[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
-----------------------------

[Sách vở nước ta viết nhiều về vua Chiêu Thống và các bầy tôi khi ở Thăng Long, phần lớn là những chi tiết không mấy gì làm vẻ vang. Thực ra ngay trong thời điểm quan trọng này, vai trò của nhà Lê và các lực lượng cần vương cũng chỉ hòan toàn phụ thuộc, không được tham gia vào những quyết định lớn. Những khó khăn nhà Thanh phải đối diện về quân lương, phu dịch vua Lê và người chung quanh chỉ biết rất mơ hồ và kế hoạch triệt binh của vua Càn Long cũng không được tiết lộ. Trong khi đó ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Ðông, Vân Nam … và ngay tại Thăng Long vẫn tiếp tục có những công tác bề mặt để che dấu những chuẩn bị mới. Hãy xem một việc nhỏ là kế hoạch đưa Lê Duy Cẩn sang Trung Hoa an tháp để biết lối phòng gian bảo mật của Tôn Sĩ Nghị:

“Còn việc thần khâm phụng dụ chỉ, ra lệnh cho đưa Lê Duy Cẩn về nội địa đủ thấy hoàng thượng vì vua nước này mà trù liệu vạn toàn. Khi quốc vương kia xuất thành đến nơi quân doanh của thần ở bờ sông, thần liền ngay tận mặt viết một tờ giấy mật truyền ân chỉ cho tòng quan ở ngoài trướng không biết, để y một mình đọc mà thôi.

Lê Duy Kỳ cũng chính tay viết trả lời cảm kích ca tụng lòng nhân của hoàng thượng lo nghĩ cả đến việc sâu xa. Ý của y là Lê Duy Cẩn là người ngốc nghếch [nguyên văn xuẩn ngu – 蠢愚] dễ dàng quản thúc, hiện nay xem xét cử động không thấy có thái độ gì khác, lúc này hãy để yên không đụng chạm đến, nếu như tương lai có dấu hiệu khả nghi, lúc ấy hãy bắt giữ trừng trị.

Thần viết trả lời rằng tuy Lê Duy Cẩn là kẻ vô năng nhưng y lại dễ bị người dẫn dụ lừa dối, kẻ bên ngoài có thể lợi dụng danh nghĩa mưu tính việc nọ kia, gây họa không nhỏ. Vậy hãy tuân chỉ để khi thần triệt binh đưa y nhập quan an tháp để khỏi ai xúi bẩy, dứt các mối manh gây loạn.”
[KDANKL, quyển XII, tr. 11-2]

Cũng vì xét đoán theo bề ngoài như thế, Ngô Cao Lãng đã viết trong Lịch Triều Tạp Kỷ:

“ … Khi ấy tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã thu được đô thành Thăng Long, tự cho là xong xuôi mọi việc, giữ quân ở Tây Long không có ý ngó ngàng tới phương Nam nữa. Các thần dân ứng nghĩa của 4 trấn Thanh Nghệ hàng ngày tới trước cửa quân doanh xin cho tiến quân vào Nam, đều bị Nghị bỏ qua không đếm xỉa tới. Vua Chiêu Thống ngày đêm van xin, Nghị cũng nói khéo để thoái thác ...” [Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (Hoàng Văn Lâu dịch) (2005) tr. 585]

Việc được giao lại một chính quyền để tổ chức và ổn định trong một thời gian gấp rút đã gây ra rất nhiều khó khăn cho vua Lê. Ngoài một số văn quan giỏi từ chương hơn cai trị, vua Chiêu Thống gần như không có một chỗ dựa nào khác. Ngay cả việc nuôi ăn số nghĩa dũng được Tôn Sĩ Nghị giao cho cũng đã là một gánh nặng. Các khu vực khác thì thổ hào vẫn là chính, quan lại bổ nhiệm chỉ cho có mặt.

Theo Bắc Hành Tùng Ký, vua Chiêu Thống giao cho Lê Quýnh lo việc binh lương để gấp kỳ tiến đánh nhưng Tôn Sĩ Nghị gọi vua Lê bắt phải thu lại ấn, đổi làm bình chương sự. Sự thay đổi đó ít nhiều đưa đến những bất hoà giữa vua Lê và Lê Quýnh mà người ngoài cho rằng nguyên nhân chính là việc vua Lê chỉ lo “đền ơn báo oán”, không lo đến chuyện đại sự. Có lẽ vì bất mãn, nhân đang sốt rét, Lê Quýnh về quê ông ở Ðại Mão để chữa bệnh.

Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị [lúc này ông ta đã đổi sang làm tổng đốc Tứ Xuyên] ngày mồng 3 tháng giêng năm Càn Long thứ 55 [16-2-1790] thì:

“Năm trước, Lê Quýnh đưa mẹ và vợ Lê Duy Kỳ đến gõ cửa quan cầu cứu. Thần [Tôn Sĩ Nghị tự xưng] đến biên ải Việt Tây [tức biên giới tỉnh Quảng Tây] xem xét cựu thần nhà Lê, chỉ thấy Lê Quýnh ngôn từ, cử động có vẻ khí khái, xem ra nhanh nhẹn tháo vát nên đã sai đi theo đường Quảng Ðông về nước tìm chủ.

Thần cũng tuân theo thánh ân cấp cho Lê Quýnh tiền bạc phí tổn nên khi gặp Lê Duy Kỳ rồi trở qua báo tin liền cho y theo làm hướng đạo. Về sau không thấy Lê Duy Kỳ đâu nên thần đã sai y đi tìm, mãi đến khi thần tiễu sát qua sông, khắc phục Lê thành [tức thành Thăng Long] rồi, Lê Quýnh lúc bấy giờ mới cùng Lê Duy Kỳ đến quân doanh.

Nguyên do là vì bọn họ dò thám thấy quân địch đóng ở các sông Thọ Xương, Thị Cầu, Phú Lương thế mạnh, nghĩ rằng quan binh không thể thắng nổi nên không dám ra. Thần biết ngay bọn Lê Quýnh trước đây qua cửa ải, nói khoác rằng ở xứ này nghĩa sĩ tụ tập, một khi đại binh đến nơi sẽ đứng lên tiếp tay đánh giặc làđiều không thực.

Thần đóng binh ở bờ sông Lê thành, Lê Quýnh lúc đầu có đi theo Lê Duy Kỳ đến yết kiến mấy lần, sau đó mất tăm không thấy nữa. Thần mới hỏi Lê Duy Kỳ thì nghe nói Lê Quýnh bị sốt rét nặng, hiện đang ngoạ bệnh. Thần nghĩ lúc này Lê thành mới khôi phục, quân giặc chưa trừ xong, đâu phải là lúc lặng thinh chữa trị, nên mới truyền cho y đến bờ sông, trách mắng các ngươi khi còn ở nội địa [tức ở Trung Hoa] từng bẩm là một khi đại binh xuất quan, người trong nước sẽ vân tập hưởng ứng, thế mà mấy lần cùng giặc huyết chiến, nào có thấy các ngươi tụ tập nghĩa dũng, để trợ thanh uy đâu?

Ðến bây giờ lại cáo ốm không ra, đủ biết các ngươi không chút thiên lương, phụ lòng đại hoàng đế giúp cho sự mất còn của kẻ yếu. Thần nặng lời mắng mỏ, Lê Quýnh phục xuống đất dạ dạ, khăng khăng nói là quả thực bị bệnh. Thần lại gặng hỏi kỹ càng, Lê Quýnh [ngươi] tuy có ốm thật nhưng [có phải] vì khi Lê Duy Kỳ được nước rồi, lại không hết lòng uỷ nhiệm nên mới thoái thác?

Thần xem y tính khí không biết đại thể, lòng dạ bạc bẽo. Lại nghe Lê Duy Kỳ ở kinh thành, tru lục mấy kẻ bạn thần là do mấy kẻ tuỳ tòng như bọn Lê Quýnh ở bên cạnh xúi biểu nên lập tức ngăn Lê Duy Kỳ không cho làm nữa. Lại viết một bài dụ mấy trăm câu, chỉ cho y biết lúc này cần phải đối xử khoan dung, thu phục nhân tâm để an lòng kẻ phản trắc, tuyệt đối không được toan tính chuyện trả thù khiến cho lòng dân phản bạn, thân thích chia lìa.

Lê Duy Kỳ vâng lời, cầm tờ dụ của thần viết đi ra. [KDANKL, quyển XXVI, tr. 1-3]

--------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
--------------------

Đúng lúc sắp đến ngày Tết Nguyên Đán, vào ngày 25 tháng Chạp, quan Lễ bộ tấu rằng sẽ đóng ấn [ngừng làm việc công, các giáo sĩ ở Đàng Ngoài lúc đó cho biết tiếng Việt gọi là Phong Ấn], các nghi lễ tại miếu xã và triều đình đều tiến hành như thường lệ. Chỉ có điều, vì Thiên triều đại soái từ xa đến, các vật phẩm cúng tế và nghi thức xin được làm theo lễ sứ giả phong vương, tăng lên gấp đôi. Bách quan và quân sĩ cũng được nghỉ mười ngày để đón mừng xuân.


Đúng là:

處堂燕雀歡相哺,在棘銅駝慢不憂。

Xứ đường yến tước hoan tương bộ, tại cức đồng đà mạn bất ưu.

(Én sẻ trong nhà vui vẻ mớm mồi cho nhau, Chim đồng đà bên gai góc thản nhiên không lo âu)

Chưa biết sự việc sau đó sẽ ra sao, xin nghe hồi sau sẽ phân giải.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
[Sau khi nhận được chỉ dụ của vua Càn Long, Tôn Sĩ Nghị xem xét tình hình mọi việc, ngày mồng 8 tháng Bảy năm Mậu Thân [năm Càn Long 53] (ngày 9 tháng 8 năm 1788) tâu lên chính yếu dịch ra như sau:

Tra xét việc hai họ Lê Nguyễn thù hằn giết chóc lẫn nhau nguyên do đã từ lâu. Theo lời bọn Nguyễn Huy Túc thì Nguyễn Nhạc là một họ nhỏ đất Tây Sơn, không phải họ lớn phụ chính (tức chúa Nguyễn ở Ðàng Trong) nhưng hai bên đánh lẫn nhau cũng đã nhiều năm. Nay đất An Nam (nói về Bắc Hà) một nửa thuộc về Nguyễn Nhạc còn tự tôn vẫn làm chủ một giải Sơn Nam, đất đó có thể giữ được, quân binh có thể chiến đấu, xem ra dòng nhà Lê chưa đến nỗi tuyệt, tước mà bản triều phong cho vẫn còn. Còn như đất đai khi rộng khi hẹp, quốc thế lúc thịnh lúc suy, ngoại phiên của thiên triều thật nhiều, thế không thể lấy thước tấc mà đo, không phải lúc nào cũng lấy binh mã lương tiền của nội địa mà bao biện cho được. Nếu Nguyễn Nhạc có bụng chiếm cả nước An Nam, không để cho tự tôn một tấc đất, một nước triều cống trong một trăm mấy chục năm qua, nay bỗng dưng bị diệt, thực có liên quan đến thể thống thiên triều, không thể không điều động quan binh phạt bạo thảo tội.

(Ở đây có lời châu phê của vua Càn Long: Trẫm phân vân chính là ở chỗ đó)

Dụ chỉ của hoàng thượng thật công bằng ngay chính, thần chỉ biết tùy thời tùy việc mà tuân theo biện lý.Xin để cho thần tìm hiểu dư luận cho kỹ lưỡng, hỏi cặn kẽ tình hình nước man di kia, nếu như Nguyễn Nhạc có bụng gây họa, muốn chiếm cả nước An Nam thì nội địa không thể chỉ vì họ Lê trợ thế dương uy, e rằng tự tôn khó có thể giữ được nước, càng lúc càng tan rã, lúc đó Nguyễn Nhạc có cả nước An Nam, khí cục đã thành, không thể không hao phí binh lực nội địa, đến lúc đó cũng đã muộn rồi, thành thử thần xin được điều bát binh lực các nơi chung quanh, huấn luyện thao phòng, nói rõ định ngày ra quân, chia đường tiến đánh. [Nguồn: Trang Cát Phát, Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (TTVC), 1982) tr. 349. Cung Trung Ðáng, Cố Cung Bác Vật Viện (viết tắt: CCBVV) (Ðài Loan), tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8 tháng Bảy, Càn Long thứ 53 (1788); Quân Cơ Xứ, CCBVV, bản sao tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 8 tháng Bảy năm Càn Long 53.]

Nguyễn Huệ cũng hay biết tin này nên sai quan trấn thủ Văn Uyên文淵 là Hoàng Ðình Cầu黃廷球 và Nguyễn Ðình Liễn阮廷璉 đem lễ vật lên tiến cống, trên từ biểu ký tên là Nguyễn Quang Bình阮光平. Tuy chưa biết rõ tình hình ra sao nhưng Tôn Sĩ Nghị cũng hư trương thanh thế để dò xem phản ứng của quân Tây Sơn thế nào. Ngày mồng 1 tháng Bảy năm Càn Long 53 [2-81788], Tôn Sĩ Nghị đích thân đến Nam Quan ra lệnh cho phó tướng Vương Ðàn王檀 hiệnđang chỉ huy hiệp Tân-Thái đứng trên cửa quan, lớn tiếng đọc bản hịch kết tội rồi ném hịch văn qua bên ngoài tường để cho quân Tây Sơn nhặt được, đại khái nội dung như sau:

“Ngươi Nguyễn Nhạc đuổi chủ làm loạn cương thường, vọng tưởng việc soán nghịch. Tổng đốc nghe tin đích thân đến đây, đã tâu lên đại hoàng đế điều động quan binh các tỉnh Vân Quí, Xuyên Quảng, Phúc Kiến vài mươi vạn, chia đường ra tiến đánh. Nguyễn Nhạc ngươi nếu không hối tội tự mình đổi mới, nghinh đón chủ cũ trở về, bảo toàn gia quyến, lại dám quấy nhiễu thiên triều, đem nạp cống vật.

