- Biển số
- OF-70813
- Ngày cấp bằng
- 16/8/10
- Số km
- 5,139
- Động cơ
- 526,780 Mã lực
Trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại, Vũ Bằng là một cây bút đặc biệt, không chỉ bởi tài năng mà còn bởi thân phận và nỗi niềm sâu kín. Tác phẩm Thương nhớ mười hai là minh chứng rõ nét cho điều đó, khi ông gửi gắm vào từng trang viết nỗi nhớ da diết về Hà Nội, miền Bắc và người vợ thân yêu.
Thương nhớ mười hai là tập tùy bút gồm 14 phần, trong đó 12 phần chính tương ứng với 12 tháng âm lịch, mỗi phần là một bức tranh sinh động về thiên nhiên, phong tục, ẩm thực và con người miền Bắc. Tác phẩm được Vũ Bằng khởi bút từ tháng Giêng năm 1960 và hoàn thành vào năm 1971, trong bối cảnh ông sống xa quê hương tại Sài Gòn. Mỗi trang viết đều thấm đẫm nỗi nhớ da diết về Hà Nội, nơi ông đã sinh ra và lớn lên.
Trong tác phẩm, Vũ Bằng miêu tả từng tháng với những đặc trưng riêng biệt:
- Tháng Giêng với "mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh".
- Tháng Tư là mùa của hoa gạo nở đỏ chói ở ven hồ Hoàn Kiếm, rơi xuống nước xanh, rụng xuống cỏ xanh.
- Tháng Mười gợi nhớ những buổi tối có gió bấc thổi lành lạnh, mưa rơi rầu rầu, cả gia đình quây quần bên mâm cơm ấm áp.
Qua từng dòng chữ, Vũ Bằng không chỉ tái hiện cảnh sắc thiên nhiên mà còn khắc họa sâu sắc đời sống văn hóa, phong tục tập quán của người dân miền Bắc. Đó là những ký ức không thể phai mờ trong tâm trí ông, là nguồn cảm hứng bất tận cho ngòi bút của nhà văn.
Một trong những điểm nổi bật trong Thương nhớ mười hai là tình cảm sâu nặng mà Vũ Bằng dành cho người vợ của mình, bà Nguyễn Thị Quỳ. Dù sống xa nhau hàng ngàn cây số, tình yêu và nỗi nhớ của ông dành cho bà vẫn luôn hiện hữu trong từng trang viết.
Trong tác phẩm, ông viết:
Ông nhớ những buổi tối tháng Mười ở Bắc, có gió bấc thổi lành lạnh, mưa rơi rầu rầu, cả gia đình quây quần bên mâm cơm ấm áp. Ông nhớ người vợ tảo tần, lo toan từng bữa ăn, từng công việc trong nhà. Những hình ảnh ấy không chỉ là ký ức mà còn là nguồn động lực giúp ông vượt qua những tháng ngày cô đơn nơi đất khách.
Tình yêu của Vũ Bằng dành cho vợ không chỉ là tình cảm vợ chồng mà còn là sự tri ân, sự kính trọng đối với người đã cùng ông chia sẻ mọi vui buồn trong cuộc sống. Bà Quỳ không chỉ là người bạn đời mà còn là nguồn cảm hứng, là hậu phương vững chắc để ông yên tâm sáng tác.
Sau năm 1954, theo sự phân công của tổ chức, Vũ Bằng vào Nam hoạt động tình báo dưới vỏ bọc nhà văn, nhà báo. Với bí danh X10, ông hoạt động đơn tuyến, không có liên lạc thường xuyên với tổ chức, chấp nhận sống trong cô đơn và bị hiểu lầm. Suốt hơn hai thập kỷ, ông chịu đựng những lời đàm tiếu, bị xem là người quay lưng với kháng chiến, phản bội quê hương.
Chỉ đến năm 2000, Tổng cục II – Bộ Quốc phòng mới chính thức xác nhận ông là chiến sĩ tình báo, và năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Trong suốt thời gian đó, ông sống trong nỗi cô đơn, xa gia đình, xa quê hương, nhưng vẫn giữ vững niềm tin và lý tưởng cách mạng.
Thương nhớ mười hai không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là bản trường ca về tình yêu người, yêu quê hương, tình cảm gia đình và lòng yêu nước thực sự dung dị mà sâu lắng. Qua tác phẩm, Vũ Bằng đã khắc họa sâu sắc nỗi nhớ da diết về Hà Nội, về miền Bắc, về người vợ thân yêu, đồng thời thể hiện sự kiên định, lòng dũng cảm can trường bền bỉ của một người chiến sĩ tình báo trong hoàn cảnh đặc biệt."
E đọc dc 2 tháng của VB rồiCụ Vũ Bằng còn có "Miếng ngon Hà Nội", giảng từ bún thang đến nhựa mận. Cách nay gần hai chục năm em vớ được một cuốn in từ thời Sà Goòng ở vỉa hè CM Tháng Tám. Mang lên tàu bay đọc mà có cô bé ngồi cạnh đọc ké đoạn tả mấy bà Bắc kỳ nấu vụng thịt chó bỗng nuốt nước miếng cái ực.. Bẽn lẽn chữa ngượng bằng câu " Ngon nhề anh nhề![]()
Phải công nhận cc ngày xưa ăn chơi tao nhã, VB mô tả cs giới trung lưu HN, vk ngày xưa mới là vk chứ

Hqua e cũng xem "mùi đu đủ xanh", thấy cs trong nam ngày xưa cũng rất thú vi
Một điều e rút ra là nhà giàu ngày xưa sướng hơn bgio, cs thong dong, người hầu kẻ hạ

Chỉnh sửa cuối: