12/2024, vậy tính tới ngày hôm nay 24/5/2025, tức là đã 5 tháng trôi qua và hiện bệnh nhân trong nghiên cứu cho đáp ứng với Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 dài nhất đạt được là hơn 6 tháng. Nghiên cứu vẫn đang diễn ra và thời gian đáp ứng sẽ ko chỉ dừng lại ở con số 6 !



Nhóm nghiên cứu do chuyên gia Mengzhao Wang đứng đầu kết luận:” Thuốc đích EGFR thế hệ 4 DZD6008 sở hữu khả năng dung nạp tốt với hiệu quả đầy hứa hẹn khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR trước đó đã trải qua NHIỀU phác đồ điều trị ".


AI-for-drug-discovery.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 534: NGOÀI KHẢ NĂNG TRỊ KHÁNG, THUỐC KHÁNG THỂ LIÊN HỢP SACITUZUMAB TIRUMOTECAN CÒN CHO HIỆU QUẢ RẤT TỐT KHI ĐIỀU TRỊ ĐỘT BIẾN HIẾM EGFR



1
. Cách đây 2.5 tháng mình từng bàn về việc Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan đã được Cục quản lý sản phẩm y tế quốc gia Trung Quốc NMPA phê duyệt khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy giai đoạn di căn hoặc tiến triển cục bộ DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR ĐÃ KHÁNG Thuốc đích và Hoá trị platinum.

Là dòng kháng thể liên hợp với cấu tạo vô cùng đặc biệt, Sacituzumab Tirumotecan ko chỉ giới hạn bản thân ở mỗi việc trị kháng.

Nó có rất nhiều khả năng !!!



2. Vào cuối tháng 5/2025, Chuyên gia Li Zhang cùng các đồng nghiệp đã công bố kết quả của nghiên cứu NCT05631262. Nghiên cứu NCT05631262 được thiết kế tại phase2 để đánh giá hiệu quả của Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR HIẾM trước đó ĐÃ KHÁNG liệu pháp điều trị toàn thân.


Tổng cộng 42 bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vô nghiên cứu. Cụ thể :

-> Có 23 bệnh nhân sở hữu đột biến hiếm EGFR G719X, S768I, L861Q.
-> Có 19 bệnh nhân sở hữu đột biến chèn gen EGFR EXON20.
-> Trung vị tuổi của bệnh nhân là 61 với 33.3% là nam giới.
-> Trung vị SỐ phác đồ mà bệnh nhân đã trải qua trước đó là 2.


Tại trung vị thời gian theo dõi 9.2 tháng, kết quả phân tích cho thấy:

=>> Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 85.7%.

=>> Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 35.7%.

=>> Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 9.5 tháng.

=>> Xét riêng phân nhóm 23 bệnh nhân sỡ hữu đột biến hiếm EGFR G719X, S768I, L861Q : Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 34.8% và trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 10.9 tháng.

=>> Xét riêng phân nhóm 19 bệnh nhân sỡ hữu đột biến chèn gen EGFR EXON20 : Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 36.8% và trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 9 tháng.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ từ mức độ 3 trở lên là 52.4%. KO có bệnh nhân nào phải ngừng điều trị hoặc tử vong vì tác dụng phụ. KO có bệnh nhân nào mắc tác dụng phụ viêm phổi/bệnh phổi kẽ.



Nhóm nghiên cứu kết luận :” Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan cho thấy hiệu quả đầy hứa hẹn với tác dụng phụ có thể xử lý được khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR HIẾM trước đó ĐÃ trải qua điều trị. Đây sẽ là một lựa chọn đầy tiềm năng cho nhóm bệnh nhân này “.



v2-ab8963f9300428af4cd0e00c7310e510_1440w.png
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 535: GIẢI QUYẾT BÀI TOÁN KHÁNG THUỐC CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN DUNG HỢP GEN RET. SỰ RA ĐỜI CỦA THUỐC ĐÍCH THẾ HỆ 2 EP0031 !