Di mục các ngươi đã từng nhận quan chức của họ Lê, bỗng dưng trở mặt thờ kẻ thù, thay chúng gõ cửa quan cầu xin, thực đúng là kẻ vô liêm sỉ. Ðúng ra ta phải bắt các ngươi ngayđể xin hoàng thượng hạ chỉ đem ra chính pháp. Nhưng nghĩ rằng các ngươi chỉ là những di quan thấp kém, không đáng để trừng trị, vậy hãy mau mau trở về nói cho Nguyễn Nhạc biết rằng, hoạ phúc chỉ trong nháy mắt, các ngươi tự thu lấy.”


[Nguồn: Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 353-4. Cung Trung Ðáng, CCBVV, bản sao tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8 tháng Bảy năm Càn Long 53 [9-8-1788]. Bản văn này cũng xuất hiện trong Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược [quyển II]

Trong tình hình đó, vua Càn Long ra lệnh cho Quân Cơ Xứ nghiên cứu tình hình, đến ngày mồng 5 tháng Bảy năm Càn Long 53 [6-8-1788], A Quế trình lên dịch ra như sau:

“… Nước An Nam kia ở nơi phương nam xa xôi nóng nực, từ khi kiến quốc tự đời Tống đến nay, họ Nguyễn, họ Lý, họ Trần, họ Lê qua mấy đời soán đoạt tranh chấp lẫn nhau. Ðời Vĩnh Lạc nhà tiền Minh, nhân vì Lê Quí Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã ba lần sang dẹp loạn, mất đến hơn chục năm, ngặt vì dân nước đó tính tình phản phúc, nên cũng phải bỏ về nhân vì họ Trần vô hậu, khi Lê Lợi cầu phong liền sách lập trở lại. Về sau hai họ Lê Mạc tranh giành nhiều năm, triều ta uy đức tràn đầy nên nước đó khuynh tâm thần phục, triều cồng không dứt. Nhưng họ Lê không tự phấn chấn lên được, bị cường thần chế ngự, hiệu lệnh lại không ban bố xuống được toàn cõi, nguy cơ từ đó mà ra. Nay Lê Duy Kỳ bị Nguyễn Nhạc bức bách phải bôn đào, theo lời bọn di mục Nguyễn Huy Túc thì tự tôn nay chạy về một giải Sơn Nam mưu tính chuyện khôi phục.

Nếu như lòng người còn nhớ đến triều đại cũ, Lê Duy Kỳ có thể tụ tập binh dân tiễu trừ được Nguyễn Nhạc, thu phục Lê thành, nghinh đón quyến thuộc trở về. Hoặc giả tuy Lê Duy Kỳ hiện đang trốn tránh, các di mục cũng có thể đón tự tôn mưu tính việc khôi phục, theo như thánh dụ đợi cho đến lúc mọi sự đãđịnh, lúc đó sẽ đón quyến thuộc về nước, không cần phải hưng sư làm cho lớn chuyện. Còn như tất cả nước An Nam đã bị Nguyễn Nhạc chiếm đóng rồi, đợi cho Tôn Sĩ Nghị tra xét rõ ràng tin tức của Lê Duy Kỳ, tâu lên, nặng hay nhẹ, gấp rút hay thư thả, khi đó phải làm gì ắt thánh minh sẽ có biện pháp
.”

Có vẻ các đại thần nhà Thanh đã không hưởng ứng việc đưa quân sang nước ta, việc động binh là do ý riêng của vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị, không thông qua quyết định của Quân Cơ Xứ.

Trước khi xuất quân, vua Thanh sai tổng đốc Vân Nam – Quí Châu theo đường Mông Tự hư trương thanh thế, lại muốn đánh đòn tâm lý nên tung ra một tờ hịch giả vờ để cho Nguyễn Huệ một sinh lộ cốt cho lực lượng Nam binh ngã lòng, dịch ra như sau:

“… Bản bộ đường tổng đốc các tỉnh Vân Nam – Quí Châu cùng với tổng đốc Quảng Ðông – Quảng Tây họ Tôn đều trông coi hai tỉnh, cùng phụng thánh chỉ đem quân tiễu trừ bọn giặc. Nghĩ đến tổ tiên trấn mục các ngươi từ trước đến nay vẫn là bầy tôi họ Lê, nay đến cháu con lại không biết cùng đứng lên, đồng tâm hiệp lực, vì tự tôn ngoài chống xâm lấn, trong sửa sang chính sự, lại đem lòng phản chủ, theo kẻ thù, cam tâm làm điều tà vạy, đến nỗi Nguyễn tặc đuổi chủ làm loạn luân thường, tàn hại dân chúng, sưu cao thuế nặng, làm điều trái nghĩa. Một khi đại quân tập hợp cùng tiễu trừ, bọn chúng lập tức bị tiêu diệt, còn những kẻ hùa theo đảng giặc, ắt sẽ bị (dân) nổi lên chém giết. Chính vì thế, nay ta truyền hịch cho các trấn mục các ngươi hãy nghĩ đến đại nghĩa, cùng nhau ra sức một lòng, chiêu tập binh dân, quét sạch nghịch tặc, nghênh đón chủ cũ, không những được tiếng trung với quốc gia, mà cũng còn được đại hoàng đế ân thưởng.

Còn như muối mặt mà chạy theo giặc, quay sang cho Nguyễn tặc dùng, chiếm giữ một vùng, thì bọn trấn mục các ngươi quả là vô nhân tâm, không biết gì đến thiên lý. Ðại binh tiến lên tiễu trừ, nhanh như sấm chớp, ắt những kẻ đi theo giặc sẽ bị tru diệt trước hết. Hiện nay bản bộ đường đang tập hợp mấy vạn binh mã Vân Nam – Quí Châu, cùng tổng đốc bộ đường họ Tôn của Lưỡng Quảng định kỳ tiến phát. Ðợi khi Lưỡng Quảng Tôn tổng đốc cho biết ngày giờ tiến quân rồi, bản bộ đường sẽ tức tốc đốc thúc quan binh hai mặt cùng đánh vào, các ngươi mỗi đứa chiếm cứ một vùng nhỏ bằng viên đạn, liệu chống đỡ được bao lâu, thiên binh tới nơi, ắt thành tro bụi. Còn như trấn mục các ngươi biết tỉnh ngộ mà theo đường thuận, danh tiết cũng vẹn toàn, còn như chấp mê theo đường nghịch thì thân mình, gia quyến không bảo vệ được, hoạ phúc đã rõ ràng, hãy tự chọn lấy, ấy là tình thực bảo cho biết điều thay cũ đổi mới, chẳng phải là ta xui các ngươi làm điều phản phúc.

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ các ngươi vốn là bầy tôi họ Lê, nay dám làm điều phản loạn, đem quân đuổi chủ, dân trong nước không ai là không phẫn hận, hiện nay Tôn tổng đốc đích thân dẫn đại binh tiễu trừ, lại có trấn mục Lạng Sơn là Phan Khải Ðức cùng nhân mã bảy châu, thêm xưởng dân châu Văn Uyên là Hoàng Liêu Ðạt, xã mục châu Thất Tuyền là Nguyễn Trọng Khoa tất cả kéo nhau đi trước. Binh mã Lưỡng Quảng uy phong cường tráng, liệu bọn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ yêu ma tiểu xú các ngươi, dám giơ cái càng bọ ngựa chống trả, một khi bắt được rồi ắt sẽ lập tức tru diệt, còn như trốn chạy vào nơi núi rừng, thì dân trong nước cũng sẽ bắt lấy đem hiến cho vua Lê, quốc vương các ngươi trước bị đuổi đi, lẽ nào bây giờ lại dung thứ?

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đường Quảng Tây đã không còn cách nào chạy, tội thật do chính các ngươi gây ra. Nếu như sớm hối lỗi đổi mới, cải tà qui chính, mang thân đến biên cảnh Vân Nam, bản bộ đường âu cũng thay mặt tâu lên đại hoàng đế gia ân đặc biệt, tha cho khỏi chết, cũng như trước đây An Nam di mục các ngươi là Hoàng Công Toản vì đắc tội với Lê vương mà chạy qua, cũng được đại hoàng đế gia ân cho sinh sống nơi nội địa, cho đến nay bảo toàn được bao nhiêu tính mạng.

Nếu như Nguyễn Nhạc biết tức tốc quay đầu, bản bộ đường sẽ tâu lên đại hoàng đế mở cho một đường, tìm cách chiếu liệu. Bản bộ đường ngưỡng vọng đức hiếu sinh của đại hoàng đế như trời nên đặc biệt chỉ đường mê cho ngươi, tìm một sinh lộ mới, hoạ phúc hay không chỉ trong khoảnh khắc, chớ nên chần chờ, hãy vâng theo lời dụ này.”
[Nguồn: Thượng Dụ Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 359-60.]

Người em thứ ba của Lê Chiêu Thống là Lê Duy Chỉ khi nghe tin quân Thanh dự định qua đánh cũng sai Nguyễn Thời Kiệt阮時傑 sang Trung Hoa trình lên Tôn Sĩ Nghị một tờ bẩm như sau:

“Em thứ ba tự tôn của quốc vương nước An Nam là Lan Quận Công Lê Duy Chỉ rập đầu quì trước tổng đốc đại nhân tâu lên rằng:

Anh của Chỉ này vì đức bạc nên tai vạ xảy ra, nghịch tặc nổi lên khiến hoạ đến quốc gia, tông miếu xã tắc gần như sụp đổ. Vào tháng Một năm ngoái (Ðinh Mùi), quân giặc họ Nguyễn tiến vào Lê thành, anh của Chỉ là Duy Kỳ bỏ chạy, Chỉ này còn non trẻ không biết gì, cũng hoảng hốt tránh loạn, may nhờ được các bầy tôi bảo hộ, mẹ của Chỉ và quyến thuộc tị nạn Thái Nguyên.

Ngờ đâu nghịch tặc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ không nghĩ gì đến ơn của ông Chỉ (tức vua Hiển Tông), quay giáo giết chóc, đuổi theo mẹ Chỉ và quyến thuộc tới tận ngoài ải Ðẩu Áo, toan bề giết sạch cả nhà. Trong cơn nguy cấp, may nhờ đại ân thiên triều, tế nạn phù nguy, cứu mẹ Chỉ và quyến thuộc hơn sáu mươi nhân mạng về Long Châu bên kia ải, cho cơm ăn áo mặc, lại được chế hiến đại nhân tâu lên hoàng đế đưa về Nam Ninh, sống yên ổn no đủ, trên dưới ai ai cũngđược hưởng ơn mưa móc.

(Hoàng đế) lại nghĩ đến ông cha Chỉ này trước nay thờ phụng thiên triều, không nỡ để cho họ Lê tuyệt diệt, nên điều mấy chục vạn quân đóng ở ba cửa ải, giúp cho anh của Chỉ toan tính việc khôi phục, trước tung ra hịch văn cho mọi người rõ, để cho giặc vỡ mật. Chỉ nay đang tị nạn ở Ba Bồng, nghe được chuyện đó, xúc động đến rơi nước mắt.

Nghĩ đến nước non tổ tông Chỉ này đều do thiên triều ban cho, hơn trăm năm nay được hoà bình cũng là nhờ ơn che chở ấy cả. Nay nhân nghịch khấu tràn vào trong nước, lại chịu ơn cứu thoát ra khỏi nơi nước lửa, khiến cho mẹ con anh em Chỉ này đang nguy trở lại an, đang mất mà lại còn, tất cả đều do hồng ân tái tạo của đại hoàng đế vậy.

Chỉ này hèn mọn quê mùa, lang thang không nhà, chẳng biết làm sao đệ đạt lên thiên triều, chỉ mong đại nhân đem tấc lòng cảm kích của mẹ con, anh em Chỉ tâu lên thiên đình, để tỏ tấm lòng báo chủ của thân chó ngựa.

Ngày 26 tháng Năm năm nay [29-6-1788], Chỉ ở xưởng Ba Bồng bị Nguyễn khấu sai thích khách chém mấy nhát, may nhờ xưởng dân cứu hộ, giết được thích khách. Ðến nay các vết thương cũng đã lành, đang tập hợp nghĩa dân, hiệu triệu hương dũng để toan tính việc khôi phục Lê thành, ai nấy hăng hái hớn hở. Nếu anh của Chỉ lấy lại được nước, cốt nhục đoàn viên, đời đời cháu con, sống thì rập đầu, chết nguyện kết cỏ.

Duy Chỉ hoảng hốt run rẩy, lập cập tâu lên.

Càn Long năm thứ năm mươi ba, ngày 20 tháng Chín [18-10-1788].


[Nguồn: Quân Cơ Xứ, CCBVV. Tờ bẩm của Lê Duy Chỉ đề ngày 20 tháng Chín năm Càn Long 53 [18-10-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 361.]

