[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
14,124
Động cơ
518,164 Mã lực
Họa phẩm mô tả Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm và Tuyên phi Đặng Thị Huệ thưởng trà tại Tả Vọng đình.
View attachment 9343639

Em cũng đã đọc HLNTC (ko nhớ bản của cụ nào dịch), Vũ trung tuỳ bút, Thượng kinh ký sự, thấy xh ta thời Lê Trịnh đầy biến động phức tạp. Em sẽ dành time đọc bản cụ dịch.
Bức tranh cụ úp này đã được chúa Trịnh cho hoạ sư vẽ kiểu vào đĩa, đặt lò sứ Cảnh Đức Trấn làm trong dịp tiện sứ bộ ta sang TQ, về dùng trong phủ.
Đồ sứ ký kiểu của chúa Trịnh rất đẹp và quý hiếm hơn nhiều triều Nguyễn sau này. Bản này là của cụ Vương Hồng Sển, di chúc hiến tặng Bảo tàng Lịch sử TpHCM cùng nhiều đồ quý khác. Ảnh em chụp năm ngoái:
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các cụ lưu ý:
- Hồi 17 này được một người khác viết, do viết dưới thời Nguyễn Ánh đã đánh thắng Tây Sơn, nên giọng văn mang đầy tính nịnh bợ, bôi nhọ Tây Sơn. Ca ngợi triều Nguyễn.
Nhưng đây là tác phẩm dịch, nên người dịch phải trung thành nguyên tác.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cùng lúc đó, Quang Diệu đang ở Nha Trang, ngày đêm lo lắng, sợ tai họa đến mình, bèn bảo các tướng rằng:

- Chúa đức không vững, đại thần giết hại lẫn nhau, họa biến lớn không gì bằng thế này. Nay tạm dẫn quân về để dẹp loạn trong nước, sau đó sẽ đến đánh, có được không?

Các tướng đều nói:

- Xin vâng mệnh.

Ngay trong ngày đó giải vây, dẫn quân về Quy Nhơn. Hóa nghe tin, trước tiên đến xin tạ tội, Diệu không hỏi đến. Quân đến bờ Nam sông An Cựu Đồn安舊屯, Dũng cũng cùng Nội hầu Tứ và những người khác dẫn quân bản bộ đóng ở bờ Bắc sông, mượn mệnh vua để chống cự. Quang Toản rất sợ hãi, lập tức sai trung sứ qua lại vỗ về, hòa giải. Diệu bèn dẫn tả hữu vào yết kiến, cùng Dũng và những người khác giảng hòa. Diệu lại xin lấy Lê Văn Trung thay Hóa trấn giữ Quy Nhơn, còn triệu Hóa về giết đi.

Lúc ấy, tả hữu của Quang Toản ngày đêm gièm pha Quang Diệu, nói rằng Diệu quyền uy quá nặng, sẽ có ý đồ khác. Quang Toản tin lời, lập tức ra lệnh thu binh quyền của Diệu, bắt giữ chức vụ hầu hạ. Diệu và Lê Văn Trung vốn bình sinh rất hợp ý nhau, bèn gửi mật thư đến Quy Nhơn, hẹn Lê Văn Trung khởi binh phò Quang Thiệu làm vua, mà phế Quang Toản. Lê Văn Trung nghe theo, bèn dẫn binh về, sau đó mời Quang Thiệu phát thân quân làm hậu tiếp. Quân Lê Văn Trung đến Quảng Nam, trong ngoài chấn động kinh hoàng. Quang Toản hội quần thần bàn bạc, đều nói:

- Muốn khiến Trung rút binh, không ai ngoài Diệu có thể làm được.

Lập tức sai Trần Quang Diệu đi. Lê Văn Trung không báo cho Quang Thiệu, mà cưỡi ngựa một mình theo Diệu về yết kiến. Quang Thiệu kinh ngạc nghi ngờ, lập tức rút binh tượng về Quy Nhơn, đóng cửa thành cố thủ. Quang Toản nhiều lần sai tướng công phá, hơn mười ngày không hạ được, bèn tự mình thống suất quân đến sông Lê Giang. Thái phủ Mân nói:

- Loạn Quang Thiệu thực sự do Lê Văn Trung gây ra, tội không thể tha, xin lập tức giết đi, để răn đe những kẻ khác.

Quang Toản cũng cho là phải, bèn sai triệu Lê Văn Trung vào, lệnh võ sĩ trói lại và chém. Nhân đó an ủi tướng sĩ, hạ lệnh tiến công thành Quy Nhơn, mười ngày hạ được, bắt sống Quang Thiệu. Bèn để Mân ở lại trấn giữ; còn giam Quang Thiệu đem về, dùng rượu độc giết chết.

Tây Sơn từ khi Văn Nhạc chiếm giữ thành Quy Nhơn, vào năm Mậu Tuất (1778), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 của nhà Lê, tự xưng Thiên vương, đổi niên hiệu là Thái Đức năm thứ nhất. Năm Canh Tý (1780) lại xưng Đế, lập Quang Thiệu làm Thái tử. Đến năm Quý Sửu (1793) Văn Nhạc mất, Quang Thiệu làm vua năm năm đến năm Mậu Ngọ (1798) thì chết, tổng cộng hai mươi mốt năm.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói, Quang Toản sau khi đã giết Văn Trung, con rể là Văn Chất文質 tự ngờ vực, bèn làm phản. Chất tiến vào Gia Định ở phía Nam, đầu hàng Hoàng triều [chỉ quân Nguyễn Ánh], được lệnh quản lý ngự lâm quân. Ban đầu, Chất thờ Quang Toản để chinh phạt, thăng quan hiển hách đến chức Đại đô đốc. Đến khi Văn Trung chết, Chất bỏ quân mà trốn. Thái phủ Mân sợ Chất làm loạn, truy bắt quá gắt gao. Có người nô bộc trung nghĩa giả trang Văn Chất, tự vẫn trong khe núi để cắt đứt sự truy tìm. Chẳng bao lâu sau, Mân biết đó là giả mạo, bèn ra lệnh treo thưởng truy bắt gắt gao. Chất bất đắc dĩ, đến trước cửa quân của Mân mà xin hàng. Mân lập tức lệnh cho Chất coi quân tiên phong, đợi sai phái, định dùng quân pháp mà giết đi. Chất biết ý Mân, bèn dụ các tướng lĩnh của mình hướng quân về phía Nam, làm biểu xin hàng. Sau đó, Chất phụng mệnh suất quân đến khiêu chiến với Mân. Mân đại bại, chạy vào rừng núi ẩn náu, toàn bộ quân lính, khí giới, giáp trụ đều bị Chất thu được.

