Nếu đánh giá khách quan cụ ấy có chất con buôn hao hao cái ông họ Đỗ người Mẽo nào đó^^Em nhớ mang máng cụ Dư đánh trận tàn bạo lắm, "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?"
Nếu đánh giá khách quan cụ ấy có chất con buôn hao hao cái ông họ Đỗ người Mẽo nào đó^^Em nhớ mang máng cụ Dư đánh trận tàn bạo lắm, "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?"
Xưa em học lịch sử thì câu nói này vào thời gian nhà Trần đã qua thời kỳ hưng thịnh, bước vào suy yếu rồi nên cũng phần nào để lý giải cho việc suy yếu ấy.Em nhớ mang máng cụ Dư đánh trận tàn bạo lắm, "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?"
Dùng từ Thông dâm nghe nặng nề nhỉ? Dùng kiểu Ngoại Tình thời nay lại thấy đỡ xấu xa!Xưa em học lịch sử thì câu nói này vào thời gian nhà Trần đã qua thời kỳ hưng thịnh, bước vào suy yếu rồi nên cũng phần nào để lý giải cho việc suy yếu ấy.
Để mà nhận định về danh tướng Trần Khánh Dư thì thật thú vị bởi ở cụ ấy hội tụ cả chính lẫn tà. Kiểu như badboy thời phong kiến vậy.
1- Cụ là vị tướng tài, giỏi cầm quân, có đầu óc hoạch định chiến lược rõ ràng. Điều này thể hiện ở việc biết cách thua đại quân Ô Mã Nhi vốn chủ lực đi trước để dọn đường, khiến cho giặc dương dương tự đắc, chủ quan. Cuối cùng đánh úp khi tung quân chủ lực của mình ra, đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ nơi cửa biển Vân Đồn. Biết được điểm mạnh điểm yếu của quân giặc Mông Nguyên đánh nhanh thắng nhanh, tiêu hao năng lượng nhiều thì cần lương thực nhiều. Nên cái mà cụ Dư nhắm tới để chắc thắng 99% ấy là đoàn thuyền lương dồi dào nuôi sinh lực đại quân kia chứ ko phải là đội quân lính hung tàn mạnh mẽ do Ô mã nhi đi trước dọn đường ấy. Tiêu diệt được cái dạ dày thì cơ thể có khoẻ mấy cũng tiều tụy dần mà chết.
2- Cụ làm thương nhân giỏi bỏ 1 vốn để lãi 10. Sau vụ thông dâm với công chúa Thiên Thụy bị tước hết chức quyền tài sản, đã ko ngại buôn than làm kinh tế. Sau tiếp tục với dự án kinh tế buôn mũ Ma Lôi. Vì phong kiến xưa với quan điểm, nhất sĩ nhì phu nên việc làm thương nghiệp là cái gì đó rất thấp kém. Nhưng cụ ấy chẳng nề hà việc đó nên em cho là cụ ấy là người rất có đầu óc đi trước thời đại.
3- Vụ thông dâm với công chúa Thiên Thụy.
Em đi rửa bát đã, tẹo viết nốt ạ![]()
Xuyên suốt trong sách lược của cụ Tuấn là "biết người biết ta, bách chiến bách thắng"Nghệ thuật bảo mật và phân tầng thông tin thời Trần qua “phép thử” Trần Ích Tắc, sự phản bội thật hay trá hàng chiến lược ?
Trong lịch sử đối đầu với Nguyên–Mông, Đại Việt không chỉ thắng bằng binh pháp và địa lợi, mà còn bằng một thứ “binh khí mềm” ít được gọi đúng tên: kỷ luật bảo mật và kỹ thuật phân tầng thông tin. Trường hợp Trần Ích Tắc—một thân vương hiểu nhiều chuyện triều chính nhưng rốt cuộc đầu hàng địch—là phép thử khắc nghiệt nhất cho độ kín của hệ thống ấy. Nếu cơ chế bảo mật lỏng lẻo, một hoàng tử như Ích Tắc đủ làm sụp đổ cả mạng lưới hành cung, kế hoạch lui–tiến, thậm chí bí quyết thủy chiến. Lịch sử diễn ra trái lại: các hành cung Vũ Lâm (Tràng An), Thiên Trường, các bến tụ quân vùng Thủy Nguyên… vẫn “tàng hình” trước mắt đạo quân hùng mạnh bậc nhất thời trung đại. Từ đây có thể đọc ra cấu trúc an ninh thông tin của nhà Trần—một cấu trúc được thiết kế để chịu đựng cả phản bội ở cấp thân vương.
