Có cảm giác phụ nữ ngoài ấy kể từ sau CMT8 được tháo lổng sổ cùi ngồi luôn vắt vẻo trên cổ trên đầu đàn ông nhỉ? Không bao giờ chịu tụt xuống ngang hàng để thèm nghe nửa kia nhỉ?
Có phải mặt trái của phong trào giải phóng phụ nữ là đây chăng? Sao trong này đàn bà đàn ông không bị vậy?
Khịa nhưng nghiêm túc đấy nhé!
...Sau ngày cách mạng thành công, hình như người làm cách mạng mất luôn lễ nghĩa bình thường, coi như thứ xà bần vướng víu, dọn quách 1 lần cùng thực dân phong kiến thì phải?
Thấy kiểu ngoài đó người ta thích ăn tươi nuốt sống nhau (dù ngoài mặt lịch sự lám, không bỗ bả như người đang trong) chứ không biết cách thực lòng chung sống, yêu thương nhau. Không biết có phải do đánh đổ nên tảng phong kiến mà bỏ mất luôn văn hóa luôn?
he he, không phải đâu cụ Kiên ơi, nhà lý luận biện chứng như cụ sao đổ lỗi oan ức cho CM thế.
cụ cứ nhìn mấy bà nhà cụ Bá Kiến làng Vũ Đại hay bà Quỳ vợ cụ Vũ Bằng cai trị các ông chồng thì biết trước CM còn ác liệt chả kém
mà cả ngàn năm trước đã thế rồi, gốc của nó là do hôn nhân của người Việt ta, cùng với thời gian, cái "công đức" của người nữ (cáng đáng vc nhà chồng, nuôi con, đảm đang làm tất việc nhà...) đóng góp vào gia đình vượt trội người nam, nên cùng với thời gian, cái công đức nó càng vượt trội, người có công đức lớn đương nhiên chế áp và được nể sợ từ người phối ngẫu. Vc này ở Tây phương là đã khác hẳn, cũng là do cái công đức này.
"An Nam là xứ nóng, hình như không hợp với nam giới? [ không rõ tác giả căn cứ vào đâu mà nói vậy?], nhưng đặc biệt hợp với phái nữ. Mặt trời cứ chiếu sáng hừng hực thế thì tất có hại, nhưng tất nhiên cái gì cũng có 2 mặt lợi hại tương ứng. Tôi đã quan sát rất kỹ con gái [ An Nam], thấy hình như xứ này con gái nồng nàn hơn! Con trai [ An Nam] thân hình nhỏ hơn [ gầy hơn các bà con gái], nhan sắc cũng kém hơn; những cô gái đã có chồng thường búi tóc gọn, cơ thể đẫy đà hơn, rồi chân tay cũng đen, nhưng người tròn lẳn, nghe nói nếu có 1 đứa con thì người nữ rất đẹp? lại cũng ít bệnh thừa sức (ha ha). Từ thành thị đến khắp nơi, phụ nữ An Nam thường hay đi buôn bán nhỏ kiếm lời. Đàn ông đi buôn hay đi làm ăn xa, cũng đem theo vợ. Tôi rất khâm phục phụ nữ An Nam, dù cho một người đàn ông có thể lấy nhiều vợ, nhưng phụ nữ khá ham làm, các bà vợ đều tự đi buôn hay dựa vào các trục đường lớn ở phố chợ kiếm sống, được tiền về lại đưa cho chồng. Khi lấy chồng rồi thì người phụ nữ thường được gọi theo tên chồng, gọi tên mình thì không trả lời nữa? Có những ông chồng, hết ngày là lom khom (ôm đầu gối) lủi trốn vợ đi chơi (bạc), không đem theo con cái nhưng giấu tiền vào tay áo [ đi đánh bạc]. Thường thì khi con cái đã lấy chồng lấy vợ, bố mẹ sẽ làm cho 1 ngôi nhà lợp bằng cỏ tranh cho ở riêng. Tình nghĩa vợ chồng cũng khá gắn bó [ không như TQ]. " - Sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp, Chu Khứ Phi, 1178, cụ Doctor76 dịch
Nhu cầu tìm hiểu Lịch sử nói chung và thời Lý của các cụ OF có rất nhiều. Trên thực tế, sử liệu về thời Lý -Trần của Việt Nam xét về bản gốc, còn rất ít do cuộc xâm lược của quân Minh thời Hồ Quý Ly đã thiêu hủy, phá đốt hết. Với ý tưởng để các cụ/mợ nhà ta thấy...