Quang Toản nghe tin báo, lại lệnh Đại Tư đồ Võ Tuấn武俊 mang binh đến trấn giữ, chiêu tập quân lính tan rã để phòng thủ. Đến khoảng năm Canh Thân (1800), quan quân [Nguyễn Ánh] từ biển đến chinh phạt. Võ Tuấn không chống đỡ nổi, bèn dâng thành đầu hàng. Do đó đổi Quy Nhơn thành Bình Định trấn, ban chiếu lệnh cho Tuấn coi hậu quân. Tính Quận công Võ Tánh dẫn binh ở lại phòng thủ, Lễ bộ Thượng thư Ngô Tòng Châu吳從圖 hiệp trợ trấn giữ. Mấy tháng sau, Quang Toản lệnh Thống suất Diệu và Tư đồ Dũng [Vũ Văn Dũng] đốc các đạo quân thủy bộ vào xâm lấn. Diệu chỉ huy bộ binh, Vũ Văn Dũng chỉ huy thủy binh cùng hợp chiến. Quan quân [Nguyễn Ánh] dốc sức chống giữ, Diệu và những người khác không thể đánh hạ. Vũ Văn Dũng bèn lái ba chiến hạm lớn, phong tỏa cửa biển Quy Nhơn. Trên tàu dựng lầu lũy, bày đại bác, bên trong vây quanh hàng trăm chiến thuyền, đốc thủy quân giữ vững, để ngăn chặn viện binh từ bên ngoài. Năm sau, bị quan quân (Nguyễn Ánh) phá vỡ, các chiến hạm lớn và chiến thuyền đều bị đốt cháy hoàn toàn. Vũ Văn Dũng lên bờ dẫn tàn quân bỏ chạy, gặp Quang Diệu.

Quân Tây Sơn đã mất đường thủy, bèn kiên cố xây dựng thành Quy Nhơn. Bốn phía đắp lũy đất, núi đất đối bắn. Trong thành lại dựng nhiều trại đồn, tích trữ lương thực, tính kế lâu dài. Nhưng quan quân phòng thủ hết sức chặt chẽ, Diệu và những người khác công thành không hạ được, Quang Toản hết sức lo lắng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lúc ấy, lại có Tây Dương gia Tô đạo trưởng西洋爺蘇道長 (chỉ linh mục phương Tây) ở trong nước, rao truyền khắp các đạo đồ làm loạn, khắp nơi nổi dậy như ong. Quang Toản lệnh bắt người cầm đầu giết đi, phá hủy giảng đường, đập nát tượng ảnh, đốt sách Tây. Những kẻ bị bắt là đạo đồ thì cho phép dẫm lên tượng ảnh để được thả. Những kẻ không chịu thì xung vào đội tượng quân, để cung cấp việc chặt cỏ. Những người bất mãn càng thêm căm giận, xúi giục lẫn nhau, khắp nơi đều hỗn loạn. Còn quan quân mỗi năm đều công phạt, thế lực chấn động tới mức kinh sợ. Nhân dân các trấn, mỗi khi gió Nam nổi lên, thường bảo nhau:

- Chủ cũ ra rồi!

Thế là, quốc triều [quân Nguyễn Ánh] thấy các tướng lĩnh giỏi và binh lính tinh nhuệ của Tây Sơn ở Quy Nhơn đều tập trung tại đây. Còn Quang Toản đang phòng thủ ở thành Phú Xuân, nghe tin báo, lại đại cử thủy quân, hơn nghìn chiến thuyền, định ngày nhân gió Nam từ biển kéo ra Bắc. Cờ xí rực rỡ mặt trời, tiếng chiêng trống vang trời, thẳng đến cửa biển Để Nhuyên抵堧海門 [cửa biển Tư Dung] mà tấn công. Tây Sơn tướng Phò mã Trị dốc hết quân ra giữ, không chống đỡ nổi, bèn tan vỡ. Quang Toản được tin báo, lại dốc hết quân tự mình kéo xuống, giao chiến với quan quân. Đến giữa trưa, Quang Toản đại bại và tan vỡ. Quan quân bèn tiến vào khôi phục đô thành. Lúc ấy là ngày mùng ba tháng năm, mùa hạ năm Tân Dậu (1801), là năm thứ hai mươi tư Hoàng triều Thế Tổ Cao Hoàng đế [Nguyễn Ánh] nhiếp chính.

Lại nói, Quang Toản đã bại trận, hoảng hốt mất phương hướng, liền thay đổi trang phục cùng vài cận thần cưỡi ngựa trạm chạy về phía Bắc. Đến Nghệ An lưu lại vài ngày, lại về Thăng Long, cùng các tướng sĩ cố thủ. Mùa hạ tháng Sáu, Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Thận阮慎 bỗng báo tin lầu rồng ba tầng tự nhiên đổ sập, người nghe đều cho đó là điềm không lành.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đến đầu mùa thu, Điện quân Tường Quang Hầu祥光侯, Điều bát Đoan Ngọc Hầu端玉侯 phụng chỉ dẫn quân, ra từ hai đường Hương Sơn và Trấn Ninh để tấn công, quấy nhiễu Nghệ An. Nguyễn Thận sai tướng đánh trả, quân Tây Sơn liên tiếp thua trận. Vài ngày sau, Tường Quang Hầu thấy mưa lụt khó lưu lại lâu, bèn neo thuyền cũ ở cửa sông Hương Sơn, kết cỏ ở đầu đuôi làm quân lính giả, mặc giáp cầm vũ khí, trong thuyền thắp đèn sáng trưng mấy hàng, để đánh lừa quân Tây Sơn. Rồi nhân đêm tối, suất bộ binh của mình, dùng thuyền nhẹ xuôi dòng về phía Đông, ra cửa biển Nam Giới, nhìn ra biển rồi quay về phía Nam. Đến khi quân Tây Sơn biết được thì họ đã đi khỏi hai ngày rồi! Đoan Ngọc Hầu cũng từ Trấn Ninh tập hợp quân chúng, theo đường bộ trở về kinh sư.