1
. Vào cuối tháng 5/2025, chuyên gia Guzman Alonso cùng các đồng nghiệp đã cập nhật kết quả ở phase1 của nghiên cứu được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc đích RET thế hệ 2 EP0031.

Nghiên cứu được thực hiện tại Mỹ và Châu Âu. Tổng cộng 40 bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vô nghiên cứu. Cụ thể :

-> Có 22 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, trong đó có 20 bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị thuốc đích RET trước đó. SỐ phác đồ mà 22 bệnh nhân này đã trải qua là từ 1 đến 6 phác đồ.
-> Có 12 bệnh nhân ung thư tuyến giáp dạng tuỷ, trong đó có 7 bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị thuốc đích RET trước đó. SỐ phác đồ mà 12 bệnh nhân này đã trải qua là từ 1 đến 4 phác đồ.
-> Có 6 bệnh nhân ung thư khác.


Bệnh nhân trong nghiên cứu sẽ được dùng Thuốc đích RET thế hệ 2 EP0031 ở các liều 20mg, 60mg, 90mg và 120mg một lần mỗi ngày. Cụ thể:
-> Có 3 bệnh nhân dùng liều 20mg một lần mỗi ngày.
-> Có 10 bệnh nhân dùng liều 60mg một lần mỗi ngày.
-> Có 16 bệnh nhân dùng liều 90mg một lần mỗi ngày.
-> Có 11 bệnh nhân dùng liều 120mg một lần mỗi ngày.



2. Tại thời điểm phân tích dữ liệu:

=>> Đối với những bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị Thuốc đích RET trước đó : Có 25 bệnh nhân đủ điều kiện để đánh giá bao gồm 15 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, 7 bệnh nhân ung thư tuyến giáp dạng tuỷ và 3 bệnh nhân ung thư khác.

Xét riêng phân nhóm bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, kết quả phân tích cho thấy :

+ Trung vị thời gian duy trì đáp ứng đạt 7.3 tháng.

+ Có 5 bệnh nhân cho đáp ứng một phần và 6 bệnh nhân đạt tình trạng bệnh ổn định.

+ Thuốc đích RET thế hệ 2 EP0031 sở hữu khả năng lên não đặc biệt tốt khi 3 trong 5 bệnh nhân có khối u di căn ở não đã hoàn toàn biến mất sau điều trị !!!


=>> Đối với những bệnh nhân CHƯA trải qua điều trị Thuốc đích RET trước đó : Có 2 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ đủ điều kiện để đánh giá trong đó có 1 bệnh nhân đạt ĐÁP ỨNG HOÀN TOÀN và 1 bệnh nhân đáp ứng một phần.


=>> Dữ liệu cũng chỉ ra Thuốc đích RET thế hệ 2 EP0031 có khả năng TRỊ KHÁNG cho các Thuốc đích RET thế hệ 1 khi những bệnh nhân kháng thuốc đích RET thế hệ 1 cho đáp ứng tốt với điều trị.



Nhóm nghiên cứu kết luận :” Hiện những bệnh nhân KHÁNG thuốc đích RET thế hệ 1 có nhu cầu cao nhưng chưa được đáp ứng. Thuốc đích RET thế hệ 2 EP0031 sẽ là một lời giải đầy hứa hẹn cho nhóm bệnh nhân này “.



digital-health.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 536: BÀN VỀ HƯỚNG ĐI THUỐC KHÁNG THỂ LIÊN HỢP ĐANG CÓ THAM VỌNG THAY THẾ THUỐC MIỄN DỊCH !!!



