Thời nhà Tây Sơn quá ngắn ngủi và suốt ngày đánh đấm nên cũng không thấy có nguồn sử liệu chính thống nào của nhà Tây Sơn. Sau đó nhà Nguyễn kéo dài đến năm 1945, tất nhiên sử của triều đại này khi viết về kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm và gần nhất của dòng họ mình thì chắc cũng không thể khách quan được. Sau 1945 thì có 2 nguồn sử, một từ nam vĩ tuyến 17, một từ bắc vĩ tuyến 17. Nguồn phía nam thì cũng chỉ có một thời gian ngắn, đánh giá về vua Gia Long và vua Quang Trung thì đều coi trọng, và đặt tên đường cho cả 2 vị. Nguồn phía bắc thì kéo dài liên tục từ 1945 đến nay và tư tưởng chủ đạo là phê phán vua Gia Long và các vua Nguyễn (vì có lẽ cũng là kẻ thù giai cấp của triều hiện tại), và chỉ ca tụng vua Quang Trung. Tuy nhiên gần đây thì "nhân dân" càng ngày càng chán ngán với bọn văn nô, bồi bút, tuyên huấn, dlv... vì chúng nó chuyên nhồi sọ, bóp méo, xuyên tạc sự thật, nên tất cả những gì chúng nó nói và in trong các tài liệu chính thống đều bị "nhân dân" xét lại. Tâm lý ban đầu thì sẽ là phản bác sạch trơn và tin ngược lại những gì bọn "chính thống" nói. Phải sau một thời gian dài nữa, khi hết cái tâm lý phủ địng sạch trơn ban đầu, thì chắc "nhân dân" mới có thể có lại những đánh giá, nhận định khách quan về 2 vị vua này. Các tài liệu nuớc ngoài (các giáo sĩ, nhà buôn....) vào thời kỳ đó sẽ là một nguồn quan trọng giúp khắc họa lại lịch sử một cách khách quan hơn.
ĐỘT PHÁ TRONG NHẬN THỨC VỀ CHÚA NGUYỄN, TRIỀU NGUYỄN

Thứ năm, 16 Tháng 12 2010 21:38
GS Phan Huy Lê
Đến giờ chúng ta mới tổ chức hội thảo để nhìn nhận, đánh giá lại một thời kỳ lịch sử đã bị ứng xử không công bằng, liệu có muộn không? Nhất là khi, rất nhiều thế hệ học sinh, sinh viên đã học qua SGK và có cái nhìn lệch lạc, một chiều về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn?
- Nói chậm thì cũng đúng, vì
quan điểm phê phán thời kỳ chúa Nguyễn, nhà Nguyễn gần như trở thành quan điểm chính thống. Quan điểm này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1954, đỉnh cao là năm 1960 - 1962, từ đó thành quan điểm ảnh hưởng đến tất cả những công trình nghiên cứu, kể cả sách giáo khoa phổ thông cũng như đại học, dù không có sự chỉ đạo cụ thể nào như thế, nhưng một số cuốn sách được xem là chính thống đưa ra quan điểm đó và nhiều người cứ hướng theo.
Quan điểm này có bối cảnh khách quan, hình thành trong thời kỳ chiến tranh, khi mục tiêu sống còn là dành độc lập và thống nhất tổ quốc. Bối cảnh chính trị đó tác động mạnh đến nhận thức của giới Sử học, nhưng bản thân giới sử học cũng phải chịu trách nhiệm về mặt phương pháp luận.
Nghĩa là, ta chính thức thừa nhận quan điểm phê phán và phủ định trước đây là không khách quan?
- Đúng vậy, ta có thể nhìn thấy những thành tựu rất rõ ràng và to lớn của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, của cả thời kỳ lịch sử trên ba thế kỷ đó để lại. Ví dụ như mở rộng lãnh thổ vào tận đồng bằng sông Cửu Long, xác lập chủ quyền trên vùng đất mới, rồi trên cơ sở đó đi tới thống nhất quốc gia trên một lãnh thổ rộng lớn tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo.
Xác lập lãnh thổ hiện đại là mốc cực kỳ quan trọng trong lịch sử mỗi quốc gia – dân tộc.
Hay những thành tựu văn hóa của thời Nguyễn cũng là một cống hiến to lớn. Có tới ba di sản văn hóa được UNESCO công nhận có giá trị toàn cầu thuộc về thời kỳ này: Cố đô Huế, Hội An và Nhã nhạc cung đình Huế. Cố đô Huế tuy thời gian tồn tại chỉ từ 1802 - 1945, trước đó là Phú Xuân của chúa Nguyễn, Phú Xuân của Tây Sơn, nhưng về phương diện khác đây là trung tâm chính trị, văn hóa, quyền lực của một nhà nước Việt Nam thống nhất từ Bắc đến Nam, phản ánh được bước phát triển cao hơn của lãnh thổ quốc gia, quy tụ được các giá trị văn hóa của cả lãnh thổ rộng lớn. Hội An cũng là sản phẩm của thời kỳ này, thuộc loại hình thương cảng, trung tâm kinh tế, mậu dịch đối ngoại, giao lưu quốc tế trong thời kỳ hội nhập mạnh.
Chưa có Quốc sử quán nào hoạt động hiệu quả như triều Nguyễn, để lại cho ta một di sản cực kỳ đồ sộ. Di sản văn hóa chữ viết của thời kỳ này vô cùng phong phú với khối lượng lớn các bộ quốc sử, địa chí, hội điển, văn bia, châu bản, địa bạ, gia phả... Một phần rất quan trọng nữa là các di sản văn hóa vật thể không những của thời kỳ này mà của cả thời đại trước đều được bảo tồn, trùng tu vào thời Nguyễn, kể cả những di sản lâu đời (có từ thời Lý đến Hậu Lê) như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa Dâu... nhờ đó lưu giữ được nhiều di sản trước Nguyễn.
Tất nhiên đi sâu vào thời kỳ Nguyễn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thảo luận, nhưng quan điểm trong hội thảo này sẽ xích lại gần nhau qua không khí học thuật tự do, tranh luận cởi mở, để qua cọ xát sẽ tiếp cận sự thật trung thực nhất. Ví dụ như công lao thống nhất đất nước là của nhà Nguyễn nhưng còn có vai trò của Tây Sơn?
Trước đây có hai xu hướng đối nghịch nhau, có lúc nhìn nhận tất cả công lao cho Tây Sơn, sau lại phủ nhận Tây Sơn, ghi hết công lao cho nhà Nguyễn. Cả hai quan điểm cục đoan đều không đúng, vì lịch sử là sự tiếp nối và phát triển trong mâu thuẫn và có lúc có vẻ như nghịch lý.