Nhân câu trả lời của cụ, em lại copy paste cái đoản văn linh tinh của em
[Oánh bả tháng 3!
Tôi vốn chỉ muốn đưa thằng con đi thăm Đình Bảng và kể cho nó biết về cú start up và IPO vĩ đại của các thiền sư đời Lý. Đích đến đương nhiên là đền Đô nhưng không hiểu sao lại loay hoay kết thúc ở đền Rồng, để ra cơ sự như dưới này...
Đền Rồng thờ Lý Chiêu Hoàng, nằm về rìa Tây của đền Đô, giãn cách chừng 3-4 km, lối vào đi qua nhiều xưởng gạch. 60 năm cuộc đời Bà chia đều làm 3 cái 20 năm.
1. Hai mươi năm đầu sung sướng không bao nhiêu.
Bà có lẽ chỉ cười lúc vứt khăn, ném trầu cho Trần Cảnh trong trò chơi trẻ con mà đời sau cho là "oan nghiệt". Còn lại là bi thương!
6-7 tuổi, Bà lấy Trần Cảnh. Bố cô dâu (vua Lý Huệ Tông) mắc chứng điên, bị biệt giam ở chùa Chân Giáo thậm chí không biết là con gái đã có chồng.
"Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo,
Khách cưới nhà ai áo mũ đông?"
Toàn bộ sổ đỏ, cổ phiếu, ngai vàng hồi môn của nhà gái được "sang tên, công chứng trong ngày" cho nhà trai. Cú buy-out do chú họ của Trần Cảnh (Thái sư Trần Thủ Độ) đạo diễn. Chiếu nhường ngôi dài do các sinh viên Văn Miếu đời đầu chấp bút có đoạn: "Khốn nỗi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu...". Ủa, alo, nữ chúa thì liên quan gì? Thực là:
"Vì cha ngơ ngẩn con nên dại,�Có chú khôn ngoan cháu gặp may"
Một năm sau, Bà mất cha. Lý Huệ Tông sau thời gian dài loạn tâm đã treo cổ tự vẫn, để lại lời nguyền uất hận ứng vào nhà Trần gần 200 năm sau. Mẹ Bà đi bước nữa với Trần Thủ Độ, người ép cha bà tự vẫn.
14 tuổi, Bà phải chứng kiến các tôn thất, anh em họ nhà mình bị chôn sống trong chiến dịch "nhổ cỏ tận gốc" của nhà chồng.
15 tuổi, Bà mất đứa con đầu lòng, Trần Trịnh, hoàng thái tử đầu tiên của nhà Trần.
2. Hai mươi năm sau sầu thương cao vời vợi.
20 tuổi, sau 5 năm không thể đơm hoa kết trái thêm lần nào nữa, Bà bị phế làm công chúa Chiêu Thánh, mất chồng vào tay chị gái Thuận Thiên trong một cuộc hôn nhân sắp đặt khác. Đạo diễn một lần nữa là Trần Thủ Độ. Bà đã đi tu, trong 20 năm sau đó.
Có kha khá vở kịch về cuộc đời Bà. Vài đạo diễn bị Lan và Điệp ám ảnh quá mức thậm chí còn để Bà gặp lại Trần Cảnh trong chùa. Không có dây chuông nào bị cắt, cửa chùa vẫn mở, và Lý Chiêu Hoàng thì hình như đã oán Trần Cảnh. Rằng:
“Trách người quân tử bạc tình,�Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.”
Đạo diễn nào sau đó cũng chuyển sang làm thuỷ điện vì nước mắt khán giả ôi quá nhiều.
Đấy là sân khấu. Còn sử ký toàn thư không có dòng nào viết cho 20 năm đi tu của vị vua cuối cùng của triều Lý. Sử chỉ viết rằng, khi đã 40 tuổi (ở cái thời mà đàn bà con gái 30 tuổi đã chuẩn bị mừng thọ), Bà hoàn tục vì được chồng cũ gả cho nhân viên xuất sắc nhất của mình là tướng Lê Phụ Trần (aka Lê Tần).