1
. Tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới Pfizer của Mỹ đang đi tiên phong trong việc phát triển thuốc kháng thể liên hợp ADC ức chế PDL1 với tham vọng sẽ làm tốt hơn những thuốc miễn dịch ức chế PDL1 đã có sẵn trên thị trường như Atezolizumab, Durvalumab, Avelumab…


Cụ thể hoá cho tham vọng này là SGN-PDL1V- một loại thuốc kháng thể liên hợp ức chế PDL1 của Tập đoàn Pfizer ( ban đầu do Tập đoàn Seagen nghiên cứu và phát triển nhưng vào năm 2023, tập đoàn Seagen đã bị Tập đoàn Pfizer thâu tóm với giá 43 tỷ đô !!! ). Hiện thế giới có 3 thuốc kháng thể liên hợp đi theo hướng ức chế PDL1 và SGN-PDL1V là thuốc đầu tiên trong 3 thuốc đạt đến mốc nghiên cứu ở phase3.


Tuy đi đầu nhưng những dữ liệu được tiết lộ cho thấy Thuốc SGN-PDL1V ko đạt được kết quả như kỳ vọng.


Đi theo sau SGN-PDL1V là thuốc HLX43 do Trung Quốc tự nghiên cứu và phát triển ! Tuy cùng là dòng ADC ức chế PDL1, nhưng với cấu trúc phân tử được thiết kế tiên tiến hơn, Thuốc HLX43 đang được kỳ vọng sẽ bù đắp những thiếu hụt mà SGN-PDL1V chưa làm được.



2. Vào cuối tháng 5/2025, chuyên gia Jie Wang cùng các đồng nghiệp đã cập nhật kết quả mới nhất ở phase1 của nghiên cứu được thiết kế để đánh giá hiệu quả và tính an toàn của Thuốc kháng thể liên hợp ADC HLX43 khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư thể rắn ( bao gồm ung thư phổi ) giai đoạn di căn hoặc tiến triển trước đó ĐÃ KHÁNG hoặc KO ĐÁP ỨNG với các liệu pháp điều trị tiêu chuẩn. Đây đều là những bệnh nhân được tiên lượng xấu khi còn ÍT lựa chọn điều trị.

Nghiên cứu tại phase1 được chia làm 2 phần :


=>> Tại phần 1, nghiên cứu sẽ tập trung vào đánh giá hiệu quả và tính an toàn của thuốc trong quá trình lên thang liều.

Tổng cộng 18 bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vô nghiên cứu. Trong đó :
-> Có 12 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
-> Có 1 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ.
-> Có 1 bệnh nhân ung thư cổ tử cung loại biểu mô tế bào vảy.
-> Có 1 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy tuyến ức.
-> Có 1 bệnh nhân ung thư vòm họng.
-> Có 1 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến sợi tử cung.
-> Có 1 bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ.

Bệnh nhân sẽ được dùng các liều 0.5mg/kg, 1mg/kg, 2mg/kg, 3mg/kg, 4mg/kg. Cụ thể :

-> Có 3 bệnh nhân dùng liều 0.5mg/kg.
-> Có 3 bệnh nhân dùng liều 1mg/kg.
-> Có 3 bệnh nhân dùng liều 2mg/kg.
-> Có 3 bệnh nhân dùng liều 3mg/kg.
-> Có 6 bệnh nhân dùng liều 4mg/kg.


Dữ liệu chỉ ra Thuốc kháng thể liên hợp ADC HLX43 cho tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 31.3% và sở hữu khả năng dung nạp tốt khi hầu hết các tác dụng phụ mà bệnh nhân mắc phải đều chỉ ở mức độ 1 hoặc 2. Đáng lưu ý bệnh nhân dùng liều 4mg/kg đã mắc độc tố giới hạn liều.



=>> Tại phần 2, nghiên cứu tập trung vào đánh giá hiệu quả và tính an toàn của thuốc tại các liều 2mg/kg, 2.5mg/kg và 3mg/kg khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn di căn hoặc tiến triển trước đó ĐÃ KHÁNG các liệu pháp điều trị tiêu chuẩn.