www.otofun.net
Hiện tượng “sợ vợ”, “vợ nói nhiều” – nếu nhìn một cách biện chứng và khách quan – không phải là sản phẩm của thời hiện đại hay hệ quả đơn thuần của phong trào giải phóng phụ nữ, mà là kết tinh lâu dài từ đặc trưng văn hóa, cấu trúc gia đình và điều kiện lịch sử – xã hội của người Việt. Trong đời sống truyền thống, hình ảnh người phụ nữ gánh vác hầu hết công việc gia đình, nuôi con, đối nội đối ngoại, giữ tay hòm chìa khóa... đã tạo ra một “công đức” tích lũy vượt trội so với nam giới trong không gian gia đình. Chính sự tích lũy này – không tuyên bố quyền lực bằng lời – đã hình thành nên vị thế thực tế, một thứ quyền lực mềm cực kỳ vững chãi, khiến không ít người chồng nể trọng, thậm chí “né tránh” vợ. Văn học dân gian, từ các bà vợ của cụ Bá Kiến làng Vũ Đại đến vợ cụ Vũ Bằng, đều khắc họa rõ nét vai trò chi phối tinh tế nhưng đầy hiệu lực của người phụ nữ Việt. Nhà thám hiểm Chu Khứ Phi thế kỷ XII từng ghi nhận phụ nữ An Nam chăm làm, buôn bán giỏi, nuôi con khỏe
khỏe mạnh, đảm đang, giỏi kinh tế, gắn bó gia đình, còn đàn ông nhiều khi
lép vế về thể chất, sắc vóc, tinh thần. Hình ảnh người chồng “lom khom trốn vợ đi đánh bạc” cũng là một chỉ dấu văn hóa:
người vợ là trung tâm quản lý tài chính, trụ cột gia đình thực tế – dù luật pháp và ngôn từ vẫn gọi người chồng là “chủ gia đình”. Hình ảnh đàn ông lại “lép vế về hình thể”, hay “ôm đầu gối trốn vợ đi chơi bạc”, giấu tiền trong tay áo… càng cho thấy đây là hiện tượng lịch sử kéo dài, không thể đổ lỗi cho một biến cố chính trị hay trào lưu xã hội nhất thời. Khi xã hội hiện đại tạo điều kiện để tiếng nói nữ giới được công nhận công khai, thì vai trò vốn có ấy chỉ càng thêm rõ nét – dẫn tới sự “bất ngờ” hay mặc cảm của một bộ phận nam giới vốn quen với vị thế tượng trưng trong gia đình. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận công bằng, đây không phải là cuộc “soán ngôi” giới tính, mà là quá trình tái lập cân bằng vai trò trên cơ sở đóng góp thực tế. Để kiến tạo một đời sống gia đình hài hòa, văn minh và bền vững, điều cần thiết không phải là tranh cãi xem ai nên “im lặng”, mà là học cách chia sẻ, lắng nghe, tôn trọng và đối thoại.
Nam giới không nên mặc cảm khi phụ nữ nói nhiều, mà cần hiểu đó là nhu cầu giao tiếp, là sự quan tâm; còn phụ nữ, thay vì kiểm soát, cần nuôi dưỡng cách biểu đạt tích cực, tạo môi trường đối thoại bình đẳng. Xã hội, truyền thông và giáo dục cũng cần góp phần thay đổi mô típ “vợ lắm lời – chồng sợ vợ” như trò cười xã hội, để thay vào đó là hình mẫu gia đình hiện đại: hợp tác, sẻ chia, bình đẳng và cùng phát triển. Chỉ khi thoát ra khỏi định kiến giới, tiếp cận vấn đề bằng tư duy văn hóa – xã hội toàn diện, chúng ta mới có thể xây dựng được những mái ấm hạnh phúc thực chất, nơi không ai phải “sợ” ai, mà cùng nhau kiến tạo giá trị sống.