Tháng 8, Quang Toản ở Thăng Long ban dụ văn ủy lạo quân dân các trấn, đổi niên hiệu giả là Bảo Hưng nguyên niên寶興元年. Mùa đông tháng 11, lại dùng quân binh và voi của bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Bắc Ninh cùng Thanh Hóa, Nghệ An, tự mình dẫn quân xâm phạm. Bị quan quân đánh bại, bất lợi nên lại phải rút về. Đến mùa xuân năm Nhâm Tuất (1802), quan quân vượt sông Đại Linh tiến công Bố Chính, đồn Tam Hiệu, và chiếm được. Quân Tây Sơn đồn trú tan vỡ bỏ chạy, về đồn ở giữa sông Kì Anh.

Mùa hạ tháng 5, Hoàng triều ra chiếu đổi niên hiệu là Gia Long nguyên niên嘉隆元年. Thông dụ cho quân dân hai xứ Bắc và Nam Hà biết: nguyên từ năm Bính Ngọ (1786), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 49 trở về sau, quốc triều [chỉ triều Nguyễn Ánh] chỉ dùng niên hiệu của cố Lê. Những năm trước đó vẫn xưng là Cảnh Hưng năm 63, đến đây mới bắt đầu đổi gọi là Gia Long nguyên niên.

Tháng đó, trong thành Quy Nhơn hết lương thực, quan quân đều đói mệt. Tham tán Ngô Tòng Châu uống thuốc độc chết trước. Tính Quận công [Võ Tánh] tự thiêu mình trong lửa. Hàng vạn quân sĩ đều ra khỏi thành đầu hàng Quang Diệu, Diệu tiếp nhận. Sau khi vào thành, Diệu lập tức cùng các tướng tá bàn bạc, tính chuyện quay về đánh kinh thành.

Vài ngày sau, Diệu dẫn quân ra khỏi biên giới Quy Nhơn, bị Phó tướng Đắc Lộc ngăn lại. Nguyên là năm ngoái sau khi khôi phục kinh thành, Đắc Lộc Hầu vâng lệnh vua đến đây lập đồn, dựng rào để chặn đường xung yếu này. Đến lúc này, Diệu dẫn quân trở về, đến đây tấn công, nửa ngày không thể hạ được. Quân của Diệu bị quan quân bắn, chết bị thương chồng chất, không làm gì được. Bèn dùng binh voi mở đường xuyên núi, vào địa phận Ai Lao, định ra Nghệ An.

Thế là triều đình nghe tin báo, lập tức ra lệnh chia các tướng, mỗi người dẫn quân thủy bộ định ngày kéo ra Bắc. Ngày 28 tháng đó, thủy quân đến cửa biển Đan Nhai, Nghệ An, tiến công đồn Quần Mộc群木堡, phá được. Bộ quân tiếp đến phía Nam sông Thanh Long青龍江 [tức sông Lam], bắn ba tiếng đại bác, quân vượt sang bờ Bắc. Thế là quân thủy bộ cùng tiến, quân Tây Sơn kinh hoàng rối loạn tan vỡ bỏ chạy. Quan quân tiến chiếm kho thóc Kì Lân, giương cao cờ xí.

Trấn thủ Tây Sơn Nguyễn Thận, Hiệp trấn Nguyễn Triêm阮沾, cùng Thủy quân Thống lĩnh Đại Thiếu úy水軍統領代少尉 tên là Đằng bỏ thành chạy lên phía Bắc đến Lý Đồn. Triêm tự treo cổ, Thận chạy về Thanh Hóa. Quan quân bèn chiếm được thành Nghệ An.

Quang Diệu từ Quy Nhơn tập hợp quân, đến địa giới Hương Sơn, lần đầu nghe tin Nghệ An thất thủ, bèn vượt Thanh Chương, qua sông Thanh Long, theo đường Nam Đường mà chạy ra Thanh Hóa. Các tướng sĩ theo ông ta dần dần tản mát. Quan quân đuổi theo, bèn bắt sống được.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tháng 6, tiến công thành Thanh Hóa. Em của Quang Toản là Đốc trấn Bàn [Nguyễn Quang Bàn] cùng Thận, Thừa và những người khác đều đầu hàng. Ngày 18, quân tiến đến thành Thăng Long, ra chiếu lệnh các quân tiến công, quân Tây Sơn đại bại. Quang Toản bỏ thành, cùng em trai là Thùy [Nguyễn Quang Thùy] và Đô đốc Tú và những người khác vượt sông Nhị Hà chạy lên phía Bắc. Thùy tự treo cổ, Tú và vợ ông ta cũng tự treo cổ. Quang Toản và các thần tử của ông ta đều bị thổ hào Bắc Ninh bắt được, giải về trước quân. Các quan lại ở các trấn khác, hoặc trốn hoặc đầu hàng, không ai dám chống cự. Thế là giặc Tây Sơn hoàn toàn bị dẹp yên.

Quân dừng lại dưới thành Thăng Long, ra chiếu lệnh an tập, chia đặt các quan văn võ ở các trấn. Lại ban chiếu triệu tập các văn võ lão thần của cố Lê, hỏi về công việc ở Bắc Hà. Miễn giảm thuế khóa, bỏ bớt những quy định phiền hà. Theo sổ sách thường dùng của quân Tây Sơn, cứ bảy đinh thì chọn một binh, đặt các hiệu quân như ngũ doanh, thập kì. Vài tháng sau, xa giá (Nguyễn Ánh) trở về kinh, chuẩn bị lễ cáo miếu, hiến tù binh. Quang Toản và các thần tử của ông ta bị hành hình một cách công khai, nghiêm khắc, và tuyên bố khắp cả nước. Từ đây, Bắc Nam đại định, biển trời cùng một mối, và đại nhất thống (thống nhất hoàn toàn) đến vạn đời sau!

Lại nói, từ khi Thái hậu cố Lê vào Yên Kinh [Bắc Kinh] của nhà Thanh, đã ở lại trại An Nam ở phía Tây bốn năm thì Nguyên Tôn [cháu đích tôn] mất. Đến năm thứ năm thì Lê Đế băng hà. Các bề tôi theo vua đi lưu vong đều bị Hòa Thân và những người khác phân tán đến các nơi riêng biệt, chỉ còn lại Thái hậu và Duy Khang ở Yên [Kinh]. Ở nơi đất khách quê người, muôn mối sầu ly biệt; trải qua bao mưa xuân sương thu, biết mấy lần ngậm ngùi thương cảm. Thái hậu và các quan lại thị vệ luôn muốn dâng biểu xin về nước, nhưng vì giặc Tây Sơn vẫn còn chiếm cứ, đành ngậm sầu mà thôi.