Tại thời điểm công bố, dữ liệu mới hoàn thiện ở 21 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dùng liều 2mg/kg. Kết quả cho thấy:

-> Thuốc kháng thể liên hợp ADC HLX43 cho tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 81.0%.
-> Thuốc kháng thể liên hợp ADC HLX43 cho tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 38.1%.
-> Ko có bệnh nhân nào đạt đáp ứng hoàn toàn và có 8 bệnh nhân cho đáp ứng một phần.
-> Tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ mức độ 3 trở lên là 33.3%.




Nhóm nghiên cứu kết luận :” Thuốc kháng thể liên hợp HLX43 cho hiệu quả và dung nạp tốt khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư thể rắn giai đoạn tiến triển ( bao gồm cả ung thư phổi không tế bào nhỏ ) trước đó ĐÃ THẤT BẠI với liệu pháp điều trị tiêu chuẩn. Cần có nghiên cứu mở rộng để xác định hiệu quả thực sự của HLX43 “.



Trong cuộc đua vũ bão đi tìm thuốc mới, có cảm tưởng các Tập đoàn sừng sỏ trên thế giới đều đang bị hụt hơi trước….Trung Quốc !!!



0171267423a24fc1a0606d0c7571a722.jpeg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 537 : THUỐC KHÁNG THỂ LIÊN HỢP SACITUZUMAB TIRUMOTECAN CHO HIỆU QUẢ THẾ NÀO KHI ĐIỀU TRỊ CHO NHỮNG BỆNH NHÂN KHÁNG ĐÍCH EGFR ?



1
. Cách đây 2.5 tháng, mình từng bàn về việc Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan đã được Cục quản lý sản phẩm y tế quốc gia Trung Quốc NMPA phê duyệt khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy giai đoạn di căn hoặc tiến triển cục bộ DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR ĐÃ KHÁNG Thuốc đích và Hoá trị platinum.

Tại thời điểm đó, thông tin chỉ dừng lại ở việc thông báo phê duyệt mà chưa rõ lý do tại sao phê duyệt- tức hiệu quả cụ thể của Thuốc Sacituzumab Tirumotecan còn chưa được biết rõ.

Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau đi làm rõ vấn đề này !



2. Vào cuối tháng 5/2025, Chuyên gia Li Zhang cùng các đồng nghiệp đã công bố kết quả của nghiên cứu OptiTROP-Lung03. Nghiên cứu OptiTROP-Lung03 được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan khi ĐỐI ĐẦU với Thuốc Docetaxel trong điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR trước đó ĐÃ KHÁNG Thuốc đích và Hoá trị platinum.


Tổng cộng 137 bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vô nghiên cứu. Trong đó :
-> Trung vị tuổi của bệnh nhân là 56.
-> HẦU HẾT bệnh nhân đều đã kháng thuốc đích thế hệ 3, cụ thể tỷ lệ bệnh nhân trong nghiên cứu đã kháng thuốc đích thế hệ 3 là 93.4%.


Bệnh nhân trong nghiên cứu sẽ được điều trị như sau :
-> Có 91 bệnh nhân được điều trị bằng Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan.
-> Có 46 bệnh nhân được điều trị bằng Thuốc Docetaxel.


Tại thời điểm phân tích dữ liệu, kết quả cho thấy :

=>> Tỷ lệ đáp ứng khách quan của Thuốc Sacituzumab Tirumotecan CAO GẤP BA so với Thuốc Docetaxel, cụ thể là 45.1% so với 15.6%.

=>> Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của Thuốc Sacituzumab Tirumotecan DÀI GẤP ĐÔI so với Thuốc Docetaxel, cụ thể là 6.9 tháng so với 2.8 tháng.

=>> Tại thời điểm phân tích dữ liệu, tỷ lệ bệnh nhân vẫn còn đang điều trị Thuốc Sacituzumab Tirumotecan CAO GẤP 6 LẦN so với Thuốc Docetaxel, cụ thể là 25.3% so với 4.3%.