Số là trong lần giao lưu Mông- Việt thứ nhất, nhà Trần khởi hết 6 quân chủ đích chơi tất tay với quân Thát ở Bình Lệ Nguyên nhưng vỡ trận. Lê Tần xông pha tên đạn như chốn không người, sắc mặt như thường, lại lấy thuyền che tên cho vua, khi tả hữu xung quanh không còn ai. Rồi chừng như nhớ tiếng xóc đĩa đánh dở tối hôm trước, Lê Tần mới khuyên vua: "Như nay chỉ là bệ hạ dốc túi đánh nước cuối cùng thôi. Nên lánh đi, chớ nên nhẹ tin lời người ta".
Nhờ pha cắt lỗ chiến lược theo kế của Lê Tần, quân Việt còn vốn để phản công thắng lợi ở Đông Bộ Đầu sau đó ít ngày. Định công ban thưởng, Trần Thánh Tông đổi tên Lê Tần thành Lê Phụ Trần, thăng Ngự sử đại phu. Chừng như chưa đủ, vua "top up" luôn công chúa Chiêu Thánh đang đi tu cho ông. Dụ rằng: "Trẫm không có khanh thì làm gì có được ngày nay. Khanh nên cố gắng để cùng hưởng phúc sau này". Nghe giống thưởng cổ phiếu giữ chân cán bộ quản lý chủ chốt của các CEOs hay sharks bây giờ.
3. Hai mươi năm cuối là bao
Chiêu Thánh lấy Phụ Trần 20 năm, sinh con trai là Thượng Vị hầu Tông, con gái là Ứng Thuỵ công chúa. Bánh phu thê giờ mới ngon!
Sử chốt "Mậu Dần, 1278, tháng 3, phu nhân của Lê Phụ Trần là công chúa Chiêu Thánh mất". Trong một vòng hoa giáp ấy, tổng cộng Bà có đến 7 danh vị: 1. Công chúa triều Lý, 2. Hoàng Thái tử nhà Lý, 3. Nữ Hoàng đế nhà Lý, 4. Hoàng hậu nhà Trần, 5. Công chúa nhà Trần, 6. Nhà sư, 7. Phu nhân tướng quân nhà Trần. Bà có lẽ chỉ hạnh phúc với danh vị cuối cùng? Nhưng hai mươi năm cuối là bao khi so với những bi thương trước đây...
4. ...và những đánh giá khắt khe của hậu thế sau khi Bà đã mất?
Các triều đại phong kiến sau này chỉ sắc phong Bà là Công chúa. Hậu sinh vẫn có người trách Bà đã để mất triều Lý. Tản Đà là một ví dụ:
"Quả núi Tiên Sơn có nhớ công,
Mà em đem nước để theo chồng!"
Việc thờ tự Bà cũng nhiều nỗi éo le và tranh luận. Mươi năm trước, đền Rồng của riêng Bà được trùng tu. Khi bên thi công đã "cơ bản phá xong" đền cũ, tượng của Bà đã được đưa xuống nhà ngang, "các nhà" mới bắt đầu loay hoay hội thảo xem trùng tu có đồng nghĩa với đập bỏ toàn bộ và xây mới không, hay hạ giải là gì? Thanh niên online hồi đó sụt sịt than rằng:
"Đền xưa nay đã phá rồi�Đền nay chưa dựng, Bà ngồi ở đâu�Ngẫm từ nay đến mai sau�Mấy pho tượng cổ còn đau hơn mình"
Bà vốn cũng không được thờ với tư cách một vị vua nhà Lý tại đền Đô. Cho đến gần đây, Bà mới được đưa vào danh sách, ở vị trí thứ 9, một thứ "incomplete revisionism" trong lịch sử (Sáng nay, một đoàn tuyên giáo của vài tỉnh phía Bắc dâng sớ cũng chỉ cẩn cáo tới 8 vị vua triều Lý). Các chuyên gia ngôn ngữ bị bố mẹ ép học chuyên toán đã quyết liệt tính nhẩm rằng đã là đền Lý Bát Đế thì chỉ nên thờ đúng 8 vị. Vài nhà phong thuỷ chuyên luận thơ đề sau 6h30 thì phán chắc nịch là chiếu dời đô của Lý Công Uẩn có 214 chữ, khớp hoàn toàn với 214 năm trị vì của chỉ 8 đời vua....Mà thôi!
