Người Sán Dìu di cư đến Việt   Nam khoảng 300 năm nay, sống chủ yếu ở các tỉnh: Hưng Yên, Phú Thọ, Bắc   Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang... Dân tộc Sán Dìu   còn có tên gọi khác là: , Mán Quần cộc, Sán Dẻo, Trại, Trại Đất…
    
 
 Người Sán Dìu (Nguồn. Baomoi)
 
 Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc sắc riêng. Với dân tộc Sán  Dìu, ngoài ngôn ngữ, các phong tục truyền thống thì đám 
cưới chính là  một nét văn hóa đặc trưng.
 
 Trong tình yêu, nam nữ Sán Dìu được  chủ động ở mức độ nhất định, được  thể hiện tình cảm của mình với người  yêu vào các dịp hội hè, các buổi  chợ (23 Tháng Chạp),  Lễ Tết, những  ngày cưới của bạn bè, vào các buổi lao động chung của làng. 
 
 Trước đây phổ biến hiện tượng dựng vợ gả chồng cho con sớm, khoảng  13-14  tuổi vì đồng bào quan niệm “trai 20 tuổi không ngủ một mình”,  “gái 18  tuổi phải có buồng riêng”.
 
 Lễ cưới  của  người Sán Dìu
 
 Theo phong tục truyền thống, nghi lễ cưới  xin của người Sán Dìu diễn ra  trong 4 ngày. Ngày thứ nhất là ngày nhà trai đưa lễ vật sang nhà gái,  lễ vật gồm rượu và lợn.
 
 Ngày thứ hai là ngày chính đám, tại nhà  gái đáng chú ý nhất có lễ  “Khai hỏa tửu”, trước hôm cô dâu về nhà  chồng. Người ta lấy một bình  rượu và một cái đĩa lót hai miếng giấy  trắng để dưới, miếng đỏ để trên,  đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có  xâu sợi chỉ đỏ và buộc ở mỗi  bên trứng hai đồng xu. Theo quan niệm của  đồng bào Sán Dìu lòng trắng  trứng là bạc, lòng đỏ trứng là vàng, lòng đỏ  là sự hòa thuận sinh sôi  phát triển. Lòng trắng là âm, lòng đỏ là  dương, âm dương kết hợp hài  hòa. Vì vậy dâng trứng lên tổ tiên là cầu  chúc cho đôi vợ chồng trẻ  sống đến đầu bạc răng long. Tiền xâu và chỉ đỏ  là tượng trưng trả công  cho bố mẹ, lọ rượu tượng trưng cho đôi trai gái  thành vợ chồng. Sau khi  cúng thì bóc lấy lòng đỏ hòa với rượu để mọi  người uống mừng hạnh phúc  của cô dâu, chú rể. Vào khoảng một giờ sáng,  cô dâu dậy khóc thảm  thiết đến sáng mới thôi. Việc khóc trong ngày 
cưới   thể hiện đạo hiếu của người con gái đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ,   khóc kể về công lao nuôi nấng của cha mẹ, phận làm gái không được ở nhà   chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ, thờ cúng tổ tiên. Người Sán Dìu quan niệm:   Tiếng khóc càng nỉ non ai oán bao nhiêu thì chứng tỏ cô gái đó càng có   hiếu với cha mẹ bấy nhiêu và cuộc sống của vợ chồng cô sau này càng  gặp  nhiều may mắn. Cô gái nào vụng về không biết khóc than thì cô, dì,  các  bác phải dạy thật cẩn thận. 
 
 Ngày thứ ba, tại nhà trai là ngày chính đám đón dâu. Trong cả ngày thứ ba này, nhà trai chuẩn bị cỗ để đón khách đến ăn 
cưới.
 
 Lễ tiễn dâu: đến giờ xuất giá, cô dâu bước qua ngưỡng cửa được anh trai   hoặc anh họ cõng từ nhà cô dâu ra đến cổng rồi mới được theo chú rể về   nhà chồng. Cô dâu được phủ lên đầu chiếc khăn hồng, đội một chiếc nón,   có em gái, phù dâu đi hai bên, phía sau là đoàn nhà gái đưa dâu. Cô  dâu  không được đi nhanh, không tỏ vẻ hớn hở, nói cười mà đi từng bước  chậm  chạp, nặng nề tỏ lòng quyến luyến cha mẹ, nhớ thương anh chị em  trong  nhà. Đến gần nhà chồng mà trời chưa tối, cả đoàn đưa dâu phải  dừng lại ở  cổng làng, chờ xẩm tối, nhà trai mang trầu nước ra mời mới  được vào  nhà. Cô dâu cứ việc đi thẳng vào buồng tân hôn. Khi bước tới  cửa buồng,  anh chồng không được quên một việc quan trọng là nhanh chóng  cướp lấy  một cái khăn ở trên đầu cô dâu, trước khi cô bước vào buồng.  Nếu không  cướp được thì bạn bè của chú rể phải hát đối đáp với bạn bè  của cô dâu,  nếu đối chuẩn thì chú rể mới được nhận khăn. Sau đó, cô dâu  được một bà  cô (bà cô này gia đình đề huề, vợ chồng song toàn và có  nhiều con) trải  chiếu mời ngồi. Về nhà trai, hai bên sẽ hát giao duyên  suốt đêm.