=>> Dữ liệu thời gian sống còn toàn bộ chưa hoàn thiện nhưng tại thời điểm phân tích, Thuốc Sacituzumab Tirumotecan có xu hướng cải thiện sống còn toàn bộ khi so với Thuốc Docetaxel với tỷ số nguy hại HR 0.49.

=>> Thuốc Sacituzumab Tirumotecan cho khả năng dung nạp TỐT HƠN so với Thuốc Docetaxel khi tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ từ mức độ 3 trở lên khi điều trị bằng Thuốc Sacituzumab Tirumotecan ÍT HƠN so với Thuốc Docetaxel, cụ thể là 56.0% so với 71.7%. Tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ nghiêm trọng khi điều trị bằng Thuốc Sacituzumab Tirumotecan cũng ÍT HƠN RẤT NHIỀU khi so với Thuốc Docetaxel, cụ thể là 16.5% so với 41.3%.



Nhóm nghiên cứu kết luận :” Thuốc kháng thể liên hợp Sacituzumab Tirumotecan giúp CẢI THIỆN tỷ lệ đáp ứng khách quan cũng như thời gian sống còn khi so với Thuốc Docetaxel trong điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR trước đó ĐÃ KHÁNG thuốc đích và hoá trị. Kết quả này ủng hộ thuốc Sacituzumab Tirumotecan sẽ là một tiêu chuẩn chăm sóc mới dành cho nhóm bệnh nhân này “.



unnamed.jpg
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 538: SẮP CÓ THUỐC ĐÍCH CHÍNH THỨC CHO ĐỘT BIẾN GEN HER2. MỸ CẤP CHỈ ĐỊNH ƯU TIÊN XEM XÉT THUỐC ĐÍCH SEVABERTINIB !!!



1
. Ở các bài cũ mình đã từng bàn về 2 loại Thuốc đích bom tấn cho đột biến gen HER2 là Thuốc đích Zongertinib và Thuốc đích BAY2927088.

Cách đây 3.5 tháng mình đã từng bàn về việc Cục quản lý thực phẩm dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã chấp nhận ưu tiên xem xét Thuốc đích Zongertinib. Ưu tiên xem xét đồng nghĩa với việc chỉ trong vòng 6 tháng tới, FDA sẽ đưa ra quyết định có phê duyệt hay là ko !

Rất vui là nội trong năm 2025 này, cộng đồng HER2 khả năng sẽ ko chỉ có 1 mà là 2 Thuốc đích được phê duyệt !!



2. Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 28/5/2025, Tập đoàn dược phẩm Bayer ra thông cáo báo chí về việc Cục quản lý thực phẩm dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã chấp nhận ưu tiên xem xét Thuốc đích Sevabertinib ( BAY2927088 ) khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển DƯƠNG TÍNH đột biến gen HER2 ĐÃ trải qua điều trị toàn thân trước đó.

Quyết định này được đưa ra sau thành công ở phase1/2 của nghiên cứu SOHO-01. Nghiên cứu SOHO-01 được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc đích Sevabertinib khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển DƯƠNG TÍNH đột biến gen HER2 có bệnh tiến triển SAU khi đã trải qua ít nhất 1 liệu pháp điều trị toàn thân và CHƯA điều trị đích nhắm HER2 trước đó hoặc ĐÃ điều trị thuốc kháng thể liên hợp nhắm HER2 trước đó.


Tổng cộng có 78 bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vô nghiên cứu. Bệnh nhân sẽ được dùng Thuốc đích Sevabertinib qua đường uống liều 20mg 2 lần mỗi ngày. Trong đó :

-> Có 44 bệnh nhân CHƯA trải qua điều trị đích nhắm HER2.
-> Có 34 bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị thuốc kháng thể liên hợp nhắm HER2.


Tại thời điểm phân tích dữ liệu, kết quả chỉ ra :

=>> Đối với những bệnh nhân CHƯA trải qua điều trị đích nhắm HER2 :
+ Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 81.8%.
+ Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 70.5%.
+ Trung vị thời gian duy trì đáp ứng đạt 8.7 tháng.


