Giải mật cuộc tập trận quy mô chưa từng có năm 1979
 > 
Uy lực chiến hạm tàng hình SIGMA Việt Nam nhắm tới 
> 
Tiết lộ về khủng hoảng suýt gây đại chiến thế giới 3
> Giải mật cuộc chiến biên giới Xô - Trung năm 1969
 
 TPO - Vào năm 1979, Liên Xô đã  khẳng định kiên quyết với những thế lực đầy tham vọng: Quân đội và nhân  dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng các giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa  vụ quốc tế của mình với Việt Nam.
 Trong rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải  tiến hành nhưng hoạt động quân sự nhằm giải quyết những vấn đề xung đột  chính trị mà các biện pháp ngoại giao thông thường không thể giải quyết  vấn đề. Nhưng trong lịch sử đấu tranh, có rất nhiều những tình huống mà  những xung đột căng thẳng giữa các nước trên thế giới có thể được giải  quyết bằng phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử  dụng sức mạnh đó. 
 Hơn một lần Liên bang Xô Viết đã sử dụng khả năng biểu  dương sức mạnh quân sự để ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một  trong những tình huống đó là năm 1979, Kremlin đã có những hành động  quyết liệt biểu dương sức mạnh của các lực lượng vũ trang và khả năng  sẵn sàng sử dụng sức mạn đó để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Và  chính sự quyết liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn ở khu vực  Đông Nam Á. 
Tiền Phong trân trọng giới thiệu bài viết này.
 Diễn tập bắn đạn thật – là những  hoạt động huấn luyện chiến đấu của các lực lượng vũ trang các nước với  mục đích làm tăng khả năng sẵn sàng chiến đấu, khả năng điều hành tác  chiến và liên kết phối hợp, đồng thời cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí  trang bị phương tiện chiến tranh trên chiến trường. Nhưng  trên thực tế  diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức mạnh quân sự nhằm mục đích  răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực  lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương thức nhằm đưa các đơn  vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh.
 Một trong những yếu tố nhanh chóng  làm tỉnh lại những nhà chính khách đã mê muội bởi tham vọng chính trị,  với sự tự tin thái quá về khả năng của mình, đó là cho họ thấy được sức  mạnh quân sự mà trong trường hợp họ vẫn không tự nhìn nhận lại tình  huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện. Thực hiện được điều đó thì phô diễn  sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu quả. 
 Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân  sự nhằm đạt được mục đích chính trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu  và áp dụng vào thực tiễn. Nhưng trong thực tế đấu tranh trên thế giới,  Liên bang Xô viết vào năm 1979 đã triển khai sức mạnh quân sự của mình  một cách quyết liệt và hiệu quả, khiến cho một cường quốc trên thế giới  như Trung Quốc buộc phải chùn tay, còn cả thế giới nín thở với sự khủng  khiếp chờ đợi ngày “D”. 
  
Xung đột biên giới năm 1979 
 Sau khi quân tình nguyện Việt Nam  cùng với các lực lượng yêu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân  sự chống lại lực lượng quân sự Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép  mọi mặt lên nhà nước Việt Nam ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế,  quân sự... 
  Trên tuyến biên giới phía bắc Việt  Nam, lực lượng đối phương đã triển khai một tập đoàn quân: Thê đội một  15 sư đoàn bộ binh, thê đội 2 – 6 sư đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3  sư đoàn. Tổng thể cụm quân lực triển khai các hoạt động tác chiến  trên  biên giới có thể tăng cường đến 29 sư đoàn. Rạng sáng ngày 17 tháng 2,  đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công trên toàn tuyến...
 Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 (theo cách gọi của người Việt Nam) chính thức nổ ra...
  
  
                           
	
	
		
		
	
	
                               Năm 1979. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarussia cơ động di chuyển đến sân bay của Mông cổ. 
Ảnh: Cơ sở dữ liệu “VKO” Matxcova                 
 Liên bang Xô Viết quyết định thực  hiện sứ mệnh vô cùng khó khăn trong điều kiện tình huống phức tạp và  nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên diện rộng – thiết lập lại sự công bằng  và hòa bình trên bán đảo Đông Dương bằng phương pháp biểu dương sức mạnh  quân sự. Nhưng với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và  không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng  nước lớn muốn 'dạy một bài học' cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh  ác liệt hơn. Matxcơva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết  liệt ngay từ ban đầu.
 
Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới
 Các hoạt động biểu dương sức mạnh  và ý chí được quyết định vào đầu tháng 3 năm 1979. Trong giai đoạn từ  ngày 12 đến ngày 26 tháng 3 ( với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung  Quốc do những hành động gây chiến chống lại nước láng giềng) theo quyết  định của Ban chấp hành Trung ương **** cộng sản Liên xô, trên tất cả các  quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển  Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và  diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật. 
  Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong  lịch sử quân sự có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp  thành và không quân. Quân số tham gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân  nhân, 2600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu  từ thời điểm động viên lực lượng và đưa các đơn vị thường trực chiến đấu  từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực lượng dự bị động viên điều động 52  nghìn quân nhân dự bị động viên hạng 1, động viên từ các cở sở thuộc  ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô các loại. 
  Những đợt diễn tập lớn nhất được  thực hiện tại Mông Cổ, trong diễn tập có sự tham gia của 6 sư đoàn BBCG  và Tăng thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và   Zabaikalia. Ngoài ra trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ  đoàn, 3 sư đoàn không quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc  chủng tăng cường.  
 Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó,  đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng  trên vùng Viến đông và Đông Kazakhstan, có sự tham gia của các đơn vị  binh chủng hợp thành và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng  Biên phòng. 
  Trong tiến trình diễn tập đã thực  hiện nội dung liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân  đội trong điều kiện khí hậu và môi trường khắc nghiệt đã tiến hành cơ  động trên khoảng cách rộng lớn, từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2000 km). 
 Các đơn vị được tổ chức biên chế  thành đơn vị chiến đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường  không. Cụ thể, sư đoàn ĐBĐK từ Tula được vận chuyển vào khu vực Chita  trên quãng đường dài 5,5 nghìn km bằng máy bay vận tải quân sự một đợt  bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ  của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp đường không đến các sân  bay của Mông cổ. 
  Trên những khu vực biên giới với  Trung Quốc, các đơn vị phòng thủ biên giới triển khai phác thảo các kế  hoạch tổ chức phòng ngự, đánh chặn các đòn tấn công xâm phạm khu vực  biên giới, kế hoạch phản kích các đòn tấn công và kế hoạch phản công.
 Trên các vùng biển phía Đông và Nam  Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có  6 tầu ngầm, tiến hành các hoạt động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt  triển khai diễn tập các hoạt động tác chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải  quân đối phương. Riêng vùng biển Primorie tiến hành  diễn tập đổ bộ  đường biển. 
  
                           
	
	
		
		
	
	
                               Trên các vùng biển phía Đông và Nam  Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6  tầu ngầm đang thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.                 
 Một trong những mối quan tâm đặc  biệt là kinh nghiệm triển khai các cụm quân công kích chủ lực của Lực  lượng Không quân trên biên giới với Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế  vượt trội về không quân, như một phương tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp  xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là yếu tố quan trọng làm nguội đi  những cái đầu nóng của người láng giềng đầy tham vọng mà không tự lượng  sức mình. 
  Theo các kế hoạch diễn tập, đã  tiến hành tổ chức biên chế các cụm chủ lực hàng không công kích của các  trung đoàn không quân trên các quân khu gần biên giới Trung Quốc. Các  tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang vị trí đóng quân cố định trong  khu vực miền Đông, không chỉ là từ các quân khu lân cận, mà cả từ  Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới 7000km trong vòng hai ngày. 
  Vấn đề không phải là vài chục  chiếc máy bay chiến đấu, được rút ra từ các phân đội bay sẵn sàng chiến  đấu thường xuyên, mà là các trung đoàn bay đầy đủ theo biên chế. Cùng  với các máy bay chiến đấu, các máy bay vận tải vận chuyển luôn cả các  đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết bị, kỹ thuật dự trữ và cơ sở  vật chất dự phòng theo biên chế.
  Có những thời điểm trên không  trung cùng lúc bay hàng chục trung đoàn không quân chiến trường. Ngay  sau khi các đơn vị không quân hạ cánh, các đơn vị và phân đội không quân  lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai tham gia huấn luyện diễn tập. Trong  quá trình tiến hành các hoạt động chuyển quân và diễn tập chiến đấu  tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn 5000h, sử dụng hơn 1000 quả bom và  tên lửa. 
  Một khối lượng khổng lồ vũ khí  trang bị, phương tiện chiến đấu, cơ sở vật chất, vận chuyển từ Liên bang  Xô viết, đã giải quyết toàn bộ vấn đề về trinh sát đường không của địch  trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận không quân đảm bảo vận tải trên  lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối lượng không thể tưởng tượng được  của hàng không vận tải quân sự đã thực hiện trên cầu hàng không được  thiết lập giữa CCCP và Việt Nam.
  Trong khuôn khổ chương trình diễn  tập và vận chuyển khí tài chiến đấu trong không đầy một tháng đã tiến  hành cơ động 20 nghìn quân nhân của lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn  1000 đơn vị (unit) trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy  bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất  phục vụ chiến tranh.
  Liên bang Xô viết đã thực hiện sứ  mệnh cao cả của mình, bằng sự giúp đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường  sức mạnh quân sự cho quân đội nhân dân Việt nam bằng giải pháp cung cấp  khí tài quân sự. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang  đến tháng 3 năm 1979 theo đường vận tải biển đã chuyển đến Việt Nam hơn  400 xe tăng và xe thiết giáp,  xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng  cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không,  400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng  chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.  
  Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang  Xô viết còn cung cấp các hệ thống trang thiết bị đặc chủng và các dây  truyền sửa chữa xe máy công trình phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang  thiết bị, phương tiện chiến tranh. Tất cả các trang thiết bị, phương  tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa, bảo hành trang thiết bị đi cùng  đó đều được chuyển đến trong vòng một tháng. Vũ khí, trang thiết bị kỹ  thuật đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và có thể đưa vào chiến  đấu được ngay. Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh được  kiểm tra bởi các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã  điều động các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để  các trang thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.
  Như vậy, các phương tiện chiến  đấu, từ các phương tiện vận tải, không cần có sự chuẩn bị bổ sung, có  thể đưa thẳng vào chiến trường. Đây thật sự là một kỳ tích của hệ thống  hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội Xô viết cả về tốc độ cung cấp và  vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang bị, khả năng sẵn sàng chiến đấu  của vũ khí trang bị khi cơ động trên hàng chục ngàn km đường biển. 
  Trong thời gian diễn ra cuộc tập  trận tổng lực của quân đội xô viết, người Trung Quốc căng thẳng theo dõi  mọi diễn biến và có thể đánh giá được, thật sự họ đang ở trong một tình  huống nghiêm trọng như thế nào? Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân  đội của họ từ vị trí đóng quân ra biên giới Xô – Trung. 
 Ngoài biên giới, các phương tiện  thông tin đại chúng tập trung toàn bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những  phỏng đoán về cuộc diễn tập quân sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh  hiện đại, diễn ra trong khu vực châu Á. Các hoạt động diễn ra rất quyết  liệt, theo đúng thực tế chiến trường chứ không hề có cảm giác “tình  huống giả định, một bước tiến – hai bước lùi”. Và áp lực chiến tranh  nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ phải suy nghĩ tỉnh táo và  kiềm chế tối đa..
  
                           
	
	
		
		
	
	
                               Trữ lượng dầu, tiêu hao trong thời gian  thực hiện các hoạt động diễn tập và giúp đỡ Việt nam, Bộ quốc phòng  Liên bang Nga phải phục hồi lại dự trữ trong vòng hai năm.                 
 Không đạt được những mục tiêu chính  trị, tổn thất nặng nề về binh lực, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ máy lãnh  đạo nước lớn ở châu Á quyết định rút quân khỏi lãnh thổ láng giềng.  Quyết định đó bị thúc đẩy bởi hàng loạt các yếu tố chính trị và quân sự,  bất ngờ và choáng váng trước sự kiên cường và sức mạnh của Việt Nam và  một phần có thêm sự ủng hộ kiên quyết của Matxcơva đối với Hà Nội. Liên  Xô yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả  năng sẵn sàng tiến hành các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực  phía Đông; những mâu thuẫn và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà  cầm quyền nước lớn kia; sự phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu  chuộng hòa bình; sự xuất hiện rõ nét những điểm yếu trong công tác huấn  luyện và tiến hành các chiến dịch, thực hành các trận đánh của lực lượng  sĩ quan chỉ huy quân đội PLA; trong biên chế các loại vũ khí, trang  thiết bị hiện đại, phương tiện chiến tranh, khó khăn nghiêm trọng trong  công tác vận tải cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật.
  Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày  20 tháng 3 bắt đầu rút quân trên toàn bộ các hướng chủ yếu. Cuộc rút  lui được che chắn bởi hỏa lực dữ dội của pháo binh và các cuộc tấn công  nghi binh. Trong quá trình rút quân, PLA sử dụng triệt để hỏa lực ngăn  chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên các tuyến đường, phá hoại cầu  cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác xã, làng mạc và khu dân cư. 
  Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai  tuyên  bố đã rút hoàn toàn quân đội nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa  đôi bên còn kéo dài đến tận năm 1989 mới chấm dứt.
  Các hành động chính trị quân sự  quyết liệt của  Liên xô, được thực hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự  toàn diện cho cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những  kết quả mong muốn về chính trị.
 Cuộc diễn tập đã đạt được những mục  tiêu quân sự cần thiết. Sức mạnh quân sự của Liên bang Xô Viết phô diễn  trong cuộc tập trận bắn đạn thật quy mô lớn là một yếu tố đã góp phần  chấm dứt những mưu toan nước lớn, những ý đồ trong vai trò “anh cả” và  tham vọng điều khiển châu lục, buộc Trung Quốc nhìn lại ngay chính lực  lượng quân sự của mình và những tham vọng của một "đại quốc".
 Việt Nam đã tăng cường đáng kể sức  mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất nước và đường lối chính trị độc lập của  mình trên trường thế giới.
 Quân đội Liên bang Xô viết đã chứng  minh được khả năng sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu  cầu tác chiến hiện đại và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và  thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
 
(Còn tiếp)
 Trịnh Thái Bằng
 (Chuyên gia Đại học Kỹ thuật quân sự Kiev, hiện công tác tại Bộ GD&ĐT, dịch từ Nguồn: VKO - Bộ Quốc phòng LB Nga)