Cảm ơn cụ đã đặt câu hỏi để em được tiếp tục hầu chuyện. Để giải thích cặn kẽ vấn đề này trước tiên em xin nói qua một chút về sự phát triển của Đạo Phật kể từ sau khi Đức Phật qua đời.
Khoảng 100 năm sau khi Đức Phật qua đời, các vị Trưởng lão trong Tăng đoàn tổ chức kỳ kết tập kinh điển lần thứ 2. Trong kỳ kết tập này có một sự kiện rất quan trọng là một số vị tu sĩ muốn thay đổi các giới luật mà Đức Phật đề ra như việc cho phép nhận tiền và ăn quá giờ ngọ, những vị khác thì muốn giữ nguyên những giới luật của Đức Phật như cũ.
Điều này dẫn đến sự phân chia của Đạo Phật thành 2 luồng tư tưởng, 2 truyền thống gọi là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Những vị theo truyền thống Thượng tọa bộ thì tuân giữ nghiêm ngặt giới luật của Đức Phật, sống thiểu dục tri túc, sống để tu tập hướng tới mục đích giác ngộ. Những vị theo truyền thống Đại chúng bộ thì dần hình thành tư tưởng Bồ Tát Đạo, hướng đến tu tập thành Phật và dấn thân nhập thế với mục đích phổ độ chúng sinh.
Trong quá trình phát triển, truyền thống Thượng tọa bộ lan truyền về các nước phía Nam như Srilanka, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, là nền tảng hình thành nên trường phái Đạo Phật Nam Tông Nguyên Thủy (Theravada) ngày nay. Truyền thống Đại chúng bộ thì lan truyền lên các nước phía bắc như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... là nền tảng hình thành nên trường phái Đạo Phật Bắc Tông (Mahayana) ngày nay.
Với những tư tưởng ban đầu đó, Đạo Phật Nam Tông Nguyên Thủy chủ trương tu tập hướng tới giác ngộ, duy trì các truyền thống và lời dạy giống như thời Đức Phật. Kinh điển được công nhận là bộ kinh Nikaya - sau nhiều lần kết tập được cho là bộ kinh sát nhất với những gì Đức Phật giảng dạy trong suốt 45 năm thuyết Pháp.
Đạo Phật Bắc Tông thì kinh sách được cải đổi, bổ sung rất nhiều để phù hợp với tư tưởng dấn thân nhập thế (khi tiếp xúc chuyện thế gian nhiều, dẫn đến nảy sinh thêm nhiều vấn đề), bao gồm cả bài kinh Phạm Võng mà cụ
Tueminh2626 nhắc đến. Bài kinh cụ nói có tên đầy đủ là Kinh Phạm Võng Lô Xá Na Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm, khác hoàn toàn với bài kinh Phạm Võng trong kinh điển gốc Nikaya thuộc Trường Bộ Kinh.
Trong kinh Nikaya, cụ thể là bài kinh Aggivacchagotta Sutta (thuộc Tương Ưng Bộ Kinh) Đức Phật dạy rằng một người giác ngộ sau khi qua đời không còn tái sinh bất kỳ cảnh giới nào, không còn có thể bàn tới sự tồn tại hay không tồn tại bằng một ví dụ về ngọn lửa. Nếu không cho thêm củi vào ngọn lửa thì ngọn lửa sẽ tắt. Tương tự như vậy, một chúng sinh sau khi giác ngộ sẽ không còn tham - sân - si, không còn "củi" để nuôi dưỡng "ngọn lửa" tái sinh. Mọi thứ chỉ đơn giản là ngừng lại. Do đó, không thể có chuyện những bậc giác ngộ có thể tái sinh quay lại thế gian để tiếp tục cứu độ chúng sinh. Ở thời kỳ này là Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca. Sau khi Đức Phật qua đời khoảng 5000 năm, Giáo Pháp này sẽ không còn tồn tại. Sau đó một khoảng thời gian rất dài mới đến thời kỳ của Đức Phật Di Lặc (Metteyya) - cũng là một vị Phật Toàn Giác khác được nhắc đến trong kinh điển chứ không phải ông Di Lặc bụng phệ được thờ cầu tài lộc - một sản phẩm tưởng tượng của Trung Quốc.