Điểm thứ nhất, triều Trần vận hành nguyên tắc “ai cần mới biết”—một mệnh đề hiện đại nhưng tinh thần thì đã có từ thế kỷ XIII. Sự hiểu biết của vương hầu về đại sự không đồng nghĩa với quyền tiếp cận bí mật tối thượng. Những quyết định liên quan sinh mệnh triều đình—điểm trú ẩn của hai vua, trục rút lui, bến tập kết thủy quân, thời khắc chuyển trạng thái từ “thanh dã” sang phản công—được giữ trong một vòng rất hẹp: Thánh Tông, Nhân Tông và vài tướng chủ chốt cầm quân ở ba hướng (Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, về sau có Trần Khánh Dư…). Sự kiện tháng 3/1285, khi triều đình rời Thăng Long, dạt về Thiên Trường rồi vào Vũ Lâm, cho thấy ngay cả khi kinh thành thất thủ, địch vẫn không truy ra tung tích hai vua. Nếu một thân vương vừa rời bỏ hàng ngũ đã có thể vẽ bản đồ hành cung cho Nguyên, các cuộc truy kích đã khác hẳn. Thực tế, đạo chủ lực của Thoát Hoan trong cả hai cuộc xâm lược 1285 và 1287–1288 đều “đánh vào một khoảng trống”: Thăng Long bị bỏ không, các kho tàng—nhân mạng thiết yếu được rút gọn và di chuyển trước, địch chỉ “đóng chiếm” một bóng hình.
Điểm thứ hai, hệ thống hành cung của nhà Trần không phải một tọa độ cố định mà là một “chòm sao” di động. Vũ Lâm—một lòng chảo thủy đạo trong thế núi đá vôi Tràng An—được sử cũ ghi rõ là nơi che chở hai vua sau đợt rút lui 1285; Thiên Trường—đất phát tích của hoàng tộc—là hậu cứ chính trị–tinh thần; vùng Thủy Nguyên lại là cửa ngõ để tụ thủy binh, dàn thế Bạch Đằng. Nhưng mỗi điểm ấy chỉ là một nút trong mạng lưới. Nhà Trần chủ ý phân tán và xoay vòng, để ngay cả người trong triều—kể cả thân vương—cũng khó có “bức tranh toàn cảnh”. Một kẻ phản bội nếu có biết một, hai nút, cũng không thể từ đó khôi phục được toàn bộ đồ hình. Bằng chứng gián tiếp là: sau khi Ích Tắc hàng, không có đợt đột kích nào của Nguyên trúng vào “tim” hành cung; không có vụ bắt sống hai vua; không có vụ phá kho lương dự bị ở các căn cứ dự phòng. Địch chỉ có thể đuổi theo những vệt bóng.
Điểm thứ ba, thông tin chiến dịch được “khoá” ở cấp độ thao tác, không chỉ ở cấp quyết sách. Trận Bạch Đằng 1288 phơi bày điều này: để hạ đòn quyết định bằng cọc ngầm và con nước, phải giữ kín liên hoàn từ lịch thủy triều, tuyến bố trí, đến giờ “đóng then”. Đạo thủy của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp bị dẫn dụ vào miệng bẫy mà không kịp nhận ra; trước đó, đội lương Trương Văn Hổ bị Trần Khánh Dư đánh vỡ ở Vân Đồn, khiến toàn bộ chiến dịch địch rơi vào khủng hoảng hậu cần. Nếu thông tin về bãi cọc hay kế hoạch phục kích ở Vân Đồn đã rò rỉ sớm qua một “nguồn thân vương”, các mũi chủ lực của Nguyên hẳn đã thay đổi hành tiến hoặc ít nhất gia cường bảo vệ. Đằng này, thất bại đến từ sự mù mờ đúng chỗ của địch—dấu hiệu chuẩn của một hệ thống an ninh tác chiến hoạt động đúng thiết kế.
Điểm thứ tư, nhà Trần thiết lập một “lá chắn xã hội” cho bảo mật: nhân dân. Kỹ thuật “thanh dã”—vườn không, nhà trống—không chỉ làm rỗng kinh thành mà còn hợp pháp hoá việc che giấu dấu vết: đoàn thuyền vua lẫn trong thuyền dân, đường sông biến thành hành lang ngụy trang, các điểm dừng chân làng xóm trở thành trạm trung chuyển. Khi bí mật phụ thuộc vào lòng người, mức chống chịu trước tra vấn—mua chuộc từ phía địch—tăng lên đáng kể. Một hoàng tử đầu hàng có thể kể tên sông, đèo, nhưng không thể thay thế được nghìn mắt nghìn tai của dân vùng căn cứ—những người biết cách bịt lối, xóa dấu, dẫn đường theo “khẩu ước” của làng mình. Vì thế, truy kích của Nguyên luôn “lệch nhịp”—đến nơi thì triều đình đã di chuyển, hoặc nơi ấy chỉ là “vỏ” trong một lớp vỏ khác.
Điểm thứ năm, đối sách thông tin của nhà Trần không cứng nhắc—vừa nghiêm, vừa khoan—để ổn định tinh thần xã hội sau chiến tranh. Sử chép việc đốt hòm biểu hàng sau kháng chiến, “để yên lòng người”—một động tác quản trị ký ức: khoanh lại sai lầm cá nhân, chặn lan truyền danh sách “kẻ hai lòng” như một thứ vũ khí chính trị gây phân rã. Nhưng khoan hồng xã hội không đồng nghĩa khoan hoà trong bảo mật: trong chiến sự, triều Trần sẵn sàng trừ nội gián (Trần Kiện bị bắn hạ khi toan qua biên), siết thông tin khi thấy dấu hiệu bất mãn. Với Ích Tắc, triều đình chọn giải pháp phế truất danh dự (“Ả Trần”), cắt đứt ảnh hưởng biểu tượng trong nước, đồng thời giữ kín những gì cần giữ kín. Quyết định ấy đồng nhất về thông điệp: nội bộ phải khép kín vết nứt, còn bí mật quốc gia không để bất kỳ trường hợp cá nhân nào chi phối.
Cũng cần nói thẳng: chính sử khẳng định Ích Tắc đem cả gia quyến sang hàng tháng 3/1285, được phía Nguyên phong “An Nam quốc vương”, rồi sống chết trên đất Nguyên. Không có dòng đương thời nào—cả của ta lẫn của Nguyên—xác nhận đây là “trá hàng chiến lược”. Việc một số bài viết hiện đại cố “tình báo hoá” hành vi ấy là một lựa chọn diễn giải, không phải bằng chứng. Và khi đặt diễn giải đó trước chuỗi sự kiện thực chứng—địch mù tuyến hành cung, mù thời khắc phản công, mù thế trận Bạch Đằng—ta càng thấy rõ: nếu có “nguồn” nội bộ, địch đã không mù đến vậy. Kết quả chiến tranh, như mọi cuộc chiến khác, là phép thử trung thực nhất cho chất lượng của mạng lưới bảo mật. Ở đây, nó cho thấy mạng lưới của nhà Trần chịu tải được cả khi một mắt xích lớn phản bội.
Từ phép thử Ích Tắc, có thể rút ba kết luận mang tính thiết kế thể chế. Thứ nhất, bảo mật phải được “thuật hoá”: không phải những lời thề suông, mà là một kiến trúc phân tầng—quy trình ai quyết, ai biết, ai không được biết—với các vòng kiểm soát chéo, để khi một vòng vỡ, các vòng khác còn giữ. Thứ hai, bảo mật phải “địa phương hoá”: biến địa hình–thủy văn (Vũ Lâm, Thủy Nguyên, Tràng An) và cộng đồng cư dân thành thành phần của hệ thống an ninh, chứ không chỉ là phông nền. Thứ ba, bảo mật phải “văn hoá hoá”: ngày chiến đấu, đó là khẩu ước giữa vua và dân; ngày thái bình, đó là cách triều đình xử trí ký ức (đốt biểu hàng, cắt tước xưng) để ngăn ký ức độc hại tích tụ thành chia rẽ.
Bởi vậy, khi nhìn lại, Trần Ích Tắc không phải “điệp viên chiến lược” như một số giả thuyết cảm tính được các báo gần đây đăng có ý muốn gán ghép. Ngược lại, ông là phép thử cho tính đàn hồi của một hệ thống. Sự thật là: ông không làm ích gì cho địch ở phương diện bí mật tối quan trọng; sự thật sâu hơn là: nhà Trần đã thiết kế một cơ chế thông tin có chủ đích để kết quả ấy là điều tất yếu. Một nhà nước biết mình yếu hơn về vật lực, muốn sống sót trước đế quốc kỵ binh, chỉ có thể thắng bằng thứ vũ khí vô hình ấy—bảo mật và phân tầng thông tin—lặng lẽ mà quyết định. Ở điểm này, bài học thế kỷ XIII vẫn còn giá trị cho mọi thời: muốn giữ nước, trước hết phải biết giữ bí mật; và muốn giữ bí mật, phải thiết kế được một trật tự thông tin biết đứng vững trước cả lòng người đổi thay./.
Thời xưa nó vậyDùng từ Thông dâm nghe nặng nề nhỉ? Dùng kiểu Ngoại Tình thời nay lại thấy đỡ xấu xa!
Em cũng đọc thấy cái này:Xuyên suốt trong sách lược của cụ Tuấn là "biết người biết ta, bách chiến bách thắng"
- Quân Nguyên Mông to lớn, đánh đâu thắng đó nên chủ quan khinh địch
- Cụ Tuấn nâng nghệ thuật tình báo, phản gián lên 1 tầm cao từ đó mà "biết giặc biết ta"
Từ đó mới có sách lược:
- Khoan sức dân
- Lấy đoản binh, thắng trường trận
- Binh cốt tinh không cốt nhiều, lấy 8 lạng chống ngàn quân.
(E lan man tí tới Võ thuật, trong võ có câu "Nam quyền Bắc cước" dân miền phía Nam gần xích đạo thì sông nước kênh rạch nhiều, quen chài lưới chèo thuyền nên Bộ tay khoẻ, trong võ thuật thiên về Bộ tay; dân phía Bắc gần cực nhiều đồi núi nên leo núi nhiều, Bộ chân khoẻ nên võ thuật thiên về Bộ chân. Bộ chân có ưu điểm là ra lực mạnh (3 đấm = 1 đạp), tuy nhiên điểm yếu là cần quãng đường ra lực dài, dễ bị đối phương bắt bài. Bộ tay tuy ra lực yếu hơn nhưng quãng đường ra lực ngắn, thời gian chạm mục tiêu sẽ nhanh hơn, lực ít nhưng nhanh chạm "chỗ hiểm" gọi là "nhập nội". Có câu chuyện thực sỹ quan Nam Hàn hồi đánh thuê cho Mẽo năm 72 Ngũ đẳng huyền đai cao to nặng 80kg thách đấu võ sư Phan Thọ Bình Định 58kg mà ôm mặt máu; sau đó tới đời con cháu võ sỹ tầm 30 tuổi vào năm 98 khi ấy cụ 73 tuổi, sang đá nứt cột nhà người ta mà cũng đo ván với chiêu "độc xà thám nguyệt" cùng chiêu hạ gục đời cha chú bọn Hàn xẻng ^^