=>> Đối với những bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị thuốc kháng thể liên hợp nhắm HER2 :
+ Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 52.9%.
+ Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 35.3%.
+ Trung vị thời gian duy trì đáp ứng đạt 9.5 tháng.


Khi chưa tìm ra điểm yếu chí tử của ung thư, lời giải lúc đó là một thứ xa xỉ. Một khi điểm yếu chí tử được nhìn ra, các phương án sẽ xuất hiện một cách dồn dập !!!

Chúc mừng cộng đồng HER2 !




ImageForNews_38484_16418280459942490.png
 

xemay12345678

Xe tăng
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
1,128
Động cơ
266,381 Mã lực
BÀI SỐ 539: TIN SỐC : THUỐC PATRITUMAB DERUXTECAN THẤT BẠI KHI TRỊ KHÁNG ĐÍCH CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN GEN EGFR!!!



1
. Thuốc Patritumab deruxtecan đã được mình bàn đến nhiều lần trên nhóm trong vòng 2 năm trở lại đây. Trong các bài viết đó, chúng ta thấy rằng Thuốc Patritumab deruxtecan thực sự cho thấy là một hướng đi đầy hứa hẹn khi làm lời giải cho bài toán kháng thuốc đích thế hệ 3 EGFR !!!


Dù vậy, con đường từ những hứa hẹn ban đầu cho tới khi thành công hoàn toàn chưa bao giờ là dễ dàng cả. Thống kê chỉ ra có đến hơn 90% những nghiên cứu thuốc sẽ đi vào ngõ cụt, mãi mãi ko bao giờ được thương mại hoá và rồi trở thành câu chuyện kể cho những ứng viên theo sau đang hăm hở lao vào cuộc đua.


Còn Patritumab deruxtecan? Thay vì điền tên mình vào danh sách kê đơn thì Patritumab deruxtecan đã chính thức ghi tên mình trong câu chuyện kể !!!



2. Cách đây chưa đầy 8 tiếng đồng hồ, tức vào ngày 29/5/2025, Tập đoàn dược phẩm MERCK đã ra thông cáo báo chí về việc TỰ NGUYỆN RÚT đơn xin cấp phép Thuốc Patritumab deruxtecan tới Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA.

Quyết định tự nguyện rút đơn xin cấp phép này được đưa ra sau kết quả đáng thất vọng ở phase3 của nghiên cứu HERTHENA-Lung02.

Nghiên cứu HERTHENA-Lung02 được thiết kế để để so sánh đối đầu giữa Thuốc Patritumab deruxtecan với Hoá trị platinum khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn di căn hoặc tiến triển cục bộ DƯƠNG TÍNH đột biến gen EGFR ( EXON 19 hoặc L858R) trước đó ĐÃ KHÁNG Thuốc đích EGFR thế hệ 3 như Osimertinib, Lazertinib, Aumolertinib, Alflutinib…

Kết quả tại phase3 chỉ ra rằng Thuốc Patritumab deruxtecan KO CẢI THIỆN SỐNG CÒN khi so với Hoá trị !!!


Eliav Barr, lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn MERCK phát biểu trước báo giới :” Kết quả này là lời nhắc nhở về việc điều trị những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ EGFR từ bước 2 trở đi khó khăn đến nhường nào. Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn tới bệnh nhân và toàn thể gia đình họ đã tham gia vào nghiên cứu này “.



Khoa học là vậy: rất công khai, rất minh bạch, rất rõ ràng. Khoa học mang đến niềm tin chứ ko gieo rắc những thứ viển vông hy vọng hão huyền. Thành công ở những phase đầu hoặc có thể là ĐÚNG đối với một nhóm nhỏ hoặc đó đơn thuần chỉ là những quan sát TÌNH CỜ đúng chứ chưa bao giờ...thực sự đúng cả !



_95844971_joshua3.jpg
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top