Năm Gia Khánh thứ 4 (1799), mùa đông tháng 10 ngày 11, Thái hậu vì ưu phiền mà lâm bệnh, băng hà tại trại An Nam. Vua Thanh hạ chỉ sai lễ thần lo việc tang, tạm quàn linh cữu tại lăng mộ của cố vua. Trước đó, năm Càn Long thứ 60 (1795) Bính Dần, vua Thanh đã truyền ngôi cho Hoàng tử thứ 11 là Gia Khánh đăng cơ, tôn vua Thanh làm Thái Thượng Hoàng. Vua Gia Khánh truy nhớ lời dặn của huynh trưởng (Lục Vương), định giết Hòa Thân. Nhưng vì Hòa Thân được Thái Thượng Hoàng sủng ái, nên chưa dám ra lệnh giết. Đến mùa xuân năm đó Thái Thượng Hoàng băng hà, vua Gia Khánh lập tức hạ lệnh bắt Hòa Thân ban chết, tịch biên toàn bộ gia sản.

Sau khi Hòa Thân bị giết, vua Thanh nhân đó cùng các thị thần bàn luận về việc cố vua An Nam, tỏ ý thương tiếc. Vẫn hạ chiếu triệu tập các cựu thần nhà Lê đến ở Lam Thần Xưởng [đúng ra là Lam Điền Xưởng, Từ Liêm Xưởng, một khu lưu vong dành cho người nước ngoài, chữ “Xưởng” nghĩa là khu, trại – thường chỉ nơi cư trú do triều đình bố trí], ban thưởng hậu hĩnh; tóc tai, quần áo đều cho phép tùy ý. Năm Gia Khánh thứ 8 (1803) Quý Hợi, cũng là năm Gia Long thứ 2 của Hoàng triều [nhà Nguyễn]. Giặc Tây Sơn đã bị dẹp yên, quốc triều sai sứ sang Thanh, dâng biểu trình bày tình hình, xin được phong vương. Các cựu thần nhà Lê nghe tin, liền dâng sớ lên các quan các bộ, xin được rước hai linh cữu cố vua và Thái hậu về an táng. Các quan các bộ tâu lên vua Thanh.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ba năm sau (năm Giáp Tý - 1804), vua Thanh hạ chiếu cho đưa cố vua An Nam về an táng, và cho phép các quan lại theo vua lưu vong được về nước. Quan cấp Tả lĩnh được cấp 10 lạng bạc, cấp Kiêu kỵ được 8 lạng bạc; từ viên lại trở xuống, đàn ông đàn bà người lớn được 5 lạng bạc, trẻ con được 3 lạng bạc. Lại hạ lệnh cho các tỉnh dọc đường cấp phát lương thực đưa ra khỏi cửa quan. Vào tháng giêng (năm Giáp Tý), khi mở linh cữu cố vua, thấy thịt xương gần như tiêu hết, riêng tim gan không bị hư thối, mà sắc máu ẩn hiện tươi hồng. Tính từ khi tạm quàn đến nay đã được 12 năm. Người xem không ai không kinh ngạc than thở. Đồng thời, cũng mở linh cữu Thái hậu và Nguyên tử. Cả hai quan tài của Viết Triệu và Văn Quyên cũng được đưa theo.

Mùa thu tháng 8 ngày 13, khi đến cửa ải (Nam Quan), Hoàng phi [vợ vua Lê Chiêu Thống] nghe tin, liền tự mình từ kinh Bắc ra cửa ải đón linh cữu. Từ đó, bà nhịn ăn, mỗi ngày chỉ uống một chén hồ, quỳ bên linh cữu, khóc than. Ngày 23 tháng 9, linh cữu đến Thăng Long, lập cung tế tại nhà Diên Tự công延嗣公 [tức Lê Duy Hoán, cháu vua Lê Hiển Tông. Giữa năm 1802, để mua chuộc con cháu nhà Lê, vua Gia Long phong ông làm Diên Tự công. Tháng 5 năm Đinh Sửu (1817), ông và Nguyễn Văn Thuyên (con Tiền quân Nguyễn Văn Thành) đều bị xử chém giết về tội mưu phản]. Hoàng phi lại mỗi ngày chỉ húp vài đoạn mía mà thôi. Ngày 12 tháng 10, các quan di chuyển quan tài. Thấy tim gan vẫn còn nguyên vẹn, sau khi tế xong, Hoàng phi khóc hết sức bi ai trước án, nói với Diên Tự công rằng:

- Thiếp đã nhẫn nhục gian khổ, đến nay đã mười lăm mười sáu năm. Không phải không có ngày có thể chết, nhưng vì Thái hậu, vua ta và Nguyên tử còn ở đây, tin tức không thông, sống chết chưa biết, nên vẫn phải đợi. Nay Thái hậu và vua ta đều đã băng hà, mà Nguyên tử cũng đã qua đời, linh cữu đã về cố quốc, việc của thiếp đã xong rồi! Thiếp xin được tuẫn tiết để theo hầu bên sơn lăng.

Nói xong, bà liền uống thuốc độc tự vẫn. Người nghe không ai không đau buồn thương tiếc. Sứ giả phương Bắc ở đây cũng than thở khen ngợi không ngớt. Ngày 13, lại sắm sửa áo liệm quan tài cho Hoàng phi. Ngày 28, linh cữu được đưa xuống thuyền, cùng về Thanh Hóa. Ngày 24 tháng 11, linh cữu cố vua, Thái hậu và Hoàng phi, Nguyên tử được an táng phụ vào bên cạnh núi Bàn Thạch của Hiển Tông, hai quan tài của Viết Triệu và Văn Quyên cũng được chôn theo.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760431410356.png

Minh họa Hoàng phi Nguyễn Thị Kim bên thi hài vua Lê Chiêu Thống
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước đó, khi về đến Nam Quan, Duy Khang bái biệt nơi an táng, rồi đi theo đường Lạng Sơn. Cố Trấn thủ Kinh Bắc Lê Hãn, khi về đến Thanh Hóa thì lâm bệnh qua đời. Vợ ông là người phương Bắc, đưa tang về quê quán làng Nộn Hồ嫩湖鄉, Nam Đường南塘, Nghệ An, tìm họ hàng nhà chồng để an táng, không trở về Bắc nữa. Bà nhận con của tộc làm con thừa tự, thủ tiết trọn đời, sống đến 80 tuổi thì mất. Các cựu thần theo vua lưu vong đều trở về quê hương quán quán. Chỉ có Trịnh Hiến được [nhà Nguyễn] trọng dụng. Sau khi về quê, vì tiền bạc và sắc đẹp, ông bị kẻ thù giết chết.