300k quân. Kinh nhỉ! Ngày xưa dân ít mà huy động quân đi oánh nhau toàn số kiểu trăm nghìn. Nhà nào cungz có ngươid thân đi lính nhỉ. Dân số Đại Việt lúc bấy giờ 1.5tr dân mà có sử còn viết Nguyên Mông đem đến 500k quân. 500k này là con số tổng cả 3 cuộc chiến hay cuộc chiến cuối cùng nhỉ?Em cũng đọc thấy cái này:
Trước cuộc tấn công vào Việt Nam, Hốt Tất Liệt buộc phải từ bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản lần thứ ba để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh trả thù Đại Việt. Khi các hoàng thân nhà Trần tìm cách chiêu mộ quân lính mới, tướng Trần Hưng Đạo đã nói với họ: "Sức mạnh của một đội quân nằm ở chất lượng, chứ không phải số lượng". Và với vị vua đang lo lắng, ông nói: "Quân ta giờ đã được huấn luyện tốt hơn, trong khi kẻ thù, sau khi chịu thất bại, đã mất tinh thần. Chiến thắng sẽ dễ dàng hơn". Cuối năm 1287, Thoát Hoan lại vượt biên với 300.000 quân trong khi hạm đội Mông Cổ gồm 500 chiến thuyền tiến về bờ biển Việt Nam. Vua Trần lại rời kinh đô. Tướng Mông Cổ Ô Mã Nhi đã gửi lời cảnh báo này đến ông: "Dù ngươi có chạy trốn lên trời, ta cũng sẽ đuổi theo. Ta sẽ truy đuổi ngươi đến tận đáy biển, đến tận rừng sâu, nếu cần!" Quân Mông Cổ tìm cách chiếm đóng ngày càng nhiều lãnh thổ, nhưng chỉ tìm thấy những vùng đất hoang vu xung quanh. Sử ký nhà Nguyên (tên của triều đại Mông Cổ) ghi lại: "Dân Giao Chỉ (Đại Việt) cất giấu lúa gạo và bỏ chạy". Quân xâm lược thiếu lương thực. Thoát Hoan ra lệnh đốt kinh đô, rồi rút về phía bắc sông Hồng; trong thời gian đó, quân đội của ông liên tục bị quân Trần và dân chúng quấy rối.
Trộm nghĩ vui vui, Omar lên mạng xã hội gáy to quá nên phải bị thịt. Nhưng chắc nguyên do chính bị thịt là do phá mồ mả nhà Trần, chắc lôi về miếu hiệu để kể tội và định thịt rồi, nhưng vì ngoại giao lại phải dìm ngoài bể.
300k này là tính cả phu cả binh chứ cụ. Em nhớ mang máng 1 chú lính phải có 4 chú phu thì phải. Có thanh niên Atlas thì chắc đọc vanh vách, chứ em lại lưòi tra. Vấn đề lương thảo đúng nặng thật, vì phu cũng ăn, mà ngựa cũng ăn.300k quân. Kinh nhỉ! Ngày xưa dân ít mà huy động quân đi oánh nhau toàn số kiểu trăm nghìn. Nhà nào cungz có ngươid thân đi lính nhỉ. Dân số Đại Việt lúc bấy giờ 1.5tr dân mà có sử còn viết Nguyên Mông đem đến 500k quân. 500k này là con số tổng cả 3 cuộc chiến hay cuộc chiến cuối cùng nhỉ?
Em viết tiếp về cụ badboy Trần Khánh Dư để phần nào hàm oan, đỡ tiếng xấu cho cụ ấyDùng từ Thông dâm nghe nặng nề nhỉ? Dùng kiểu Ngoại Tình thời nay lại thấy đỡ xấu xa!