Tôi rất tò mò về kết quả xin đài âm dương khi trùng tu đền Rồng hay đưa Bà vào danh sách các vua nhà Lý ở đền Đô. Bà có "cho" 1 sấp- 1 ngửa ngay không, khi chưa quen lắm với việc được thỉnh ý về một vấn đề có liên quan đến mình?
5. Lời bàn
Đền Rồng và Lý Chiêu Hoàng như một vĩ thanh buồn trong ánh tà dương của một thời vàng son nhà Lý. Hậu sinh không nên thay đổi những gì thuộc về lịch sử. Nhưng dạy sử để tạo ra những thay đổi tích cực thì hoàn toàn có thể. Ta có thể đến thăm đền Đô cũng nên du khảo đền Rồng. Để thấy trước khi thập thành rực rỡ thì trinh nguyên Tống Nho buổi đầu Đại Việt quân chủ đã khủng khiếp nhường nào với phận nữ nhi. Không tính kiệt hiệt ngoại lệ mẹ Bà, Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần thời chiến tranh Nguyên Mông- Đại Việt (những chuyện khác xin phép không nói ở đây) thì dù trâm anh thế phiệt như Bà, chị gái Thuận Thiên của Bà, An Tư, hay Huyền Trân công chúa và bao người khác sau này đều bị nó đè ngửa.
Các chuyên gia nên dạy về cuộc đời Lý Chiêu Hoàng như một "contre- example" trong dòng chảy nữ quyền Việt Nam, để "xúi giục" một phong khí mới, nơi phụ nữ có tiếng nói trong lịch sử (history) dù trong nhà hay ngoài ngõ, chứ không phải phần topping trong câu chuyện của anh ấy hay ông ấy (his story), như Lý Chiêu Hoàng!
8/3 at the gates

!
---------------------
Chú thích:
1. Vịnh Lý Chiêu Hoàng- Tản Đà
Quả núi Tiên Sơn có nhớ công,
Mà em đem nước để theo chồng!
Ấy ai khôn khéo tài dan díu,
Những chuyện huê tình có biết không?
Một gốc mận già thôi cũng phải
Hai trăm năm lẻ thế là xong!
Hỏi thăm sư cụ Chùa Chân Giáo,
Khách cưới nhà ai áo mũ đông?
2. Vịnh Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh- Trần Mỹ
Tự ai gắp lửa bỏ bàn tay,�Đã biết gì đâu lũ trẻ ngây.�Mấy giọt chung tình muôi nước lã,�Ba sinh oan nghiệt gói trầu cay.�Vì cha ngơ ngẩn con nên dại,�Có chú khôn ngoan cháu gặp may.�Của gái hồi môn to lắm nhỉ,�Cưới về sao nỡ bán đi ngay?QUOTE="Mimeo, post: 71825518, member: 443121"]
Chiêu Thánh sinh con với Trần Thái Tông năm bà 14 tuổi, chẳng may hoàng tử Trần Trịnh đó chết yểu và trong suốt những năm sau khi ở cùng Trần Thái Tông, bà ko sinh được con nữa. Vì lý do này nên Trần Thủ Độ buộc Trần Thái Tông phế truất ngôi hoàng hậu, giáng bà xuống làm công chúa và lập chị gái của bà là Thuận Thiên công chúa lên làm hoàng hậu (lúc này Thuận Thiên đang mang thai 3 tháng con của Trần Liễu anh trai Trần Cảnh). Hơn 20 năm sau, Trần Thái Tông ban Chiêu Thánh làm vợ của cụ Lê Phụ Trần là 1 tướng lĩnh đã lập nhiều công lao. Lúc này cuộc đời bà mới yên ấm hơn khi lần lượt sinh 2 con với vị tướng này.
Câu thơ trên có ý trách Trần Thái Tông đã cư xử bạc bẽo với Chiêu Thánh. Mặc dù vì tình thế bắt buộc, dưới sức ép hoàng tộc nên cụ Trần Thái Tông mới buộc phải làm như thế.