Từ khi Hoàng phi tuẫn tiết, cả nước và người Thanh đều coi đó là tấm gương tiết nghĩa. Do đó, Tổng trấn Bắc thành Thành Quận công北城總鎮誠郡公 [Nguyễn Văn Thành] đã dâng tấu lên triều đình, được vua ban thưởng và lệnh lập đền thờ tại quê quán của bà ở làng Tì Bà琵琶鄉, huyện Lương Tài良才, Kinh Bắc [nay thuộc thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh]. Đền được cấp ruộng tế, và cho dân làng được phục dịch để lo việc hương khói thờ cúng, đồng thời dựng bia khắc văn chiếu để biểu dương công trạng.

HẾT SÁCH
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
BỔ CỨU補

或為撰椒宮殉節行以傳于世,其辭曰:

Hoặc vi soạn tiêu cung tuẫn tiết hành dĩ truyền ư thế, kỳ từ viết:

[Có người đã soạn bài "Hành trạng người cung nữ chết theo để giữ tiết" để truyền lại cho đời, lời văn rằng:]

1. Xuất thân & tuổi trẻ

顺安良才来天德。古人命邑号琵琶。

Thuận An Lương Tài lai Thiên Đức,

Cổ nhân mệnh ấp hiệu Tỳ Bà.

[Thuận An, Lương Tài, nơi sinh ra người có phúc đức.

Xưa nay, người ta gọi vùng đất ấy là Tì Bà.]

琵琶古曲知何意。大堤轧彼貌如花。

Tỳ bà cổ khúc tri hà ý,

Đại Đê át bỉ mạo như hoa.


[Bài cổ “Tì Bà” biết mang ý gì?

Dải đê dài kia, người con gái đẹp như hoa.]

英華悉哔萃簪缨。景兴乙酉佳时节。

Anh hoa tất bị tụ trâm anh,

Cảnh Hưng Ất Dậu giai thời tiết.

[Tinh hoa hội tụ nơi dòng dõi quan lại.

Vào tiết tháng tốt năm Cảnh Hưng Ất Dậu (1765).]

望门诞育女中豪。言行工容无玷阙。

Vọng môn đản dục nữ trung hào,

Ngôn hành công dung vô tiếm khuyết.

[Trong dòng họ danh giá, sinh ra người nữ anh hùng.

Lời nói, hành vi, nữ công, nhan sắc – không gì là không hoàn mỹ.]

2. Vào cung & thời kỳ thịnh trị

越从十七入青宫。才登丙午梦呈熊。

Việt tùng thập thất nhập Thanh cung,

Tài đăng Bính Ngọ mộng trình hùng.

[Khi mới 17 tuổi, vào cung Thanh Cung (hậu cung).

Mới qua năm Bính Ngọ (1786), mơ thấy điềm sinh con trai.]

日高影照天恩重。海润星辉福气浓。

Nhật cao ảnh chiếu thiên ân trọng,

Hải nhuận tinh huy phúc khí nùng.

[Ánh mặt trời rực rỡ, ơn vua sâu nặng.

Biển cả êm đềm, sao sáng – phúc khí dồi dào.]

3. Biến loạn Tây Sơn & lưu vong

丁未猖獗西山贼。卷地风尘惊不测。

Đinh Mùi xương quyết Tây Sơn tặc,

Quyển địa phong trần kinh bất trắc.

[Năm Đinh Mùi (1787), giặc Tây Sơn hoành hành.

Gió bụi cuộn tràn, tai họa ập đến bất ngờ.]

羽葆随銮出凤城。御林星散长安北。

Vũ bão tùy loan xuất Phượng thành,

Ngự lâm tinh tán Trường An bắc.

[Cờ lọng theo vua rời khỏi kinh thành.

Vệ quân tan tác, chạy về phương Bắc.]

落慌匹马文峰还。别跟慈幔武崖山。

Lạc hoảng thất mã Văn Phong hoàn,

Biệt căn từ mạn Võ Nhai sơn.

[Lo lắng, một mình cưỡi ngựa về Văn Phong.

Rời xa bức màn từ mẫu, đến núi Võ Nhai.]

湘裙罗袜悲逾险。槨质蒲姿苦耐寒。

Tương quần la tất bi du hiểm,

Quách chất bồ tư khổ nại hàn.

[Váy lụa, tất mỏng – buồn bã vượt chốn hiểm nghèo.

Thân như gỗ quan tài, dáng như cỏ bồ – chịu rét mệt nhọc.]

远徼望龙音寂寞。闲庭泣虺泪阑干。

Viễn kiếu vọng long âm tịch mịch,

Nhàn đình khấp huy lệ lan can.

[Xa xôi ngóng trông long giá – âm tín lặng thinh.

Trong sân vắng, rắn khóc, lệ tuôn như mưa.]

4. Gặp quân cứu viện & tạm yên

忽然何处渊渊鼓。高平阃将拜迎銮。

Hốt nhiên hà xứ uyên uyên cổ,

Cao Bằng khẩn tướng bái nghênh loan.

[Bỗng đâu, đâu đó vang lên tiếng trống dồn dập.

Tướng trấn Cao Bằng ra nghênh đón long giá.]

驾回牧马暂休歇。御舟随进弗迷关。

Giá hồi mục mã tạm hưu khiết,

Ngự chu tùy tiến phất mê quan.

[Vua về, tạm nghỉ ngơi, thả ngựa ăn cỏ.

Thuyền rồng theo sau, không lạc lối.]

贼兵闻信来追蹑。箭落火飞锋刃接。

Tặc binh văn tín lai truy niếp,

Tiễn lạc hỏa phi phong nhận tiếp.

[Giặc nghe tin, đuổi theo sát nút.

Mũi tên rơi, lửa bay, lưỡi đao chạm nhau.]

数株夭竹过危滩。荡覆颠倾还利涉。

Sổ chu yêu trúc quá nguy than,

Đãng phúc điên khinh hoàn lợi thiệp.

[Vài bụi trúc non vượt qua ghềnh nguy hiểm.

Chao đảo, lật nghiêng, nhưng vẫn qua được.]

缘崖攀木上高巅。雨沱瘴重色迷天。

Duyên nhai phan mộc thượng cao điên,

Vũ đà chướng trọng sắc mê thiên.

[Leo vách đá, bám cây lên đỉnh cao.

Mưa tầm tã, sương độc dày đặc – trời đất mờ mịt.]

土人踊跃前途送。山觜崎岖小径穿。

Thổ nhân dũng dược tiền đồ tống,

Sơn chủy khi khu tiểu kính xuyên.

[Người bản xứ hăng hái dẫn đường.

Vượt con đường nhỏ quanh co, hiểm trở.]

路尽有山山有洞。洞中香井水清涟。

Lộ tận hữu sơn, sơn hữu động,

Động trung hương tỉnh thủy thanh liên.

[Hết đường là núi, núi lại có hang.

Trong hang có giếng thơm, nước trong veo.]

想来此洞何年凿。早知今日有神仙。

Tưởng lai thử động hà niên tạc,

Tảo tri kim nhật hữu thần tiên.

[Tưởng chừng hang này ai đào từ bao giờ?

Chắc hẳn xưa kia đã biết hôm nay có thần tiên.]

泉水山芝将度日。乌啼花落撩愁郁。

Tuyền thủy sơn chi tương độ nhật,

Ô đề hoa lạc liêu sầu uất.

[Uống nước suối, ăn sơn chi để sống qua ngày.

Tiếng quạ kêu, hoa rụng – gợi nỗi buồn man mác.]

5. Liên lạc & được cứu

信通内地判上司。详门根由声诘屈。

Tín thông nội địa phán thượng ty,

Tường môn căn do thanh cập khuất.

[Tin gửi về đất liền, trình lên quan trên.

Khai rõ lai lịch, nhưng lời lẽ quanh co, khó tin.]

上司火速拨舆檯。送到龙州权驻跸。

Thượng ty hỏa tốc bát dư đài,

Tống đáo Long Châu quyền trú tất.

[Quan trên vội cấp xe ngựa, đưa đến Long Châu tạm trú.]

供需品物既丰盈。守护兵丁尤慎密。

Cung nhu phẩm vật ký phong doanh,

Thủ hộ binh đinh vưu thận mật.

[Cung cấp đồ dùng dồi dào.

Lính gác canh phòng nghiêm ngặt.]

抚抬旋派进南宁。内外庄严厂旅亭。

Phủ đài toàn phái tiến Nam Ninh,

Nội ngoại trang nghiêm xưởng lữ đình.

[Sau đó được đưa về Nam Ninh.

Trong ngoài trang nghiêm, nơi trú ngụ như đình nghỉ.]

南北辛酸经几度。不曾造次错仪型。

Nam bắc tân toan kinh kỷ độ,

Bất tằng tạo thứ thác nghi hình.

[Trải bao gian nan Nam – Bắc.

Không một lần nào làm sai lễ nghi.]

维承慈训严规范。自是椒宫礼度明。

Duy thừa từ huấn nghiêm quy phạm,

Tự thị Tiêu cung lễ độ minh.

[Luôn ghi nhớ lời dạy từ mẫu, nghiêm khắc giữ phép tắc.

Quả là người cung nữ giữ lễ nghi rạng rỡ.]

6. Tin chiến thắng & hy vọng

越从上国允来援。万里凯歌闻捷信。

Việt tùng thượng quốc do lai viện,

Vạn lý khải ca văn tiệp tín.

[Nghe tin triều Thanh chuẩn bị sang cứu viện.

Tiếng hát chiến thắng vang xa vạn dặm.]

翠花仙仗指南还。上苑春融故宫殿。

Thúy hoa tiên trượng chỉ Nam hoàn,

Thượng uyển xuân dung cố cung điện.

[Cờ lọng ngọc rủ về phương Nam.

Vườn thượng uyển xuân ấm, cung điện cũ sắp trở về.]

友琴乐鼓奏新声。拥翠看花酬风愿。

Hữu cầm lạc cổ tấu tân thanh,

Ủng thúy khan hoa thù phong nguyện.

[Bạn bè, cầm, sáo, trống – tấu khúc mới.

Bao quanh hoa xanh, ngắm hoa – trả nợ ước mơ gió trăng.]

7. Hy vọng tan vỡ & quyết tử

无端虐焰更焚穹。忧喜喜忧翻手变。

Vô đoan ngược diệm cánh phần khung,

Ưu hỷ hỷ ưu phiên thủ biến.

[Bỗng dưng lửa ác thiêu trời.

Niềm vui, nỗi lo – đổi chỗ trong chớp mắt.]

万媲急拥六龙归。少海慈宫著紧随。

Vạn bệ cấp ủng lục long quy,

Thiểu hải từ cung trước khẩn tùy.

[Muôn người vội vã hộ tống long giá về.

Thái tử, Từ Cung vội vàng đi theo.]

提携转眼成相错。隆谪交迷可奋飞。

Đề huề chuyển nhãn thành tương thác,

Long trích giao mê khả phấn phi.

[Dắt dìu nhau, chớp mắt đã lạc mất.

Lên cao, rơi xuống – mờ mịt, làm sao thoát?]

觅条西上纲罗贯。幽独一肠欲断。

Mịch điều tây thượng cương la quán,

U độc nhất phương trường dục đoạn.

[Tìm đường về Tây, nhưng lưới giăng kín.

Cô độc một nơi, ruột gan như đứt.]

媚珠虞草岂无时。何苦流离空匿怨。

Mị châu ngu thảo khởi vô thì,

Hà khổ lưu li không nặc oán.

[Chẳng lẽ không lúc nào được như Mỵ Châu, cỏ Ngu Cơ (biểu tượng trung trinh)?

Sao phải lang thang, oán hận vô ích?]

谁云夏鼎久微烟。旅成再造在遗编。

Thùy vân Hạ đỉnh cửu vi yên,

Lữ thành tái tạo tại di biên.

[Ai bảo nhà Hạ mất rồi không phục hưng?

Lữ Thành từng giúp phục quốc trong sử sách.]

上国同袍修戟日。君王尝腑卧薪年。

Thượng quốc đồng bào tu kích nhật,

Quân vương thường phủ ngọa tân niên.

[Triều Thanh từng là đồng minh.

Vua ta từng nếm mật nằm gai như Câu Tiễn.]

假使雄才忧复社。能无遗恨一婵娟。

Giả sử hùng tài ưu phục xã,

Năng vô di hận nhất thiền quyên.

[Giá như có người tài lo việc phục quốc,

Sao lại để một người con gái phải chết tiếc nuối?]

8. Tin đồn & tuyệt vọng

迨夫癸丑能髯绝。底事疑信闻传说。

Đãi phu Quý Sửu năng nhiên tuyệt,

Để sự nghi tín văn truyền thuyết.

[Đến năm Quý Sửu (1793), tin về bậc anh hùng đứt đoạn.

Việc này tin hay không, chỉ là lời đồn.]

岂其民望旧君深。此谋恐坠西山谪。

Khởi kỳ dân vọng cựu quân thâm,

Thử mưu khủng trụy Tây Sơn trích.

[Chẳng lẽ dân còn nhớ vua cũ sâu sắc?

Nhưng âm mưu này e rằng sẽ rơi vào tai họa Tây Sơn.]

汉皇兴运命更新。封使来时语亦云。

Hán hoàng hưng vận mệnh canh tân,

Phong sứ lai thời ngữ diệc vân:

[Vận nước Hán đã đổi, triều đại mới lên.

Sứ giả đến phong tước cũng nói vậy.]

若把连城先碎了。未必香魂伴紫云。

“Nhược bả Liên Thành tiên toái liễu,

Vị tất hương hồn bạn tử vân.”

[Nếu ngọc Hòa Thị bị đập vỡ trước,

Thì hồn thơm làm sao được cùng mây tía?]

9. Quyết tử để giữ tiết

一十六年会郑重。肯轻孙妹汉江身。

Thập lục niên hội trọng,

Khẳng khinh tôn muội Hán Giang thân.

[Sau 16 năm giữ gìn trang trọng,

Sao lại để thân con cháu nhẹ như sông Hán?]

会使一二袍兄弟。直来北塞叩原因。

Hội sử nhất nhị bào huynh đệ,

Trực lai Bắc tái khấu nguyên nhân

[Sợ rằng mai này anh em đồng bào sẽ đến nơi biên cõi,

Hỏi vì sao ta không giữ trọn danh tiết.]

内投誓到三陵所。便将性命委罗巾。

Nội đầu thệ đáo Tam Lăng sở,

Tiện tương tính mệnh ủy La cân.

[Nếu trở về, thề sẽ đến trước ba ngôi lăng,

Liền trao mạng sống cho chiếc khăn lụa (tự vẫn).]

从古营生劳且苦。谁知谋死更艰辛。

Tòng cổ doanh sinh lao thả khổ,

Thùy tri mưu tử cánh gian tân.

[Từ xưa, kiếm sống đã cực khổ.

Ai ngờ toan tính cái chết còn gian nan hơn.]

讵意天机相巧凑。宰臣扈跸先题奏。

Cự ý thiên cơ tương xảo thấu,

Tể thần hộ tất tiên đề tấu.

[Nào ngờ trời xui khiến vừa đúng lúc.

Tể thần theo vua dâng sớ trước.]

大清皇帝准南还。序逢甲子中秋候。

Đại Thanh Hoàng đế chuẩn Nam hoàn,

Tự phùng Giáp Tý trung thu hậu.

[Vua Thanh chuẩn cho hồi hương về phương Nam.

Đúng vào tiết Trung Thu năm Giáp Tý (1804).]

初闻皇遽便亲迎。常餐顿减花容瘦。

Sơ văn hoàng cứ tiện thân nghênh,

Thường xan đốn giảm hoa dung sấu.

[Mới nghe tin đã vội vàng chuẩn bị đón.

Cơm ăn giảm sút, nhan sắc tiều tụy.]

10. Tự vẫn & vinh danh

迢迢舟楫渡泸江。轿伞笙镛入祀堂。

Điều điều chu tịch độ Lô giang,

Kiệu tán sinh dung nhập tự đường.

[Thuyền rồng vượt sông Lô Giang

Kiệu, dù, nhạc khí đưa vào nơi tế tự.]

士庶凝愁瞻卤簿。臣僚拭泪献琼觞。

Sĩ thứ ngưng sầu chiêm lộ bộ,

Thần liêu thức lệ hiến quỳnh thương.

[Sĩ dân nín thở nhìn nghi lễ.

Quan lại lau nước mắt, dâng chén ngọc.]

闺中况味描难尽。薄将礼物浣香汤。

Khuê trung huống vị miêu nan tận,

Bạc tương lễ vật hoán hương thang.

[Nỗi lòng khuê các khó tả hết.

Tặng lễ mọn, tắm nước thơm.]

启𫷷一睹冠袍样。敛衽凝眸拜上床。

Khải khâm nhất đổ quan bào dạng,

Liêm nhậm ngưng mâu bái thượng sàng.

[Mở quan tài, nhìn lần cuối dáng dấp áo mão.

Kéo áo, cúi đầu, lạy lần cuối trên giường.]

帐里回身辞女主。甘将鸩毒沃肝肠。

Trướng lý hồi thân từ nữ chủ,

Cam tương chẩm độc ốc can trường.

[Trong màn trướng, quay người từ biệt chủ nhân.

Vui vẻ uống thuốc độc, đổ vào gan ruột.]

说闹黄髫皆骇异。唁闻省署亦姿伤。

Thuyết não hoàng điều giai hãi dị,

Yến văn tỉnh thự diệc tư thương.

[Lớn nhỏ nghe chuyện đều kinh ngạc.

Tỉnh phủ nghe tin cũng rơi lệ.]

红锦青蚨荣賵賻。艳辞绮句送称扬。

Hồng cẩm thanh phù vinh phúng phú,

Diễm từ ỷ cú tống xưng dương.

[Vải đỏ, tiền xanh – lễ vật vinh dự.]

Lời văn diễm lệ, câu thơ đẹp – ca ngợi không ngớt.