Dài quá mợ ơi, e chưa đọc nhưng mà cứ badboy nện như người nhện là các mợ khoái rồi, phải bênh chứ ^^Em viết tiếp về cụ badboy Trần Khánh Dư để phần nào hàm oan, đỡ tiếng xấu cho cụ ấy
3- vụ ngoại tình với Thiên Thụy công chúa. Cụ Dư sau khi đánh thắng giặc Bồn Man vùng rừng núi thì được vua Trần Thánh Tông thưởng lớn, nhận làm Thiên tử nghĩa nam (con nuôi của vua) ban tước hiệu Nhân Huệ Vương phong chức Phiêu kỵ đại tuớng quân. Nhờ tước hiệu này nên cụ Dư được tự do ra vào cung cấm và dần nảy sinh tình cảm với Thiên Thụy công chúa (con gái vua Trần Thánh Tông, chị gái vua Trần Nhân Tông). Nhẽ 1 vị tướng kiêu hùng sánh duyên cùng công chúa kiều diễm là đẹp đôi, nhưng con trai cụ Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Nghiễn cũng có tình ý với công chúa. Mà vai trò của cụ THĐạo lúc bấy giờ là tối quan trọng với triều đình. Phận nữ nhi chỉ là con tốt trên bàn cờ chính trị, lại thêm đằng nhà cụ THĐạo vốn hoàng thân quốc thích nên cả 2 vua đều nhất trí gả Thiên Thụy về làm dâu nhà cụ Đạo. Tưởng như chấm dứt mối tình Thiên Thụy - Khánh Dư nhưng vì bản tính kiêu dũng của 1 vị tướng tài, ko muốn bị ràng buộc bởi lễ giáo xưa, 2 người vẫn tiếp tục lén lút qua lại. Đương nhiên sự việc vỡ lỡ, kết cục cụ Dư chịu hình phạt 100 trượng, thu hồi tước vị, tịch biên hết tài sản và trở lại vị trí xuất phát điểm ban đầu. Do đó nhìn nhận 1 góc độ khác thì cụ Dư cũng si tình bạo liệt như cụ TH Đạo năm xưa mà đáng buồn là ko được may mắn khi sánh duyên đến trọn đời cùng người con gái mình thương.
4- về cuối đời, cụ Dư thực hiện nhiều việc công đức cho người dân, khai hoang lập làng cho nhân dân đến sinh sống làm ăn. Cụ còn hướng dẫn người dẫn trồng cói và nghề dệt cói. Em lười gõ quá nên trích dẫn đường link https://danviet.vn/vi-sao-tran-khanh-du-bi-mang-tieng-oan-la-tham-quan-20220305173152033-d1005282.html
Chung quy, dân ko thờ ai sai bao giờ. Cụ Trần Khánh Dư được sử sách ghi lại dưới quan điểm thời phong kiến đó nhưng hậu thế xét lại thì cụ quả là vị tướng tài ba, có tầm nhìn vượt thời đại, thậm chí có thể coi là ông tổ của doanh nhân, nhiều công lao đóng góp cho đất nước, vì muôn dân.
Ơ kìa, sao cụ lại tinh tế như cục đất mà nói thẳng tưng ra thế này. Cụ gì bên trên nói đúng đấy. Phải có mấy chuyện tình cảm drama này kia thì mới hấp dẫn chúng iem đượcDài quá mợ ơi, e chưa đọc nhưng mà cứ badboy nện như người nhện là các mợ khoái rồi, phải bênh chứ ^^
Ko có sách sử nào có chi tiết và quan điểm thống nhất đâu cụ ơi, phải tưh đọc các nguồn, qua bộ lọc riêng thì mới có cái nhìn của riêng mình. Quan ghi sử thì cũng phải theo ý chí của 1 thế lực nào đó nên đầu bút sẽ thẳng hay cong ít cong nhiều mà thôi!Các cụ trên thông thiên văn dưới tường địa lý cho nhà em hỏi, bộ sách sử nào của mình viết chi tiết và dễ theo dõi nhất ạ?
Các cụ nhà mình xưa đỉnh của chop thật. Ăn thịt uống rượu toàn tính theo cân. Ngày thường thì luyện võ đánh giặc, cuối tuần thì cưỡi ngựa săn bắn. Đêm về thì nện như người nhện, mà tận 5 thê 7 thiếp. Quá dữ.Dài quá mợ ơi, e chưa đọc nhưng mà cứ badboy nện như người nhện là các mợ khoái rồi, phải bênh chứ ^^
Mợ tả về badboy cứ như tả về crush vậy. Bảo sao chị em toàn thích badboy. Công chúa Thiên Thụy kia không phải là ngoại lệ.Em viết tiếp về cụ badboy Trần Khánh Dư để phần nào hàm oan, đỡ tiếng xấu cho cụ ấy
3- vụ ngoại tình với Thiên Thụy công chúa. Cụ Dư sau khi đánh thắng giặc Bồn Man vùng rừng núi thì được vua Trần Thánh Tông thưởng lớn, nhận làm Thiên tử nghĩa nam (con nuôi của vua) ban tước hiệu Nhân Huệ Vương phong chức Phiêu kỵ đại tuớng quân. Nhờ tước hiệu này nên cụ Dư được tự do ra vào cung cấm và dần nảy sinh tình cảm với Thiên Thụy công chúa (con gái vua Trần Thánh Tông, chị gái vua Trần Nhân Tông). Nhẽ 1 vị tướng kiêu hùng sánh duyên cùng công chúa kiều diễm là đẹp đôi, nhưng con trai cụ Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Nghiễn cũng có tình ý với công chúa. Mà vai trò của cụ THĐạo lúc bấy giờ là tối quan trọng với triều đình. Phận nữ nhi chỉ là con tốt trên bàn cờ chính trị, lại thêm đằng nhà cụ THĐạo vốn hoàng thân quốc thích nên cả 2 vua đều nhất trí gả Thiên Thụy về làm dâu nhà cụ Đạo. Tưởng như chấm dứt mối tình Thiên Thụy - Khánh Dư nhưng vì bản tính kiêu dũng của 1 vị tướng tài, ko muốn bị ràng buộc bởi lễ giáo xưa, 2 người vẫn tiếp tục lén lút qua lại. Đương nhiên sự việc vỡ lỡ, kết cục cụ Dư chịu hình phạt 100 trượng, thu hồi tước vị, tịch biên hết tài sản và trở lại vị trí xuất phát điểm ban đầu. Do đó nhìn nhận 1 góc độ khác thì cụ Dư cũng si tình bạo liệt như cụ TH Đạo năm xưa mà đáng buồn là ko được may mắn khi sánh duyên đến trọn đời cùng người con gái mình thương.
4- về cuối đời, cụ Dư thực hiện nhiều việc công đức cho người dân, khai hoang lập làng cho nhân dân đến sinh sống làm ăn. Cụ còn hướng dẫn người dẫn trồng cói và nghề dệt cói. Em lười gõ quá nên trích dẫn đường link https://danviet.vn/vi-sao-tran-khanh-du-bi-mang-tieng-oan-la-tham-quan-20220305173152033-d1005282.html
Chung quy, dân ko thờ ai sai bao giờ. Cụ Trần Khánh Dư được sử sách ghi lại dưới quan điểm thời phong kiến đó nhưng hậu thế xét lại thì cụ quả là vị tướng tài ba, có tầm nhìn vượt thời đại, thậm chí có thể coi là ông tổ của doanh nhân, nhiều công lao đóng góp cho đất nước, vì muôn dân.
Ngày xưa bọn em phải học thuộc vài đoạn Hịch tướng sĩ, giờ vẫn in sâuCác cụ nhà mình xưa đỉnh của chop thật. Ăn thịt uống rượu toàn tính theo cân. Ngày thường thì luyện võ đánh giặc, cuối tuần thì cưỡi ngựa săn bắn. Đêm về thì nện như người nhện, mà tận 5 thê 7 thiếp. Quá dữ.![]()
THú thật hồi nhỏ em dốt sử, nhưng câu này cũng biết. Nhưng lớn lên thì cũng là bận bịu ko có thời gian xem nhưng các drama kiểu Cụ Dư ngoại tình với mợ Thụy thì lại càng không biết. Giờ được các cụ/mợ chia sẻ mới biết đó ạ. Lịch sử nếu đc biết tường tận những tình huống này sẽ bớt khô khan hơn, thay vì chỉ nhớ vài con số, nhớ vài số liệu trận chiến 1 cách sáo rỗng.Ngày xưa bọn em phải học thuộc vài đoạn Hịch tướng sĩ, giờ vẫn in sâu
"Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ hận rằng chưa xả thịt lột da, moi gan nuốt máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng".
Đoạn này thì nó là tiêu biểu rồi cụ ơi.Ngày xưa bọn em phải học thuộc vài đoạn Hịch tướng sĩ, giờ vẫn in sâu
"Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ hận rằng chưa xả thịt lột da, moi gan nuốt máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng".
Em cũng vẫn nhớ, nhưng hình như sách "Giảng văn" em học có vài từ dịch khác với sách cụ học:Ngày xưa bọn em phải học thuộc vài đoạn Hịch tướng sĩ, giờ vẫn in sâu
"Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ hận rằng chưa xả thịt lột da, moi gan nuốt máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng".