Cụ cố gắng nâng dần đến 1500 chữ Hán thông dụng là đã có thể đọc được 95% các bài báo hoặc tài liệu thông thường rồi.
Tuy nhiên học tiếng Trung khó nhất vẫn là nhớ chữ, phải luyện và dùng lại thường xuyên mới không bị quên. Có một cách để dễ nhớ chữ và nhớ lâu hơn là nắm vững tầm 50-60 bộ thủ thường dùng nhất trong số 245 bộ thủ, vì chúng là thành phần cơ bản tạo ra các chữ Hán khác. Tiếp đó, khi học từ nào thì tự chiết tự (bẻ chữ) theo cách của bản thân để nhớ lâu hơn, ví dụ:
- Khi học chữ 算 (suàn - toán - tính) trong kế toán, bút toán, v.v. thử chiết tự theo cách sau: dùng bàn tính bằng tre (bộ Trúc), mắt nhìn (bộ Mục), chắp hai tay gẩy (bộ Củng) để tính toán (chữ Toán). Như vậy sẽ nhớ được chữ "toán".
- Khi học chữ 机 (jī - cơ - máy), chiết tự theo cách: lấy gỗ (bộ Mộc) làm ghế (bộ Kỷ) thì cần có máy (chữ Cơ), vì chữ Cơ giản thể có bộ Mộc bên trái và bộ Kỷ bên phải.
- Khi học đến chữ 計 (jì - kế - đếm) trong kế toán, mưu kế, kế sách, có thể chiết tự kiểu: nói (bộ Ngôn) từ một đến mười (bộ Thập) thì là đếm (chữ Kế), vì chữ Kế do bộ Ngôn bên trái và chữ Thập bên phải tạo thành.
- Khi học đến chữ 到 (dào - đáo - đến) thì có thể nhớ bằng cách bẻ ra như sau: dùng dao (bộ Đao) vạch đất (bộ Thổ) bên dưới và mây (bộ Vân) bên trên thì sẽ đến được (chữ Đáo).
- Khi học đến chữ 觉 (jué - giác - thức tỉnh) trong cảm giác, vị giác, ảo giác, giác ngộ... thì có thể nhớ theo kiểu: bỏ khăn trùm (bộ Mịch) khỏi đầu (ba chấm đầu) nhìn thấy (bộ Kiến) xung quanh thì được gọi là thức, tỉnh (chữ Giác). Vì chữ Giác được cấu tạo từ ba chấm đầu ở bên trên, bên dưới là chữ Mịch và dưới nữa là chữ Kiến.
- Khi học đến chữ 正 (zhèng - chính - ngay, ngay ngắn), có thể chiết tự thành: chỉ một (chữ Nhất) bước rồi dừng (chữ Chỉ) là đúng, ngay (chữ Chính) chỗ cần đến. Vì chữ Chính được cấu tạo bởi một nét ngang (chữ Nhất) ở bên trên, bên dưới là chữ Chỉ (dừng lại).
Rất nhiều ví dụ khác nữa sẽ dần chia sẻ với các cụ, mợ những lúc trà dư tửu hậu