妙哉一死求而得。死得声名万古香。

Diệu tai nhất tử cầu nhi đắc,

Tử đắc thanh danh vạn cổ hương.

[Tuyệt diệu thay, cái chết mong cầu đã đạt được.

Chết để danh thơm muôn đời.]

11. Bài học & kết luận

繄彼春闺如玉好。暮雨朝云无足道。

Y bỉ xuân khuê như ngọc hảo,

Mộ vũ triều vân vô túc đạo.

[Ôi người thiếu nữ như ngọc trong khuê các.

Tình ái mộng mị (mưa chiều, mây sáng) chẳng đáng nói.]

黄金横带为何人。谄媚平生恣奸狡。

Hoàng kim hoành đới vị hà nhân,

Siểm mị bình sinh tứ gian giảo.

[Dải vàng ngang đai vì ai mà mang?

Kẻ nịnh hót, gian trá – cả đời làm điều xấu.]

一朝世变钟虡移。拜虏献谀如故套。

Nhất triều thế biến chung cự di,

Bái lỗ hiến du như cố sáo.

[Một ngày vận nước đổi, chuông khánh dời chỗ.

Lại cúi đầu dâng lời nịnh bợ như cũ.]

醉中一唱觉寒心。冷处加鞭应靦貌。

Túy trung nhất xướng giác hàn tâm,

Lãnh xứ gia tiên ứng điển mạo.

[Giữa cơn say, hát một bài – lòng chợt lạnh.

Ở nơi lạnh lẽo, bị đánh roi – đáng phải xấu hổ.]

几会粉黛弼臯刑。怪得琚璜裨契教。

Kỷ hội phấn đãi bật Cao hình,

Quái đắc cu hoàng bì khế giáo.

[Biết bao người đàn bà giúp việc hình ngục.

Lạ thay, ngọc ngà lại giúp việc gian tà.]

上比葩诗樛逮葛。旁稽湘岭竹生班。

Thượng tỷ ba thi câu đãi cát,

Bàng kê Tương lĩnh trúc sinh ban.

[So với thơ xưa Mộc qua, Cát Lũy,

Hay tìm ở núi Tương, trúc mọc thành hàng.]

既有古人行所易。讵无今日得其难。

Ký hữu cổ nhân hành sở dịch,

Cự vô kim nhật đắc kỳ nan.

[Đã có người xưa làm điều dễ dàng,

Sao nay lại không ai làm nổi điều khó?]

Đoạn văn đó là do cựu thần nhà Lê, Đồng Bình Chương Sự同平章事, Tô Phái Hầu Nguyễn Huy Túc蘇派侯阮輝宿 soạn.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đối với những vị quan đi theo phò tá vua [sau khi triều Lê sụp đổ], vào mùa hè năm Tự Đức thứ 14 [1860] các bộ thần đã tuân theo nghị luận, đặc biệt được sắc chỉ cho phép lập đền thờ tại hành lang phía Tây thành Thăng Long. Đền thờ thuộc phường Thụy Chương, tổng Vĩnh Thuận [nay là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội], và thứ tự bài vị được sắp xếp theo nghị luận của bộ:

Chính giữa:

Trưởng Phái Hầu, thụy Trung Nghị, Lê Quýnh. 長派侯諡忠毅黎侗

Bên trái (11 người):

  • Đề Lĩnh Nguyễn Viết Triệu提領阮曰肇
  • Thượng Thư Bút phong Đinh Giản尚書筆峯廷簡
  • Đĩnh Vũ Hầu Trần Quang Châu琔武侯陳光珠、
  • Trần Danh Kệ陳名偈
  • Hữu Thị Lang Nguyễn Huy Diệu右侍郎阮輝耀
6.Trấn Thủ Lê Hân镇守黎忻

7. Chỉ Huy Lê Huynh Trị指揮黎兄值

8. Chưởng Tứ Bảo Lê Quý Thông掌四寶黎貴通

9. Nguyễn Hùng Trung阮雄忠

10. Lê Tùng黎松

11. Kinh Bắc Tả Tham Chính Bình Vọng Lê Trọng Thường京北左参政平望黎仲瑺

Bên phải (11 người):

  • Tĩnh Nạn Công Thần Trần Danh Án靖難功 臣陳名案
  • Tuyên Quang Thanh Hình Hiến Sát Phó Sứ Nguyễn Đình Viện宣光清刑憲察副使阮廷院
  • Nội Thị Nguyễn Quyên内侍阮涓
  • Trần Đĩnh陳珽
  • Đốc Đồng Nguyễn Quốc Đống督同阮國棟
  • Địch Quận Công Hoàng Ích Hiểu迪郡公黃益曉
  • Nguyễn Đình Miên阮廷綿
  • Đàm Thận Xưởng譚慎廠
  • Vũ Úy Nguyễn Trọng Du武尉阮仲瑜
  • Cận Quang Hầu Phạm Như Tùng近光侯范如松
Tổng cộng 22 người này đều được truy thụy hiệu "Trung Mẫn忠敏".

Hạ điện phía Đông thờ 5 người:

  • Nguyễn Ngọc Liễn阮玉璉
  • Vương Triệu王肇
  • Vương Chấn Thiều王振韶
  • Tôn Hiệp尊洽
  • Lê Diên Định黎延定
Hạ điện phía Tây thờ 5 người:

  • Trần Lương陳良
  • Trần Đăng陳璒
  • Vũ Trọng Dật武仲逸
  • Trần Dần陳寅
  • Trần Hạc陳鶴
Tính từ Lê Đĩnh trở xuống, tổng cộng có 33 người, tất cả đều được tôn vinh là bề tôi tiết nghĩa của nhà Lê cũ, và ngôi đền cũng được đặt tên là "Đền thờ Tiết nghĩa triều Lê cũ黎朝節義祠". Điều này nhằm thể hiện sự đề cao đạo lý của triều đình trong việc loại bỏ cái xấu và đề cao cái tốt, bồi đắp phong hóa đến tận cùng. Và để những người đọc sau này biết rằng, vào thời điểm khó khăn ấy, đã có những người như vậy, và vinh quang của họ sẽ còn lưu truyền mãi vạn đời.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bản dịch đến đây là hết, còn phần khảo cứu 150 trang không post được, các cụ đọc sách giấy scan.
Ngày mai sẽ scan xong, tặng cụ nào muốn đọc cho liền mạch.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top