Nguyễn Thời Kiệt 阮時傑 trình bày với quan quân nhà Thanh rằng nước Nam mấy năm qua bị hạn hán, từ mùa thu năm nay lại mưa dầm, đường đi nhiều nơi bị ngập nước. Từ Lạng Sơn xuống đến Thăng Long phải qua bốn con sông lớn, nước chảy xiết, binh mã khó đi, phải chờ cho đến sau tháng Mười trời tạnh ráo hãy xuất quân mới thuận tiện. Trong cái thế chủ quan sẵn có tin chắc rằng việc thôn tính nước ta thật dễ, Tôn Sĩ Nghị lập tức tính chuyện chiến thắng nên tâu lên:

“… Nghe rằng nước Xiêm La đường biển ngay sát Quảng Nam (tức miền Nam nước ta khi đó nhà Thanh gọi là nước Quảng Nam), đã từng cùng Nguyễn tặc hai bên chém giết nhau, chẳng biết có đúng hay không. Theo hạ kiến của thần, Trịnh Vương [tức là Trịnh Quốc Anh (Taksin), một người Trung Quốc lai Xiêm làm vua Xiêm La từ 1767 nhưng đến năm 1782 đã bị Chaopraya Chakri lật đổ lên ngôi tức vua Rama I (1782-1809). Theo sử Trung Hoa, khi vua Rama I lên ngôi sai sứ sang Bắc Kinh nói thác là con của Taksin tên là Trịnh Hoa nối ngôi.] nước Xiêm La thần phục thiên triều, cực kỳ cung thuận, lại là nước mới thành lập, binh lực hẳn là sung túc, việc gì mình phải tốn phí tiền bạc lương thực thu hồi Quảng Nam cho họ Lê làm gì, để gây ra cái vạ về sau. Vậy xin bệ hạ chỉ dụ cho quốc vương Xiêm La, nhân lúc thiên binh tiễu trừ khiến Nguyễn tặc không thể nào quay lại chống đỡ được, ra lệnh cho y đem binh chiếm Quảng Nam rồi đem đất đó giao luôn cho Xiêm La để cho họ thu thuế má, ắt nước đó sẽ từ nay ngoan ngoãn phục tòng ta.” [Nguồn: Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị, Càn Long năm thứ 53, ngày 26 tháng Chín (1788). Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362.]

Thoạt đầu vua Càn Long thấy kế đó có thể thực hiện được nhưng sau đó suy nghĩ lại, thấy không ổn [… “Kế đó là hạ sách, xưa nay cái đạo vỗ về ngoại vực, bao giờ cũng lấy uy của thiên triều làm trọng, đâu có phải nhờ ngoại vực đem sức hỗ trợ đâu? Vả lại Xiêm La vốn cùng Nguyễn Văn Huệ đánh phá lẫn nhau, nếu như bây giờ bảo họ chiếm lấy Quảng Nam, một mai việc bình định xong xuôi rồi, ắt phải đem Quảng Nam cho không Xiêm La”. Dẫn theo Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị, Càn Long 53, ngày 1 tháng Một [28-11-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362.] liền ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị nhờ Xiêm giăng lưới bắt giữ Nguyễn Huệ nếu như ông bỏ chạy, họ Tôn bèn gửi một văn thư cho vua Xiêm như sau:

Lưỡng Quảng tổng đốc kiêm Quảng Ðông tuần phủ toàn hạt vì hịch mà biết được việc rằng quí quốc vương ở một góc biển, vẫn thường ngưỡng mộ điều nghĩa, nên được đại hoàng đế đãi ngộ hậu hĩ, đặc biệt sách phong nên mới có thể cai trị, vỗ về nhân dân ở nơi đó, mãi mãi được vui vẻ lợi lộc, nên quí quốc vương cực kỳ cảm kích, không biết bao nhiêu cho hết.

Gần đây nhân nước An Nam có nghịch thần là Nguyễn Huệ, đuổi chúa, chiếm lấy đất đai nên thân tộc họ Lê đã đầu phục qua Trung Quốc. Vì thế bản Tổng đốc theo lệnh chỉ đích thân thống lãnh đại binh đến hỏi tội, chẳng khác gì sấm ran gió cuốn, thế như chẻ tre, Nguyễn tặc ắt sẽ bị bắt trong nay mai.

Ta cũng biết rằng tên giặc Nguyễn hùng cứ nơi đất Quảng Nam, vốn đường biển ngay sát với Xiêm La, chạy trốn rất dễ, Nguyễn tặc cũng hẳn biết rằng tội ác khó dung, gặp lúc cùng đường ắt sẽ bỏ chạy để mong lấy chút hơi tàn.

Quí quốc vốn thờ phụng thiên triều, chịu ơn thật nặng, theo lẽ thì phải hết sức ra công, nên vì thế phải phái binh ra, đến duyên hải Quảng Nam để hỗ trợ phòng khi bọn chúng đào tẩu. Nếu như tên giặc Nguyễn đi theo đường biển chạy sang Xiêm La, quí quốc vương hãy tìm cách bắt lấy y, dùng chính pháp mà xử tử như thế thì công lao không biết là nhường nào. Vả lại quí quốc cùng Nguyễn tặc đã đánh qua đánh lại, nay Nguyễn tặc tự tìm chỗ diệt vong mà phải chạy thoát thì quốc vương nếu bắt được tên giặc cùng đường này cũng để rửa được mối hờn, lại cũng là cách thiên triều vỗ về ngoại phiên luôn thể. Nước An Nam có nghịch thần thì cũng không khác gì Xiêm La có nghịch thần vậy.

Nguyễn tặc hiếp chúa làm loạn luân thường, có ý soán nghịch, đại hoàng đế vì nghĩ đến tình An Nam thần phục đã lâu, xưa nay rất cung kính thuận tòng, nên mới đặc khiến đại binh sang để khôi phục lại, cốt lấy lại quốc đô cho họ Lê, tuyệt nhiên không có ý dòm ngó đất đai, quả là hết sức nhân nghĩa, vượt quá cổ kim, phàm là thuộc quốc nên nghĩ đến như thế mà thêm cảm kích.

Xiêm La đất đai liền với An Nam, trông thấy thiên triều làm những điều đó, thì cũng nên nghĩ đến việc có chung mối thù, lại chẳng là món thưởng lớn hay sao? Nay truyền hịch này đến quốc vương lập tức một mặt phát binh chặn đường, một mặt chờ bản bộ đường xong việc rồi sẽ tâu lên đại hoàng đế, ắt sẽ hết sức khen ngợi là quốc vương vì ngưỡng mộ lòng quyến cố, lại hiểu đại nghĩa nên trợ điều thuận bỏ điều nghịch, hãy nên gắng sức làm theo điều hịch này.
[Nguồn: Thượng Dụ Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362-3.]

Vua Càn Long ra lệnh cho các trấn dọc theo biên giới như Tả Giang, Cao Liêm, Khai Hoá, Lâm Nguyên … điều động binh mã giữ chặn các nơi hiểm yếu để ngăn chặn quân Tây Sơn thừa dịp tiến sang đánh phá, một mặt hư trương thanh thế để cho Lê Chiêu Thống nếu còn sống nghe được sẽ cùng các toán dân quân nổi lên. Vua Càn Long cũng ra mật lệnh rằng “việc động binh chỉ một mình Tôn Sĩ Nghị biết mà thôi, bên ngoài vẫn làm ra vẻ như không có gì cả, chớ cho các trấn được biết.” [nguồn: Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Ðế Thực Lục, quyển 1308, trang 25, dụ của vua Càn Long đề ngày Canh Ngọ, tháng Bảy, năm thứ 53 [11-8-1788].]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ MƯỜI BỐN

戰玉洄清師敗績, 棄龍城黎帝如燕.

Chiến Ngọc Hồi Thanh sư bại tích, khí Long thành Lê đế như Yên.

[Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh đại bại, bỏ Thăng Long, vua Lê chạy sang Yên Kinh]

Lại nói, Tôn Sĩ Nghị孫士毅 từ khi dẫn quân ra khỏi biên ải, xuyên rừng vượt suối như đi trên đất bằng; đi ngày đêm mà không gặp trở ngại nào khác. Đoàn quân thẳng tiến đến Thăng Long, không mất một toán quân nào, cứ như thể đi vào đất không người. Từ xưa đến nay, dùng binh chưa từng có việc nào dễ dàng đến thế. Vì vậy, cho rằng không có gì đáng lo, không cần phòng bị cẩn thận, càng trở nên kiêu căng tự mãn. Lính tráng đóng quân, được phép tự ý rời hàng ngũ đi lại, không có kỷ luật; hoặc đi cách thành mười dặm để kiếm củi; hoặc vào chợ búa dân gian mua bán, sáng đi chiều về, coi đó là chuyện thường ngày. Các tướng lĩnh và quan lại cũng ngày ngày yến tiệc, không để ý đến việc quân; có người nói đến tình hình địch, họ liền bảo:

- Kẻ địch như cá trong chảo, chim trong lồng, hơi tàn còn lại, có gì đáng nói!

Theo quân lệnh của quan tổng đốc, định ngày mùng sáu tháng Giêng, đầu xuân, sẽ xuất quân đánh thẳng vào sào huyệt của Tây Sơn. Khi đó, quân địch sẽ lần lượt bị bắt sống, không sót một ai. Người dân Hà Nam khi đó sẽ được chứng kiến, và cả nước, các quan lại bị lưu vong, sẽ lại thấy trời quang mây tạnh. Đang lúc vui mừng vì được hội ngộ, họ chỉ biết trông cậy vào Tôn tổng đốc như một bức trường thành, không còn bận tâm đến việc cung điện hoang tàn hay giặc cướp tràn vào nhà; họ ung dung chơi bời, một mực khoan dung.

Có một cựu cung nhân từ Trường An長安 [Ninh Bình], đến tâu với Thái hậu rằng:

- Xa giá đã về kinh thành được gần một tháng. Lệnh hiệu ban ra, chỉ vỏn vẹn trong năm lộ: Ứng, Thường, Từ, Thuận, Quảng. Còn về phía nam Trường An, là đất căn bản của Thanh Hóa, nơi có lăng tẩm các tiên triều; Nghệ An cũng là phủ quan trọng như xương cánh tay, nơi cấm quân thường trực đều lấy từ đó. Nay đều bị mất, tin tức không thông, đây thực sự là điều đáng lo ngại lớn nhất. Hiện nay tình hình hư thực của quốc gia, mạnh yếu của quân địch, người ngoài cuộc ai cũng biết. Thuở trước Hoàng thượng gặp nạn phải bỏ chạy, các quan lại vượt ngàn dặm gian khổ, đã hơn một năm rồi, bao nhiêu tình người hẳn đã trải qua và hiểu rõ, sao lại an nhiên không bận tâm? Tôn tổng đốc từ nước lớn đến, đại khái có nghe về thế nước và tình địch; nhưng những nơi hiểm yếu, cần phân quân đóng giữ, đặt phục binh, thì phải có mưu tính. Việc dùng binh công thủ, quyền biến ứng phó, chỉ trong chớp mắt, ông ta làm sao có thể nắm rõ được? Vả lại, theo lời khai của Lê Quýnh trước đây, nói rằng các địa phương trong nước không theo địch, hướng về chính nghĩa còn nhiều, lòng dân cũng có thể tin cậy, cần đại binh đến tiếp viện, thì công khôi phục có thể thành. Đây chỉ là cách nói dối trá, khiến ông ta không coi việc đó là khó, chỉ muốn binh lính đến gấp, nên mới nói lời hư vọng để lừa bịp. Ông ta [Tôn Sĩ Nghị] cũng cho là thật, cứ dũng cảm tiến lên, không hề quay đầu nhìn lại. Xem lời truyền hịch của ông ta, cái ý trách chúng ta thực sự sâu sắc. Nhưng ông ta chỉ lảng vảng trên sông, chỉ dọa nạt bằng thanh thế. Không biết Nguyễn Huệ阮惠 là tay anh hùng lão luyện, giỏi binh thiện chiến; nhìn y đi Bắc về Nam, thần xuất quỷ nhập, không ai có thể lường được; bắt Nguyễn Hữu Chỉnh阮有整 như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm武文任 như giết lợn, không ai dám nhìn thẳng mặt y. Nghe y chỉ huy, người ta hồn vía đều tan nát, sợ y hơn cả sấm sét. Tôi e rằng y sẽ quay lại trong nay mai, Tôn tổng đốc với quân lính tự lo cho bản thân, làm sao có thể chống đỡ được? Họ chẳng qua là khách qua đường, đến đây cũng chỉ xem thế khó dễ mà tiến thoái, còn đất nước chúng ta thì sao? Thái hậu có thể lại một lần nữa chạy vào nội địa không?

Thái hậu nghe xong chợt hoảng hốt nói:

- Đây chính là nỗi lòng của lão bà, đêm ngày lo lắng suy nghĩ, không biết phải làm kế sách gì đây?

Rồi đem lời đó nói với Hoàng đế. Hoàng đế bắt đầu rất sợ hãi, lập tức cùng Lê Quýnh và những người khác đến doanh trại quân của Tôn Sĩ Nghị, khẩn khoản xin xuất quân. Sĩ Nghị gọi Lê Quýnh đến chất vấn rằng:

- Người nước ngươi quả thật không đáng tin cậy! Lời khai hôm trước của ngươi, sao dám lừa dối ta?

Rồi quay sang nói với Hoàng đế:

- Tự Vương còn trẻ, việc đời chưa trải nghiệm, lúc ở Lạng Sơn đón tiếp, sao không nói rõ ràng. Nương theo thắng lợi của ta, đánh vào lúc họ khó khăn, há chẳng dễ dàng sao! Nay để mất cơ hội này, khiến họ có thời gian rảnh rỗi mà mưu tính, nay cách chế ngự họ, phải hành động thật chu toàn, há có thể vội vàng. Vả lại, đã định ngày mùng sáu đầu xuân là ngày xuất quân, cũng không còn xa. Nếu địch gấp gáp xuất binh, để chủ thần nước ngươi phái một đạo quân ra trước cũng được.

Hoàng đế lui về, nói với Lê Quýnh rằng:

- Khanh một lòng vì xã tắc, việc nước đã lo quá nửa rồi! Cố gắng hoàn thành công lao đã làm, đừng để người trong nước oán trách ta, hay triều đình thiên triều khiển trách ta.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói, Lê Quýnh là người ở Siêu Loại超類, Đại Mão大卯 [nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh]. Vốn là một công tử phong lưu, thời trẻ chỉ lấy việc ăn uống cờ bạc làm thú vui. Việc văn sự, võ bị, không phải là sở trường của ông ta. Trước đây vì có thân phận cao quý nên được vào làm gia thần. Đến khi giặc Tây Sơn xâm lược, kinh thành thất thủ. Vua ra lệnh cho ông ta theo xa giá Thái hậu lên Cao Bằng, bị địch truy đuổi gắt gao, không thể không chạy vào nội địa [Trung Quốc]. Bởi vì ông ta hơi biết chữ nghĩa, nên khi đối đáp với người này người kia [ý chỉ Tôn Sĩ Nghị hoặc quan lại nhà Thanh], đã nói ra nhiều lời khoa trương. Tôn tổng đốc cũng không nhận ra, cứ thế tâu lên [với vua Thanh]. Vua Thanh chuẩn tấu, may mắn được phục quốc, ông ta [Lê Quýnh] tự cho đó là công lao của mình. Khi đã về lại Thăng Long, liền tư báo ân oán, công khai tư lợi, nhận hối lộ. Các hào kiệt trong nước đều không ưa ông ta. Vua vì thấy ông ta có công, nên giao cho binh quyền. Mắt chỉ quen nhìn màu cờ sắc áo, tai chưa từng nghe tiếng chiêng trống [trận mạc], huống chi có thể làm được gì? Do đó, vin cớ không muốn rời xa bên cạnh vua, xin vua ban sắc lệnh cho trấn thủ Sơn Tây trước tiên đem quân bản đạo đóng ở cửa khe, để chặn đường Tây Sơn đến, mong bản thân khỏi phải ra trận. Còn việc trận đánh thắng hay bại, nước nhà an hay nguy, ông ta đều không bận tâm.

Lại nói, Ngô Văn Sở sau khi cho các đạo quân rút lui, liền khẩn cấp sai Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa trạm về nam cáo cấp; đồng thời lấy Trường An làm ranh giới, đóng quân thủy ở phân nhánh sông Biện Sơn汴山, bộ binh chiếm cứ núi Tam Điệp, thủy bộ liên kết, cắt đứt giao thông giữa bắc và nam. Do đó, mọi việc bên ngoài tứ trấn đều không liên lạc được với Thanh Hóa và Nghệ An. Quân Thanh đến Thăng Long, cùng vua [Lê Chiêu Thống] nhận phong vào ngày 22 tháng 11, nhưng trong vùng Thanh Hóa không một ai biết việc đó. Hơn nữa, Sở rút về Tam Điệp vào ngày 20 tháng đó, và đến ngày 24, Tuyết đã đến được thành Phú Xuân. Bắc Bình Vương [Nguyễn Huệ] nhận được tin liền nổi giận đùng đùng, triệu tập tướng sĩ, muốn đích thân cầm quân xuất trận ngay lập tức. Các tướng sĩ bàn bạc đều nói:

- Chúa công và chúa Tây Sơn có hiềm khích (ý chỉ mâu thuẫn nội bộ Tây Sơn giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc), ở nơi vừa đăng ngôi, lòng người chưa thực sự ủng hộ vững chắc. Nay nghe tin quân Thanh đến đánh, càng dễ sinh nghi ngờ và hai lòng. Xin hãy trước tiên định chính vị hiệu, ban bố chiếu ân xá để yên lòng những kẻ dao động và thu phục lòng dân. Sau đó, đại quân bắc tiến cũng chưa muộn.

Bắc Bình Vương cho là phải, liền hạ lệnh xây đàn ở núi Bân Sơn彬山, tế cáo trời đất, sông núi và trăm vị thần. Chế áo cổn miện (long bào và mũ vua), lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu Thái Đức泰德 năm thứ mười một của Tây Vương [Nguyễn Nhạc] thành Quang Trung nguyên niên光中元年. Nghi lễ hoàn thành, liền hạ lệnh xuất quân, đó là ngày 25 tháng đó.

[núi Bân (còn được gọi là Bân Sơn, Ba Tầng, Tam Tầng) là một ngọn núi nhỏ nằm ở phía tây núi Ngự Bình, cách kinh thành Phú Xuân (Huế) khoảng 3,5km, thuộc địa phận xã Thủy An, thành phố Huế ngày nay. Đây là nơi Nguyễn Huệ (sau này là vua Quang Trung) đã chọn để lập đàn tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế và xuất quân đánh quân Thanh vào năm 1788.]

Bắc Bình Vương đích thân thống lĩnh đại quân, thủy bộ cùng tiến. Ngày 29 đến Nghệ An, triệu La Sơn cống sĩ羅山貢士 Nguyễn Thiếp阮浹 đến hỏi rằng:

- Quân Thanh đến đánh, ta sẽ ra chống giữ chúng. Mưu kế công chiếm, số phận thắng bại, tiên sinh cho là thế nào?

Thiếp đáp:

- Hiện nay trong nước trống rỗng, lòng người tan rã. Quân Thanh từ xa đến, không rõ tình hình mạnh yếu, không biết thế trận công chiếm. Chúa công ra quân lần này, chỉ trong vòng mười ngày, giặc Thanh sẽ bị bình định.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bắc Bình Vương đại hỉ, liền sai tướng của mình là "Đạm Hổ bộc"啖虎僕 [đây là biệt danh của một tướng Tây Sơn được gọi là Đô đốc Hổ] lựa chọn binh lính Nghệ An, cứ ba suất đinh lấy một. Chưa đầy một canh giờ đã có được hơn mười một ngàn quân tinh nhuệ, đại duyệt tại doanh trấn. Tất cả các đội thân quân Thuận Quảng được chia thành bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu, còn tân binh Nghệ An làm trung quân. Bắc Bình Vương cưỡi voi ra khỏi doanh trại úy lạo quân sĩ, ra lệnh cho các quân đều ngồi nghe lệnh, dụ rằng:

"Quân Thanh xâm lược, hiện đang ở Thăng Long昇龍, các ngươi đã biết chưa? Giữa trời đất, tinh dã khác biệt (ý nói sao trời chiếu mệnh từng vùng khác nhau); nam bắc phân trị, người phương Bắc không phải nòi giống ta, lòng dạ chúng khác biệt. Từ thời Hán đến nay, người phương Bắc đã nhiều lần xâm lấn biên cương ta, xâu xé dân ta, cướp bóc tài sản ta. Dân chúng không chịu nổi, đều nghĩ đến việc đuổi chúng đi. Vào thời Hán có Trưng Nữ Vương徵女王, thời Tống có Đinh Tiên Hoàng丁天皇, Lê Đại Hành hoàng đế黎大行皇帝, thời Nguyên có Trần Hưng Đạo đại vương陳興道大王, thời Minh có Lê Thái Tổ hoàng đế黎太祖皇帝, đều không nỡ ngồi nhìn sự tàn bạo, thuận theo lòng dân, dấy binh nghĩa, đều có thể một trận thắng lợi, đuổi chúng về phương Bắc. Khi đó, bắc nam tự tại, biên cương bình yên, truyền nối cơ nghiệp lâu dài. Từ thời Đinh trở đi, không còn khổ sở như việc nội thuộc như trước, mọi lợi hại được mất đều là chuyện cũ của các triều đại trước. Nay người Thanh lại đến, mưu chiếm nước Nam ta, đặt làm quận huyện, không lấy Tống宋, Nguyên元, Minh明 làm gương. Cho nên ta xuất quân để xua đuổi chúng. Các ngươi ai nấy đều có tài năng, hãy cùng ta đồng lòng hiệp sức, để lập nên công lớn. Đừng chỉ quen thói cũ, mang lòng hai dạ, nếu sự việc phát giác sẽ lập tức bị tru diệt, không ai được tha thứ, đừng nói ta không báo trước".

Các quân đều thưa rằng:

- Chỉ xin tuân lệnh, không dám hai lòng.

Ngày hôm sau, (Bắc Bình Vương) hạ lệnh tiến quân. Các quân đều chỉnh tề đội ngũ tiến đi, về phía bắc đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều vác kiếm xin tội. Bắc Bình Vương nói:

- Các ngươi đã tận thân phục vụ ta, được phong làm quân sư, giao cho quyền quản hạt mười một trấn, lại được phép hành sự tiện nghi. Khi giặc đến lại không thể chiến đấu, nghe tiếng đã bỏ chạy trước. Binh pháp nói: 'Quân bại thì chém tướng.' Tội của các ngươi đáng vạn lần chết. Nhưng nghĩ lại, các ngươi tự cho mình là người mạnh mẽ, hễ gặp địch là giao chiến, nhưng đến khi ứng biến tùy cơ thì lại không thể làm được. Do đó, ta mới để Ngô Thì Nhậm ở đây, cùng các ngươi lo liệu mọi việc, chính là vì lo lắng điều này. Miền Bắc Hà mới bình định, lòng người chưa theo. Năm trước, ta đến đây giao chiến, quả nhiên Trịnh Vương không thể chống đỡ, đó là bằng chứng. Các ngươi phái quân đóng giữ ở đây, khi quân Thanh nam tiến, lại có nội ứng ở Bắc Hà, làm sao có thể dễ dàng triển khai binh lực? Kế sách ẩn nhẫn để tránh mũi nhọn của địch, phân chia lực lượng chốt giữ các hiểm yếu, bên trong khích lệ sĩ khí, bên ngoài làm cho địch kiêu ngạo, đó là kế hay. Ta lúc đầu nghe tin đã thầm nghĩ đây là mưu kế của Ngô Thì Nhậm, hỏi Văn Tuyết thì quả nhiên đúng vậy.

Ngô Thì Nhậm cũng lại vái lạy tạ ơn. Bắc Bình Vương nói:

- Nay ta đích thân đến đây đốc suất mọi việc, việc tiến công đã có tính toán sẵn. Đuổi quân Thanh đi, cùng lắm chỉ mười ngày là xong. Nhưng nghĩ đến việc đó là nước lớn, gấp mười lần ta. Sau một thất bại, chúng ắt sẽ lấy làm hổ thẹn. Chúng sẽ tìm cách báo thù, binh đao liên miên không dứt, đó thực sự không phải là phúc cho dân chúng, ta sao nỡ làm vậy? Đến nước này, chỉ có giỏi lời lẽ ngoại giao mới có thể dẹp yên binh đao, việc đó không ai ngoài Ngô Thì Nhậm có thể làm được. Chờ ta mười năm yên ổn nuôi dưỡng, nước giàu binh mạnh, ta còn sợ gì chúng nữa?

Sở, Lân và những người khác đều vái lạy tạ ơn nói:

- Chúa thượng quả là có tầm nhìn xa trông rộng, thần hạ ngu muội không thể nghĩ đến điều đó. Vậy xin Chúa thượng hãy lần lượt chỉ bày kế hoạch tiến công, thần hạ sẽ tuân theo mà thực hiện.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
--------------

[Ðối chiếu nhiều tài liệu chúng ta có nhiều thời điểm khác nhau về việc đăng quang của Nguyễn Huệ. Hiện tại có ba tài liệu với ba nhật kỳ: chính sử triều Nguyễn (LT, Nguỵ Tây), Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC), và chi tiết trong thư của Hội Truyền Giáo Bắc Hà. Ngoài ra còn một ngày tháng hơi chênh lệch một chút với sử triều Nguyễn là bài Chiếu Lên Ngôi (Tức Vị Chiếu) [Ngô Thì Nhậm tác phẩm (quyển I) (2001) tr. 172] của Ngô Thì Nhậm chép trong Hàn Các Anh Hoa.

Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 32 (Nguỵ Tây, Nguyễn Văn Huệ) chép là “ngày 25 tháng Một” [22-12-1788],[Tạ Quang Phát (dịch), Nhà Tây Sơn (1970) tr. 130-33] Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì viết “ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân” [20-1-1789] còn theo thư “đề ngày 20 tháng 9 của đức ông La Bartette gửi cho ông Le Breton” còn lưu lại trong Nhật Ký Về Những Sự Kiện Ðáng Ghi Nhớ, Nha Văn Khố Quốc Gia Paris (Paris, Archives Nationales số F5; A 22) thì “… Bắc vương đã ấn định ngày 11 tháng Mười (âm lịch) tức ngày mồng 8 tháng 11 là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế dưới danh hiệu “Quang Trung”[Ðặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 195]

Ngoài ra trong Hàn Các Anh Hoa còn chép một bài Chiếu Lên Ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm soạn, trong đó có đoạn như sau:

“… Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời. Trẫm nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn, trẫm thật lòng lo không đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình trẫm. Ðó là ý trời, há phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng Một [19-12-1788] năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên. [Ngô Thì Nhậm tác phẩm (quyển I) (2001). Toàn văn bản chữ Hán trang 513-517, bản dịch Mai Quốc Liên trang 172-174.]

Bài chiếu này nếu xét trong hoàn cảnh xuất hiện của nó, nếu thực do Ngô Thì Nhậm soạn, thì hoặc ông đang ở Phú Xuân, hoặc đã soạn sẵn theo lệnh của Nguyễn Huệ, chờ đúng dịp là đem ra sử dụng. Phân tích một số chi tiết trong bài Chiếu Lên Ngôi chúng ta ngờ rằng bài này được soạn trước khi nghe tin quân Thanh sang chiếm nước ta, nếu không đồng thời với tờ biểu “suy tôn” lần thứ ba (Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời.) thì cũng chỉ sau đó một thời gian ngắn.

Văn trong bài chiếu tức vị này hoàn toàn là văn chương thời bình, không phải thời chiến, không nhắc đến xa gần gì về việc quân Thanh xâm chiếm nước ta và lên ngôi để thu phục nhân tâm (để chiến đấu) như sử đã chép. Chính vì thế, một số câu văn sáo mòn đầy giả tạo, chẳng hạn: “Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho Ðại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện.” hay “Người làm quan hãy giữ phong độ hoà mục, người làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị giáo mở mang hưng khởiđến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng đẹp đẽ sao?” vẫn còn hiện diện trong bài chiếu.

Sắp xếp lại những sự kiện nêu trên, việc Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ít nhất cũng đã được dự tính từ tháng Tám năm Mậu Thân khi ông phong vương cho Nguyễn Quang Toản theo tin tức của những giáo sĩ [Ngày 18 tháng Mười Một tôi đọc một lá thư đề ngày 20 tháng Chín của đức ông La Bartette gữi cho ông Le Breton trong đó Ðức ông cho biết rằng: Tiếm vương Phú Xuân hay Bắc vương vừa mới phong cho con trai ông làm Nam vương lúc đó mới có bảy tuổi, nhưng hoàng tử được coi như được mười hai tuổi vì theo như lời đồn, các quan muốn nịnh người cha nên tăng cho người con nhiều tuổi hơn. Ðặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 213-4] nghĩa là tách riêng ra thành một vương triều mới không còn lệ thuộc vào vua Thái Ðức ở Qui Nhơn. Việc phong cho con lên tước vương đồng nghĩa với việc xác định người cha lên ngôi hoàng đế nên lễ đăng quang của vua Quang Trung chỉ là hợp thức hóa một sự việc đã công khai. Chi tiết này phủ nhận việc ông lên ngôi để đánh quân Thanh cho chính vị [hàm ý ông không muốn nhưng vì tình thế đòi hỏi] như ghi trong LT hay HLNTC.

Cũng theo nhật ký của các giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo Bắc Hà thì Nguyễn Huệ định ngày đăng quang là ngày 11 tháng Mười năm Mậu Thân [8-11-1788], tính ra trước cả khi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Nam Quan (28 tháng Mười năm Mậu Thân [25-11-1788]). [KDANKL, quyển VI] Cho nên, khi quân Thanh vào Thăng Long (cuối tháng Một), Nguyễn Huệ đã là hoàng đế Quang Trung rồi, không còn phải bận bịu gì về việc lên ngôi hay sắp đặt triều chính trong ngoài nữa.

Chúng ta cũng có thể tin rằng trong khoảng bốn tháng [từ tháng Bảy đến tháng Mười năm Mậu Thân] tin tức về việc quân Thanh sang đánh nước ta được loan truyền rộng rãi tại Bắc Hà và Nguyễn Huệ muốn sớm lên ngôi để ông còn có thì giờ chuẩn bị chiến tranh, đúng như bản hịch văn kêu gọi tướng sĩ mà các nhà truyền giáo đã dịch sang tiếng Pháp (đề ngày 3 tháng Mười, Thái Ðức 11 [31-10-1788]) 8 ngày trước khi lên ngôi theo tin tức của các nhà truyền giáo.[Ðặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 214-6]

Trong ba mốc thời gian của các giáo sĩ, trong tờ chiếu lên ngôi và trong HLNTC thì thời gian ngày 25 tháng Chạp trong HLNTC phải loại ra vì xem ra quá xít xao, không thể thực hiện được [25 tháng Chạp lên ngôi ở Phú Xuân, 30 tháng Chạp đã kéo quân ra đến Nghệ An]. Thời gian trong chiếu lên ngôi và trong Liệt Truyện khá gần [25 tháng Một và 22 tháng Một], tuy khác nhau nhưng cũng có cơ sở. Có thể ông đã đăng quang ngày 11 tháng Mười [theo báo cáo của các giáo sĩ] nhưng khi nghe tin quân Thanh sang đánh, vua Quang Trung đã tổ chức một đại lễ ở núi Bân mà sách vở gọi là đại sư 大師 hay thân chinh để đích thân nhà vua đem quân đi vào ngày 22 tháng Một như Liệt Truyện ghi nhận.

Với những mốc thời gian tương đối chính xác theo ghi nhận của những nhà truyền giáo thì sau khi lên ngôi, vua Quang Trung còn mất một thời gian tuyển mộ binh lính, thu góp lương thực để chuẩn bị cho một đại chiến dịch đối phó với quân Thanh. Khi đến Thanh Hóa, vua Quang Trung lại tổ chức một đại lễ xuất quân [hay đại duyệt] cuối tháng Chạp để cho quân ăn Tết trước mà tin loan truyền qua lại khiến dân chúng Bắc Hà nhầm rằng đây là lễ đăng quang. Ðại lễ xuất quân này còn được ghi chép trong nhiều sách vở điển hình là Lịch Triều Tạp Kỷ của Ngô Cao Lãng:

“… Huệ không nghe, liền chỉnh đốn binh tượng, làm lễ ra quân ở Thọ Hạc. Huệ ngồi trên đầu voi, ra lệnh rằng:

“Trong các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết cho hết lũ chó Ngô. Nếu không muốn đánh, hãy xem ta chỉ trong một trận giết hàng mấy vạn mạng người cho coi, không phải là nói khoác đâu”.

Nói xong các quân đều dạ ran như sấm, núi rừng rung động, chiêng trống vang rền, hành quân tiến gấp. [Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 586]

Xét như thế, chúng ta thấy rằng trong khoảng thời gian từ tháng Mười đến tháng Chạp năm Mậu Thân, không phải chỉ có một lễ đăng quang của vua Quang Trung mà có tới ba lễ khác nhau, lễ đăng quang tháng Mười ở trong cung (theo đúng thủ tục mà bên ngoài ghi nhận), lễ thân chinh tháng Một ở núi Bân để cho quân sĩ biết rằngông sẽ đích thân cầm quân ra Bắc (như sử triều Nguyễn ghi nhận), và sau cùng là lễ đại duyệt ở Thanh Hóa tháng Chạp (như dân Bắc Hà ghi nhận) để khẳng định rằng ông sẽ đánh cho địch “chích luân bất phản, phiến giáp bất hoàn”.Về diễn tiến trận chiến Việt – Thanh đầu năm Kỷ Dậu (1789), sử nước ta chép chủ yếu tại hai tài liệu, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục (CM), quyển XLVII [40-42] và Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện (LT), quyển XXX, Nguỵ Tây, phần viết vềNguyễn Huệ [32-35].]

------------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bắc Bình Vương liền ra lệnh mở tiệc lớn khao quân sĩ, chia quân làm năm đạo. Khi đó là ngày 30 tháng 12. Ngài bèn mật dụ các tướng sĩ rằng:

"Ta và các khanh hãy đi trước làm lễ tiết Xuân Đán (Tết Nguyên Đán) đã, đến đêm trừ tịch (giao thừa) thì khởi hành, hẹn đến ngày mồng bảy tháng Giêng năm mới sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy, đừng cho lời ta là nói hão.

Liền truyền lệnh cho trung quân do Ngự doanh điều phái.

• Đại Tư mã Sở, Nội hầu Lân dẫn tiền quân làm tiên phong.

• Đạm Hổ hầu [có lẽ là Đặng Tiến Đông] dẫn hậu quân làm đốc chiến.

• Đại đô đốc Lộc大都督祿, đô đốc Tuyết都督雪 dẫn tả quân, thuộc về thủy quân.

◦ [Quân của Tuyết] vượt biển vào sông Lục Đầu.

◦ Tuyết vẫn ở Hải Dương lo liệu, làm cánh quân ứng phó phía đông.

◦ Lộc đi đường tắt nhanh chóng đến các vùng Lạng Sơn, Phượng Nhãn, Yên Thế để cắt đường về của quân Thanh.

• Đại đô đốc Bảo, đô đốc Long dẫn hữu quân, thuộc về tượng binh và kỵ binh.

◦ Long xuyên qua Chương Đức彰德, đi thẳng đến Nhân Mục仁睦 [nay thuộc Thanh Trì] để đánh ngang vào quân doanh Điền Châu滇州.

◦ Bảo chuyên thống lĩnh tượng binh và kỵ binh, đi từ Sơn Minh山明 ra Đại Áng大盎 [nay thuộc Thanh Trì] làm cánh ứng phó bên phải.

Cả năm đạo quân đều vâng lệnh quân.

Đến ngày đã định, họ nổi trống tiến về phía bắc, quân vượt sông Gián Thủy澗水, quân giữ trấn nghĩa binh [tức quân của Lê Chiêu Thống] tan vỡ trước. Họ chạy đến sông Nguyệt Quyết月厥江, những toán thám báo của quân Thanh ở xa cũng đều nghe tiếng mà bỏ chạy trước. Bắc Bình Vương đốc suất các quân đuổi theo, đến Phú Xuyên富川, bắt giữ gần hết, không một người nào thoát được. Vì thế, hoàn toàn không có tin tức quân báo nào đến được, quân Thanh đóng ở Hà Hồi河洄 và Ngọc Hồi玉洄 đều không hề hay biết.

Nửa đêm ngày mồng ba tháng Giêng năm Kỷ Dậu, Bắc Bình Vương tiến đến Hà Hồi thuộc Thanh Trì, bí mật bao vây nơi đó. Ngài dùng loa quân sự hô gọi, người ngoài đồn liên tiếp đáp lời. Tiếng hô hàng vạn người ở bên ngoài, trong đồn mới chợt nhận ra, hoảng sợ mất vía, bèn đều xin hàng, tất cả quân tư khí giới đều bị thu giữ.

Bắc Bình Vương ra lệnh lấy sáu mươi tấm ván gỗ, mỗi ba tấm ghép thành một bó, bên ngoài lấy rơm rạ ngâm nước phủ lên, tổng cộng hai mươi bó. Những người lính dũng mãnh, cứ mười người khiêng một tấm, lưng đeo đoản đao, hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, tạo thành trận hình chữ "nhất". Bắc Bình Vương cưỡi voi đốc suất. Rạng sáng ngày mồng năm [Tết], quân tiến sát đồn Thượng Hồi上洄屯 [Ngọc Hồi]. Quân Thanh bắn súng, nhưng không trúng một ai. Lại nhân gió bắc cho phóng lửa từ ống đồng, khói mù che kín bầu trời, cách một thước cũng không nhìn rõ, hòng làm rối loạn quân Nam. Bỗng nhiên gió chuyển sang hướng nam, quân Thanh thế là tự hại mình. Bắc Bình Vương thúc lệnh quân dùng ván gỗ che chắn xông nhanh về phía trước. Khi binh khí đã chạm nhau, liền ném ván gỗ xuống đất, mỗi người cầm đoản đao chém loạn xạ. Những người cầm binh khí phía sau cũng đều xông lên phía trước tấn công. Quân Thanh không thể chống đỡ, đại loạn tan vỡ, tự giẫm đạp lên nhau mà chết. Quan phủ Tứ Xuyên四川府Sầm Nghi Đống岑宜棟 tự treo cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế xông lên chém giết, xác nằm đầy đồng, máu chảy thành sông, quân Thanh đại bại.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước đó, Bắc Bình Vương đã sai một cánh quân đi theo đê Yên Duyên安緣河堤 mà tiến lên, mở cờ trống, làm nghi binh cánh phía đông. Đến khi quân Thanh rút chạy, nhìn thấy cảnh đó càng thêm nghi ngờ lo sợ, mỗi người tự tìm đường nhỏ từ Vịnh Kiều泳橋 [cầu Phao] mà đi. Bỗng nhiên thấy quân tượng từ Đại Áng大盎 kéo đến, lại càng kinh hoàng, đều bỏ chạy tán loạn vào Mặc Đàm墨潭 [Đầm Mực ở Quỳnh Đô瓊都. Quân Tây Sơn dùng voi giày xéo, số người chết lên đến hàng vạn.

Trưa ngày hôm đó, Bắc Bình Vương tiến binh đến Thăng Long, liền vào thành. Hóa ra, đô đốc Long dẫn hữu quân đã ra khỏi Thanh Trì trước. Khi Bắc Bình Vương đang giao chiến với quân Thanh ở Ngọc Hồi, Long đã sớm đổi [bảng tên] thái thú Điền Châu滇州太守 ở trại Khương Thượng姜上 thuộc Quảng Đức廣德. Quân Thanh tan vỡ chạy trốn, Long đã vào thành trước rồi.

Lại nói, Tôn Tổng đốc và vua [Lê Chiêu Thống] ở thành Thăng Long, hoàn toàn không nghe thấy tin báo động khẩn cấp nào. Vì vậy, đến tận rạng sáng mùng Một Tết vẫn còn đang bận việc yến tiệc ăn mừng, không hề có lo lắng gì về tai họa bất ngờ. Ai ngờ, tiệc thắng trận chưa tàn, vận may đã lại biến thành xấu. Ngày mùng bốn, mới thấy binh lính từ Ngọc Hồi tháo chạy về báo tin cấp bách. Quả là tướng từ trời xuống, quân từ đất chui lên vậy. Lại nói rằng, quân đồn Hà Hồi đã bị quân Tây Sơn bắt gọn hết cả rồi. Từ đây đến Ngọc Hồi không xa, sớm muộn gì cũng sẽ bị tấn công.

Tôn Tổng đốc kinh hoàng sợ hãi, lập tức sai Dương Hùng Nghiệp楊雄業, Quảng Tây lãnh binh, cùng với Phan Khải Đức潘啟德, tướng Tây Sơn đã hàng, dẫn nghĩa binh đi trước chi viện. Lại bí mật lệnh cho hai mươi kỵ sĩ dưới trướng đi cùng, dặn dò rằng:

- Cứ mỗi khắc lại phải có tin báo về liên tục.

Ý của ông ta là chỉ chuyên lo mối họa từ một phía này, không ngờ lại có quân địch từ đường khác tới nữa. Đêm ấy, canh tư, bỗng nghe tiếng súng nổ vang không dứt từ phía Tây Bắc thành. Lập tức sai người cưỡi ngựa đi xem xét, thì được báo lại rằng đồn Điền Châu đã vỡ, quân Tây Sơn đã tràn vào cổng ổ, tha hồ đốt giết, khói lửa ngút trời rồi.

Tôn Tổng đốc kinh hãi tột độ, ngựa chưa kịp thắng yên, người chưa kịp mặc giáp, tự mình dẫn các tướng kỵ binh dưới trướng vượt cầu phao mà chạy về phía Bắc trước. Các doanh quân khác nghe tin, đều hoảng sợ tan rã tháo chạy, chen nhau qua cầu để thoát thân, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết rất nhiều. Chẳng mấy chốc cây cầu lại bị đứt, toàn bộ quân lính đều rơi xuống nước, làm cho sông Nhị Hà [sông Hồng] ngừng chảy. Vua [Lê Chiêu Thống] ở trong điện nghe tin biến cố, vội cùng Lê Quýnh, Trịnh Hiến鄭憲... phò Thái hậu ra ngoài. Chạy đến Hà Trạch河澤, thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không có, bèn vội vàng chạy đến Nghi Tàm宜蠶. Tình cờ gặp được một chiếc thuyền đánh cá, bèn cướp lấy mà vượt sông về phía Bắc.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760428825969.png

Vua Lê Chiêu Thống cùng tùy tùng bỏ chạy, dưới sông xác quân Thanh chết đuối rất nhiều.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trưa ngày mùng sáu, chạy đến Tam Tằng Sơn三層山, nghe nói Tôn Tổng đốc đã đi qua rồi. Còn quân Thanh tháo chạy về thì chật cả đường như chợ, ngày đêm gấp rút hành quân, không dám nghỉ ngơi. Vua phò Thái hậu cùng đi với họ. Đến đồn Hòa Lạc和樂屯, gặp một thổ hào. Người này khi vua mới gặp nạn đã từng gặp gỡ và quen biết. Đến lúc này gặp lại vua, không cầm được nước mắt, bèn mời vua vào trong sơn trại tạm nghỉ. Lúc đó đã hai ngày không ăn, những người đi theo đều mệt lử. Ông ta bèn giết gà nấu cơm để dâng lên. Vua mời Thái hậu ăn trước, rồi cùng Lê Quýnh, Trịnh Hiến... ăn cùng. Vừa ăn xong, bỗng nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi đến nơi. Vua hốt hoảng nói với thổ hào rằng:

- Vạn lần báo đáp tấm thịnh tình này, không có gì để đền đáp cả, chỉ mong trời cao chứng giám lòng thành của ngài mà ban phước lành thôi! Nay quân giặc đã ở gần kề, hiện giờ có đường sống nào để gấp rút chạy lên cửa ải, rồi liệu kế sau không?

Thổ hào vội vàng sai con trai mình dẫn đường, đi theo đường giữa núi mà chạy, đến chiều tối thì đến cửa ải. Khi Tôn Tổng đốc hành quân đến nơi, các bề tôi cũng lần lượt theo đến, nhìn nhau than thở hối hận mà rơi lệ. Tôn Tổng đốc cũng cảm thấy xấu hổ. Vua bèn từ biệt nói rằng:

- Cô bất tài, làm mất xã tắc, may mắn được vâng chỉ đến cứu viện. Nào ngờ lòng trời không phù hộ nước nhỏ, nay lại bỏ đi. Kính mong về triều vạn phúc, cô nguyện ở lại trong nước, thu thập dân binh, để mưu việc khôi phục. Nếu xa xôi mà vẫn dựa vào uy danh (của Thiên triều), may mà thành công, chẳng phải là nhờ ơn ban của triều đình trên sao? Việc không thành công, ắt phải theo ý đại nhân mà định liệu, xin hãy cho tiện.

Tôn Tổng đốc đáp:

- Nguyễn Quang Trung chưa diệt阮光中, cuộc chiến này sẽ không ngừng. Nay cứ tâu lên xin thêm binh, chưa đầy một tháng đại quân sẽ lại đến. Nơi này gần với giặc, không tiện ở, tạm thời cứ vào Nam Ninh nghỉ ngơi, chờ đợi thánh chỉ là được.

Vua bèn nghe theo.

Thế là Tôn Tổng đốc cùng các khách tả, tướng hiệu, thu thập tàn binh mà rút về. Vua cũng để Lê Quýnh, Trịnh Hiến... bí mật quay về nước, chiêu dụ những người trung nghĩa. Còn mình cùng Cao Bằng Đạo Phụ Địch Quận công高平導輔迪郡公 Hoàng Ích Hiểu黃益曉, Kinh Bắc Trấn thủ Nam Đường Nộn Liễu京北鎮守南塘嫩柳 Lê Hãn黎忻, Tứ Thành Đề lĩnh Sơn Nam Thư Trì四城提領山南舒池 Phạm Như Tùng范如松, Phó Đề lĩnh Nam Đường Thanh Tuyền副提領南塘清泉 Nguyễn Viết Triệu阮曰肇, Thự Tri Công Tượng Chính Nam Đường Nghĩa Động署知公象政南塘義洞 Lê Văn Trương黎文張, Hiệp Lý Quân vụ Nam Đường Quỳnh Côi協理軍務南塘瓊瑰 Phạm Trần Thiện范陳善, Thích Uyển Lương Tài Tỳ Bà戚畹良才琵琶 Nguyễn Quốc Đống阮國棟, Chưởng Tứ Bảo Thanh Hóa Đồng Bảng掌四寶清化同榜 Lê Quý Thích黎貴適... phò Thái hậu đi theo Tôn Tổng đốc về phía Bắc.

Đúng là:

邊臣未遂籌邊志,國主空懷去國悲。

Biên thần vị toại trù biên chí, Quốc chủ không hoài khứ quốc bi.

[Vị thần giữ biên cương chưa thực hiện được chí nguyện lo việc biên thùy, Vua nước ấy chỉ còn ôm nỗi buồn rời bỏ quê hương trong vô vọng.]

Không biết sự việc sau đó thế nào, xin nghe hồi sau sẽ rõ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
------------------------

[Trong một báo cáo lên vua Càn Long Tôn Sĩ Nghị đã nhắc lại lời tường thuật của Phan Khải Ðức khi về hàng là “Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh kéo sang đã bỏ trốn về Thuận Hoá nhưng hẹn sẽ đem binh quay lại tái chiếm Lê thành” để ngầm nhắc triều đình rằng việc triệt binh một cách vội vã sẽ đưa mọi việc trở lại tình trạng cũ. Chúng ta không xác định được những lời đó có thực hay chỉ là bịa đặt của tổng đốc Lưỡng Quảng để dễ bề xin vua Càn Long thực hiện kế hoạch tiến đánh Phú Xuân và tìm cách chiếm nước ta làm quận huyện.

Tuy nhiên, thắng lợi quá nhanh chóng và dễ dàng của Tôn Sĩ Nghị khiến cho người khác muốn tranh công. Phú Cương, tổng đốc Vân – Quí vốn người Mãn Châu, trước đây được lệnh sai Ô Ðại Kinh đem 5,000 quân đến đóng ở Bạch Mã để “thanh viện”, vội vàng xin vua vua Càn Long cho mình chỉ huy một cánh quân tiến sang bắt sống Nguyễn Huệ [hoặc đóng vai “ông Thiện” để Nguyễn Huệ có thể đến đầu hàng]. Cánh quân Vân – Quí tiến xuống Tuyên Quang rồi thuận đường đi thẳng xuống Bạch Hạc, trên danh nghĩa là tạo thành thế “ỷ dốc” để đánh ngang hông nếu Nguyễn Huệ ra Bắc nhưng thực ra có ý tranh tiên, phỗng tay trên cơ hội của Tôn Sĩ Nghị.

Chính vì e ngại Phú Cương làm hỏng việc của mình, Tôn Sĩ Nghị [với sự phụ hoạ của tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh] đã nêu lên những khó khăn trong việc thiết lập thêm 50 đài trạm xuống Thuận Hoá cùng việc tuyển mộ thêm hơn 100,000 dân phu làm công tác chuyên chở binh lương để xin vua Càn Long chuyển gánh nặng sang cho cánh quân Vân – Quí.

Ðể khỏi sa lầy một lần nữa tại Ðông Nam Á [trước đây quân Thanh đã từng sa lầy tại Miến Ðiện trong bốn lần xâm lăng từ 1765 đến 1776], vua Cao Tông ra lệnh triệt binh, lấy cớ công tác cơ bản là lấy lại nước cho nhà Lê đã hoàn thành, phần đất phía Nam vốn thuộc Chiêm Thành, không phải thuộc An Nam, chẳng việc gì phải “hao tốn lương tiền thêm nữa”. Tuy nhiên, Tôn Sĩ Nghị đối diện với một thực tế khó xử là vua Lê chỉ là tầm gửi, một khi không còn sự bảo hộ của quân Thanh, triều đình nhà Lê không thể nào tự tồn được. [theo nhận xét của họ Tôn khi đóng quân tại Thăng Long thì thành phần ủng hộ vua Lê rất yếu ớt không như lời thổi phồng của một số quan văn. Ngay khi Lê triều được tái lập, các dư đảng của chúa Trịnh lập tức nổi lên. Tài liệu sử nước ta cũng cho biết Trịnh Bồng lập tức quay lại và Lê Chiêu Thống phải phong cho ông ta làm Huệ Ðịch Công. Hoàng Xuân Hãn, “Phe Chống Ðảng Tây Sơn ở Bắc với tập Lữ Trung Ngâm”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (1998) tr. 1252]

Vả lại, theo suy nghĩ chủ quan, ông ta tin rằng chỉ cần áp lực thêm một chút là Nguyễn Huệ sẽ đầu hàng và Thanh triều sẽ có thể khống chế cả hai bên khứng hợp với ước vọng của vua Càn Long là tương lai sẽ có hai thuộc quốc, trên là An Nam, dưới là Quảng Nam [tức Chiêm Thành cũ]. Chính phân vân và dự tính đó đã khiến Tôn Sĩ Nghị chần chừ không muốn rút quân, mặc dù chưa đưa ra một chương trình rõ rệt.

Trong hơn một tháng đóng quân tại Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không những không bố trí tiến sâu hơn mà còn ngăn cản quân nhà Lê muốn giao tranh với nhóm Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đang đóng ở Tam Ðiệp. Như bất cứ một thất bại nào, người đời sau thường chê trách những người mà họ biết nên phần lớn chỉ chép về sự nhu nhược, lệ thuộc, bất tài của vua Lê và những cận thần qua hành vi đến chầu Tôn Sĩ Nghị để nhận lệnh như một kẻ bù nhìn. Lịch Triều Tạp Kỷ chép:

“… Khi ấy, tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã thu được đô thành Thăng Long, tự cho là xong xuôi mọi việc, giữ quân ở Tây Long không có ý ngó ngàng gì tới phương Nam nữa. Các thần dân ứng nghĩa của 4 trấn Thanh Nghệ hàng ngày tới trước cửa quân doanh xin cho tiến quân vào Nam, đều bị Nghị bỏ qua không đếm xỉa tới. Vua Chiêu Thống ngày đêm van xin, Nghị cũng nói khéo để thoái thác. Vừa lúc ấy, có chiếu của vua Thanh đưa đến, ra lệnh cho Nghị phải tiến hành, và thu phục toàn bộ đất đai của vua Lê mới được đưa quân về, nhưng Nghị vẫn cứ ở lại Thăng Long để chỉ huy điều động. [Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 585. Chi tiết này thực ra không đúng. Chính Tôn Sĩ Nghị muốn tiến quân trong khi Thanh triều lại chủ trương rút lui, lấy cớ là bên trong là đất Quảng Nam, không phải đất nhà Lê, nhà Thanh không việc gì phải phí hao tiền bạc, binh lương để giúp An Nam nữa.]

Thực tế lúc đó cho thấy chính Lê Chiêu Thống và những người theo ông đều không biết nhà Thanh đang mưu định gì. Họ lại càng không biết gì về phía “địch” [nghĩa là phía Tây Sơn] khi tin tức từ hai miền bị ngăn cách nên hoàn toàn thụ động với tình thế. Trong khi triều đình vua Lê đinh ninh quân Thanh sẽ tiếp tục tiến lên thu phục các vùng đất ở phía nam, nhưng Tôn Sĩ Nghị lại tính một sách lược mềm mỏng hơn để thu phục Nguyễn Huệ ngõ hầu có thể rút quân về cho êm thắm.

Theo những miêu tả ghi nhận trong các tấu triệp, quân Thanh đóng tập trung ngay tại ngoại ô Thăng Long, gần bờ sông cho tiện việc sinh hoạt, thiết lập cầu phao làm phương tiện giao thông. Ðể bảo vệ cho đại quân, Tôn Sĩ Nghị sai các tướng đem quân đóng đồn ở phía nam kéo dài đến mấy chục dặm. Vì chưa có những đụng độ lớn nên quân Thanh lại quay về với lối sống của một quân đội thời bình, nặng hình thức, ít thực dụng. Ðám Hoa kiều sống nhờ trên đất nước ta lập tức tổ chức những sinh hoạt vui chơi, hưởng lạc để phục vụ đoàn quân từ chính quốc.

Thời gian chờ đợi đó lại đúng dịp giáp Tết nên không khí khá nhộn nhịp, nhất là có thêm hàng vạn phu phen di chuyển ngày đêm trên trục lộ tiếp vận từ Quảng Tây xuống Thăng Long. Thành phần ngoại nhập đó cũng mang theo những thói quen mất vệ sinh, tranh giành, thô tục, nhất là cướp bóc, o ép làm gia tăng ác cảm của dân chúng. Tôn Sĩ Nghĩ lại muốn tâng công với Thanh triều nên tìm đủ cách để tàn sát người Việt, cắt tai báo thưởng. [Trong tấu thư ngày mồng 9 tháng Chạp năm Mậu Thân [4-1-1789], họ Tôn có kể lại việc quân Thanh cắt thủ cấp và tai những người bị chúng giết, còn ai bị bắt thì đem ra chém ngay, mỗi ngày lên đến vài chục người (…每日縳送數十人訊係賊匪。隨到隨即正法 … mỗi nhật phọc tống sổ thập nhân tấn hệ tặc phỉ. Tuỳ đáo tuỳ tức chính pháp) KDANKL, quyển IX, tr. 5] Trần Nguyên Nhiếp, một đô ti trong quân Tôn Sĩ Nghị ghi lại:

“Ngày 25 tháng Một, [Chi tiết này không chính xác, đúng là ngày 20 tháng Một năm Mậu Thân] đại binh chiếm lại kinh đô nhà Lê. Sắp xếp triều đình an dân. [Trí quân an dân置君安民. Cứ bình thường, khi binh lính tới đâu thì dùng chữ quân 軍 là quân đội nghĩa là đóng binh các nơi để giữ yên cho dân chúng. Trong sách này, tác giả dùng chữ quân 君 là vua, không biết có phải là một lối chơi chữ trịch thượng [ý nói phong vương cho Lê Duy Kỳ] hay vì sao chép nhầm. Theo báo cáo của Tôn Sĩ Nghị thì ngày quân Thanh vào Thăng Long là ngày 20 tháng Một.] Vì nghịch Nguyễn [đầu sỏ giặc gọi là nghịch, tay chân bộ hạ gọi là tặc. Do đó Trần Nguyên Nhiếp dùng chữ nghịch khi chép về Nguyễn Huệ] đã chạy đi ẩn náu ở nước Thanh Hoa rồi nên ta đóng quân ngay tại Lê thành, ngày ngày thao luyện để tăng quân uy. Từ kinh đô nhà Lê về phía nam, quân ta đóng trại liên tiếp bốn mươi dặm, tính kế chiêu phục Nguyễn nghịch xong sẽ lập tức rút về Nam Quan.

Ngờ đâu Nguyễn nghịch quỷ quyệt nên đã sắp đặt gian tế khắp nơi, lẻn vào đại doanh thám thính hư thực. Các doanh tra xét bên ngoài, hỏi dò bên trong, bắt được những kẻ vào buôn bán, cắt tóc hay bán thuốc hút đều đem ra chém. Những nơi chứa lương hướng, hoả khí của ta đều có tai mắt của giặc, tuy đã tra xét nghiêm nhặt và bêu đầu nhưng từ trong núi non rừng rậm, dư đảng của giặc vẫn vào ra vô thường. Quân ta ở nơi yên chướng mưa gió xứ man, ngày đêm tuần tra qua lại liên tục như mắc cửi. Có điều vào sâu trọng địa, đại công đã xong, ngày ngày chỉ có việc duyệt binh còn việc rút quân chưa nghe gì cả.”


Tôn Sĩ Nghị cho rằng Nguyễn Huệ sợ mình nên tung ra nhiều tờ hịch kêu gọi đầu hàng, còn lính tráng thì lấy cớ đã “giải phóng” cho dân miền Bắc khỏi tai hoạ của Tây Sơn nên chỉ lo “hội hè, chè chén, ăn uống thô tục”. Vì những thắng lợi từ Lạng Sơn xuống Thăng Long quá dễ dàng nên tướng lãnh nhà Thanh đều cho rằng Nguyễn Huệ sẽ chỉ cố thủ ở phần đất hiện có mà không đủ khả năng đánh ra Bắc, nhất là những thế lực thù nghịch của ông hiện đang đe doạ ở phía Nam.[Cũng theo tài liệu của Hội Truyền Giáo ở Bắc Kỳ, chúng ta biết rằng Tôn Sĩ Nghị và các tướng nhà Thanh đã có những quan điểm rất “Tàu” khi họ chủ động gửi thư cho Nguyễn Huệ ấn định sẽ giao tranh vào ngày mồng 6 AL – mà các giáo sĩ cho rằng đó là một ngày tốt [theo Trung Hoa] để xuất quân – nhưng Nguyễn Huệ đã tấn công ngay ngày Tết Nguyên Ðán khiến họ trở tay không kịp. Nhiều tài liệu cho thấy Tôn Sĩ Nghị đã nhận được một số thư “trần tình” của Nguyễn Huệ nên ra vẻ thiên triều khi y trả lời đối phương hãy “án binh bất động” để ra Tết y sẽ phân xử xem ai phải ai trái. Sử Trung Hoa thường nhấn mạnh đến yếu tố chủ quan khinh địch của họ Tôn như lý do chính khiến cho quân Thanh đại bại.]

Nguyễn Huệ cũng tương kế tựu kế “gửi thư cho Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, giả vờ nhún mình nhận tội, và nói rằng không biết thiên triều có chịu xá tội cho không, nên chưa dám sai sứ đi xin tha tội”. Không biết đây có phải là một kế hoạch để cho Tôn Sĩ Nghị thêm tin tưởng vào kế hoạch tái lập nước Chiêm Thành của vua Cao Tông, trong thư gửi nhà Thanh Nguyễn Huệ lại viết rằng “… thần vốn là dòng dõi của quốc vương Chiêm Thành, cha ông bị mất nước nên phải trốn đến đất Tây Sơn, ấn bạc của triều trước sách phong cho vẫn còn đó”. Tôn Sĩ Nghị lại ra chiều kẻ cả, gửi thư ra lệnh cho vua Quang Trung “… phải rút quân về Thuận Hoá để chờ nghe xét xử, không được liều lĩnh làm càn, mà chuốc lấy tội.” [Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 586]

Trước khi tiến ra Bắc, vua Quang Trung tập hợp đại binh tại châu Thọ Hạc [thuộc Ðông Sơn, Thanh Hoá] để tỏ ý chí sắt đá quyết tâm đánh bại quân Thanh. Lịch Triều Tạp Kỷ chép:

“ … Huệ ngồi trên đầu voi, ra lệnh rằng:

– Trong các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết hết lũ chó Ngô. Nếu không muốn đánh, hãy xem ta chỉ trong một trận giết hàng mấy vạn mạng người cho coi, chứ không phải là nói khoác đâu!

Nói xong các quân đều dạ ran như sấm, núi rừng rung động, chiêng trống vang rền, hành quân tiến gấp.”
[Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 586]

Cuộc duyệt binh vĩ đại và hùng tráng này được nhiều nguồn ghi lại, nhiều tài liệu còn ghi những lời nói hùng hồn như một dạng “hịch tướng sĩ” nhưng rất tiếc chúng ta không có được những tài liệu khả tín nên không biết chính xác đến mức độ nào.[Một chi tiết cũng khá quan trọng về trận đánh năm Kỷ Dậu là một câu văn viết bằng chữ Nôm – tương truyền là của Nguyễn Huệ khi ra Bắc – trích từ một tập hợp tài liệu nhan đề MinhÐô Sử do Lê Trọng Hàm và một số người trong Nam Việt Ðồng Thiên Hội sưu tầm trong khoảng từ 1922 đến 1930:

Ðánh cho để dài tóc,

Ðánh cho để đen răng.

Ðánh cho nó chích luân bất phản,

Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn.

Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Tuy nhiên chính học giả Trần Văn Giáp cũng phải than rằng vì tính chất thiếu khoa học và xuất xứ mù mờ của nó “… nhiều người Quí công phu của các tác giả sách Minh đô sử, nhưng đến khi sử dụng một cách đúng đắn lại ngần ngại vô cùng”. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Tập 1 (in lần thứ hai). (1984) tr. 187.]

Theo những tường thuật của các giáo sĩ tại Ninh Bình, Nam Ðịnh, quân Tây Sơn tuy đã rút về Tam Ðiệp nhưng vẫn cố thủ ở nhiều nơi mặc dù chưa đụng độ trực tiếp với quân Thanh. Ngoài bộ chỉ huy của Ngô Văn Sở bí mật rút đi trước, các toán quân đóng rải rác tiếp tục giao tranh với quân nhà Lê [nổi lên khi nghe tin quân Thanh sang] trong khoảng một tháng từ khi Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long (20 tháng Một năm Mậu Thân) cho đến cuối năm. Những trận chiến đó tuy lẻ tẻ nhưng không phải là không khốc liệt và cả hai bên đều thiệt hại. Ngô Huy Dao, một nho sĩ thần tử nhà Lê đã viết trong một khúc ngâm của ông như sau:

… Lại phân sai sắp bày tiến thảo,

Hội giáp công các đạo tranh tiên.

Mặt Nam thời chú Hàm Xuyên,

Vi thần đại thảo hịch truyền một chương… [Lê Huy Dao, “Lữ Trung Ngâm” Nguyễn Cẩm Thuý, Nguyễn Phạm Hùng, Văn thơ Nôm thời Tây Sơn (1997) tr. 291-2]

Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (nhằm ngày 20 tháng 1 năm 1789), khi nghe tin đại quân của vua Quang Trung sắp đến, binh lính của Ngô Văn Sở cảm thấy lên tinh thần và bắt đầu các chiến dịch phản công. Một đạo quân Tây Sơn giao tranh với quân nhà Lê gần Kẻ Vinh, [một làng hoàn toàn theo đạo Thiên Chúa, được coi như thủ phủ của Xứ Nam (Vicariat du Tonkin occidental), một giáo khu quan trọng vào thế kỷ XVIII. Nơi đây có một trường dòngđào tạo nhiều nhà truyền giáo bản xứ (catechists) Xem thêm John R. Shortland, M.A. The Persecutions of Annam: A History of Christianity in Cochin China and Tonking (1875) tr. 85-9] thắng trận rồi đảm trách nhiệm vụ tiên phong tiến lên trước. [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 205-8] Những giáo sĩ đã viết như sau:

“… Ngày nào cũng vậy, người ta chỉ thấy các sứ giả đem hung tín về tới thủ đô. Trong khi đó, các sĩ quan Trung Hoa, bỏ qua tai những lời kêu than và vô tình trước những đại bại [của quân nhà Lê], chỉ biết kêu gọi Tư Mã [Ngô Văn Sở] và quân Nam kỳ đầu hàng hay ra giao chiến thử tài... [Đặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 205. Chi tiết này cho thấy đúng như báo cáo của quân Thanh, Tôn Sĩ Nghị hay biết việc tiến quân của Nguyễn Huệ nhưng đinh ninh rằng không dám đụng đến mình.]

Ngày 29 tháng Chạp [24-1-1789], quân Tây Sơn bắt đầu tấn công. Ngày 30 tháng Chạp [25-1-1789] vượt sông Gián [Giản Thuỷ] đánh vào lực lượng của Hoàng Phùng Nghĩa. Quân nhà Lê tan vỡ, Nguyễn Huệ thừa thắng tiến theo đường Thanh Quyết tiêu diệt một số đồn trại lẻ tẻ ở Nguyệt Quyết, Nhật Tảo.

Theo tấu thư của Ô Ðại Kinh nhà Thanh nhận được ngày 20 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [14-2-1789] thì ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân [20-1-1789], y tiến quân ra khỏi Tuyên Quang, ngày 29 đến Bạch Hà, chỉ còn cách Thăng Long 120 dặm. Y bèn đem toàn bộ lực lượng giao lại cho phó tướng Ðịnh Trụ đóng lại đây rồi lên đường đi gặp Tôn Sĩ Nghị. [KDANKL, quyển XII, tr. 24-25]

Ðúng ngày tết Nguyên Ðán, Ô Ðại Kinh hội kiến với Tôn Sĩ Nghị tại bờ sông Phú Lương [tức Nhĩ Hà] để bàn thảo tình hình và theo lệnh vua Càn Long soạn thảo hịch văn để gửi cho Nguyễn Huệ. Trong hịch văn này, họ Ô ra lệnh cho Nguyễn Huệ phải “lập tức chạy đến quân doanh của y để tâu xin đại hoàng đế thi ân, mở cho một đường sống”. [令其速行投至臣處軍營。當為奏請大皇帝施恩。寬其一綫生路。 (Lệnh kỳ tốc hành đầu chí thần xứ quân doanh. Ðương vi tấu thỉnh đại hoàng đế thi ân. Khoan kỳ nhất tuyến sinh lộ]. KDANKL, quyển XII, tr. 25]

Tôn Sĩ Nghị cũng viết giùm cho Ô Ðại Kinh hai bản hịch văn gửi cho Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cho người chia hai đường mang đi, sau đó họ Ô quay về Bạch Hà. Những chi tiết mà các giáo sĩ ghi lại có lẽ là nội dung của các bản hịch dụ này. Như thế, ngay trong ngày đầu năm Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị và các tướng nhà Thanh vẫn còn khệnh khạng, tưởng chừng như có thể tự tung tự tác và hoàn toàn không e ngại gì về lực lượng của Nguyễn Huệ đang tiến tới gần.

Theo những miêu tả của tàn quân Thanh sau khi thua chạy, quân Nam đa diện giáp công để quân giặc không cứu ứng được nhau. Nhiều đồn luỹ của quân Thanh cũng khá kiên cố và quân Nam phải thay đổi chiến thuật liên tục cho phù hợp với tình thế. Các sử gia Trung Hoa khi đề cập đến trận đánh đầu năm Kỷ Dậu dùng những câu như “Nguyễn Văn Huệ tam hãm Lê Thành” (Nguyễn Văn Huệ ba lần đánh Thăng Long) để nhấn mạnh là quân Nam không phải chỉ tấn công một lần là xong.

Một cách tổng quát, Nguyễn Huệ điều động nhiều binh đội tấn công đồng loạt vào nhiều vị trí khác nhau dọc từ Nam Ðịnh lên Hà Ðông. Quân nhà Lê tan vỡ đã đành mà các toán tiên phong của Hứa Thế Hanh許世亨 cũng không chống cự nổi. Trong khi địch còn hoang mang cố thủ để chờ tiếp viện thì trung quân của Nguyễn Huệ tiến lên, dùng chiến thuật biển người tràn vào. Những đoàn quân tinh nhuệ nhất, được trang bị hỏa lực tối tân nhất, kể cả hỏa hổ, hỏa long trùng trùng lớp lớp, tràn lên như những đợt sóng triều cuốn hết những chướng ngại ngăn trở đường ra kinh đô.

Theo tài liệu của Trung Hoa thì sau một ngày yến ẩm, sáng mồng 2 Tết [27-1-1789] [giờ Mão, khoảng 6-8 giờ], Lê Chiêu Thống chạy đến báo cho Tôn Sĩ Nghị rằng thám thính cho hay Nguyễn Huệ đã đem quân vượt sông kéo đến rồi, lại phao lên rằng vì mẹ con họ Lê cầu cứu quân Thanh khiến cho đại binh tiến sang giết mất mấy nghìn binh sĩ của họ, nên quân Tây Sơn nhất quyết báo thù. Tôn Sĩ Nghị ghi trong tấu chương của y rằng “Lê Duy Kỳ khẩn thiết kêu xin với hạ thần, chỉ mong hai mẹ con được đưa về nội địa (tức Trung Hoa), xin Ðại Hoàng Ðế cho cơm ăn, mong toàn tính mạng, không còn thiết gì đến chức An Nam quốc vương nữa”. Thấy vậy Tôn Sĩ Nghị nghĩ đến nghĩa lớn nên vỗ về an ủi khiến họ Lê “gạt nước mắt mà đi”. [Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 377] Tuy nhiên, nhiều lời khai của những người tham dự có khác biệt mà chúng ta cần tìm lại sự thật. [Những báo cáo của Tôn Sĩ Nghị và các quan lại khác đều được soạn sau khi quân Thanh đại bại chạy về Trung Hoa nên chắc chắn không đúng sự thật và cố tình tìm những lý lẽ bào chữa cho sự bất tài của mình để chạy tội. Ngoài ra, chúng ta cũng không quên sau trận chiến Việt- Thanh, các quan nhà Thanh cũng cảm nhận được chiều hướng mới của triều đình là giảng hoà với An Nam nên tìm cách vẽ nên một hình ảnh “Lê Duy Kỳ lười biếng, vô tài” để cho vua Cao Tông dễ chấp nhận. Hơn nữa, tất cả những báo cáo nội bộ của vua tôi Càn Long bên ta hoàn toàn không được biết nên họ muốn nói gì cũng được theo chiều hướng có lợi và chỉ có một phần sự thật mà thôi.]

Tôn Sĩ Nghị liền cùng Hứa Thế Hanh liền truyền lệnh cho chư tướng sĩ rằng “cứ xem như thế này thì quân giặc đã đang trên đường tới đây, chẳng mấy chốc sẽ chiếm cứ An Nam, giết hại mẹ con Lê Duy Kỳ, trước đây quân ta không tấn công chúng ngay được, chỉ vì đường sá xa xôi, lương thực khó khăn không dễ mà làm. Ðến nay Nguyễn Văn Huệ muốn chiếm An Nam ắt sẽ tự mình đem quân đến, chẳng qua cũng vì ta vướng mắc nên đã không phụng thánh chỉ triệt binh, bỏ mặc y không lo tới”. [Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 378.]

Tôn Sĩ Nghị thấy tình hình nguy cấp vội sai tổng binh Trương Triều Long tuyển 3.000 quân tinh nhuệ chia ra đóng ở Hà Hồi, Ngọc Hồi cự địch. Thế nhưng Nguyễn Huệ quân đông thế mạnh nên họ Tôn lại phải sai Hứa Thế Hanh dẫn 1.500 binh, còn y đích thân dẫn 1.200 binh đi theo tiếp ứng. Tôn Sĩ Nghị cũng phi hịch điều động cánh quân Vân – Quí [đang ở Sơn Tây] ứng chiến để chia lực lượng quân Tây Sơn. Các cánh quân nhà Lê của Lê Duy Chỉ, Phan Khải Ðức, Trần Quang Châu cũng vội vàng tiếp cứu tuy có thắng được vài trận nhỏ nhưng về sau đều bị đánh bại phải chạy về.

Theo sử nước ta, ngày mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [28-1-1789], ngay từ tờ mờ sáng quân ta đã kéo đến, đốt sạch quân lương của địch. Vua Quang Trung đích thân chỉ huy, buộc khăn vàng vào cổ để tỏ cho quân sĩ biết phải liều chết chứ nhất định không chịu lùi. Suốt ngày mồng 3 tháng Giêng [28-1-1789], Trương Triều Long mấy lần đẩy lui được đạo tiền đội của Nguyễn Huệ nhưng đến tối hôm đó thì quân Nam lại tấn công. Cũng theo tài liệu của nhà Thanh, sang ngày mồng bốn [29-1-1789], quân Tây Sơn kéo đến như đàn ong, vây kín chung quanh doanh trại của Trương Triều Long.

Buổi sáng, lực lượng công hãm chủ yếu là bộ binh và các đơn vị khác, đến trưa có thêm một số voi. Quân Nam dùng nhiều loại hoả khí như hoả hổ, hoả cầu, hoả long … là các tên lửa thông dụng vùng Ðông Nam Á [được dùng rộng rãi từ Miến Ðiện đến Xiêm La, Nam Chưởng] để đốt cháy các công sự và thành luỹ củađịch. Trương Triều Long và phó tướng là Dương Hưng Long hết sức chống giữ, cầm cự liên tục một ngày một đêm để chờ viện binh, sau cùng đành phá được vòng vây bỏ chạy, quân ta lập tức đuổi theo.

Lực lượng của Hứa Thế Hanh mới được điều lên lập tức bố trí chặn hậu hợp lực với tàn quân Thanh vừa chạy về vừa chống đỡ vừa cho kỵ binh dàn thành thế trận ngăn chặn quân Nam. Kỵ binh nhà Thanh tuy vẫn nổi tiếng là tinh nhuệ nhưng vẫn còn trang bị cung tên, gươm giáo (súng chỉ bộ binh mới có vì chưa tiện cho việc nạp đạn khi ngồi trên lưng ngựa, không tiện lợi bằng cung nỏ).[Không biết ở những đồn này súng ống được trang bị như thế nào nhưng sau trận đánh năm Kỷ Dậu – theo các giáo sĩ thì vua Quang Trung đã lấy được của địch quân “…2, 3.000 cỗ đại bác và súng thần công (chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác nhau cùng với vô số tiền bạc và (đại khái) tất cả những vật liệu quí giá bắt được của quân Tàu …” để đem về Phú Xuân. Tuy nhiên cũng có thể một phần khí giới là của ông đem ra Bắc. Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 209-10.]

Sáng sớm ngày mồng năm tháng Giêng, vua Quang Trung “tự mình đốc chiến” tập trung toàn bộ chiến tượng xua đi đầu, các cánh quân khác ùn ùn từ các nơi đổ xuống. Lịch Triều Tạp Kỷ chép:

“…Không ngờ, hôm ấy, khi trời chưa sáng, Văn Huệ tự mình đốc chiến, dùng hơn 100 thớt voi hùng dũng đi đầu, quân tinh nhuệ tiến theo sau, đánh nhau to hồi lâu. Những con ngựa của quân kỵ và tướng soái nhà Thanh, trông thấy voi thì đều hí vang rồi quay đầu chạy lui. Lính bộ quân Thanh bị voi dầy xéo liền chạy cả vào trong hàng rào, bắn súng lớn liều chết cố thủ. Huệ và các thuộc tướng gấp rút xua voi xông pha tên đạn, nhổ rào luỹ mà tiến vào …” [Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 587]

Theo tài liệu của Hội Truyền Giáo Bắc Hà, quân Thanh chống trả rất kịch liệt khiến quân ta bị chết mất khá nhiều voi, Nguyễn Huệ phải bỏ voi cưỡi ngựa, xông lên đầu chỉ huy sĩ tốt.

… Ngày 30-1 [mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu] Quang Trung rời Kẻ Vôi trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo 2 cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính TH [Trung Hoa] làm rất nhiều người chết về tay ông. Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu ...[Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 208...]

Thủ bị Lao Hiển勞顯 bị bắt làm tù binh, khi được trao trả đã khai rằng:

“Y theo Thượng tổng binh (tức Thượng Duy Thăng) và tham tướng Vương Tuyên đem quân đóng ở đường nhỏ phía nam Lê Thành (tức Thăng Long). Ngày mồng bốn tháng Giêng, quân giặc kéo đến, Lao Hiển đi theo tham tướng đem quân tiếp ứng, đến sáng sớm ngày mồng năm, mấy nghìn quân giặc vây kín doanh trại mà binh còn trong trại không bao nhiêu, Lao Hiển ra lệnh cho lính dùng súng bắn ra, đến trưa thì quân địch càng lúc càng đông, voi cũng đã đến, bắn hỏa tiễn, hỏa cầu như mưa khiến quan quân tán loạn. Sức thấy không giữ nổi nên Lao Hiển vội đem quân phá vòng vây chạy ra khỏi doanh, bị quân giặc dùng giáo đâm vào bụng ngựa, ngã vật xuống, chân bên phải lại trúng thương, không chạy được nữa, nên bị quân giặc bắt đưa vào một căn nhà trống trong thành… Mỗi ngày họ có cho người đem cơm đến, đến ngày 16 tháng 2 (tức bị giam 40 ngày), quân giặc cho ngựa, cùng tất cả các binh sĩ (cùng bị giam) được thả ra. Y nói chưa từng gặp Nguyễn Huệ, chỉ nghe nói Thượng tổng binh, Vương tham tướng bị quân giặc vây đã chết rồi nhưng không chính mắt trông thấy chuyện đó.”[Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 378.]

Theo miêu tả của Trần Nguyên Nhiếp, một tướng lãnh cấp nhỏ [du kích đề tiêu] của nhà Thanh tham dự trực tiếp mặt trận này:

“Ngày mồng 1 tháng Giêng năm Càn Long 54 [26-1-1789], quân giặc thừa lúc quân ta ăn Tết từ trong núi đột nhiên đổ ra khắp nơi, phất cờ la hét, tư thế cực kỳhung mãnh. Quân ta vội vàng kết trận nghinh địch. Lại phái binh ra bốn ngả sắp xếp phòng ngự và tiếp ứng lẫn nhau.

Từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4, liên tục chiến đấu suốt bốn ngày đêm. Người bị trúng đạn và bị thương vì gươm đao không biết bao nhiêu mà kể.

Sáng sớm ngày mồng 5, voi từ phía sau núi kéo ra. Ta vội vàng dùng đại pháo oanh kích tượng trận. Voi liền chia thành hai cánh vòng ra đằng trước xông thẳng vào đại doanh, Khi đó thế địch đông, ta phải phân ra chống giữ. Quân giặc tập trung như kiến, mạnh như sóng biển ập vào. Nghe nói đại doanh đã bị trận voi xông vào đốt cháy vì chưng mỗi con voi trên lưng đủ chỗ cho ba bốn tên giặc đầu quấn khăn đỏ ngồi ném các loại lưu hoàng, hoả cầu vào mọi nơi để đốt người.

Tuy nhiên, đội tượng binh cũng chỉ có tác dụng giới hạn và không thể vượt qua được hoả lực của quân Thanh, chưa kể gần đồn còn những chướng ngại vật và hào nước. Sau khi bị thiệt hại khá nặng, Nguyễn Huệ phải cho voi thoái lui đưa khinh binh trang bị dao ngắn và hoả hổ, đẩy các loại xe chắn lót rơm tiến lên. Trong thành địch bắn ra như mưa nên quân ta không vượt qua được hào sâu, địa lôi và chông sắt của địch. [Theo tài liệu của Việt Nam, Nguyễn Huệ ra lệnh cho quân lấy ván ghép lại bên ngoài bọc rơm ướt để làm mộc chống với tên lửa che cho đại quân theo sau. Theo dã sử, quân Thanh bắn ra khiến voi của ta không tiến lên được, Nam quân phải dựng những bức tường rơm tẩm nước để tiến lên. Theo tài liệu của Trung Hoa thì “Nguyễn Huệ ra lệnh cho quân lính dùng rơm rạ kết lại thành từng bó lớn, lăn xả vào rồi quân lính núp ở sau tiến lên” Nguyên văn: 阮文惠命兵丁以禾稈綑紮成束,亂滾而前,勁兵隨後推進 (Nguyễn Văn Huệ mệnh binh đinh dĩ hoà cán khỗn trát thành thúc, loạn cổn nhi tiền, kính binh tuỳ hậu thôi tiến)] Quân Thanh đốt thuốc súng để làm màn khói nhưng một lát sau gió đổi chiều, quân ta liền nhất loạt xông lên, cuối cùng cũng vào được trong đồn.

Ở đây chúng ta có thể mở một dấu ngoặc để đưa ra một số chi tiết về kỹ thuật công đồn của vùng Ðông Nam Á mà Nguyễn Huệ đã áp dụng hay ít ra cũng rút kinh nghiệm khi ông đem quân vây thành Qui Nhơn nhiều tháng liền. Chính thất bại này đã khiến ông nhìn ra được sự bất lợi về hao tổn lực lượng và tiếp vận nếu đối phương cố thủ trong một thời gian dài nên ông luôn luôn khai thác ưu điểm về nhân lực, vũ khí trong một cuộc chiến chớp nhoáng. [Một điểm tuy không ghi trong sử nhưng cũng đáng cho chúng ta chú ý. Ðó là trong quân của Nguyễn Huệ có một số đông dư đảng của Thiên Ðịa Hội mới thua trận ở Ðài Loan [1788] chạy ra biển làm hải khấu đã được ông thu nạp. Chắc chắn khi sử dụng thành phần này, Nguyễn Huệ không thể không tìm hiểu về ưu và khuyết điểm của quân Thanh và chuẩn bị những phương thức khắc chế sở trường của địch từ kinh nghiệm của họ. Với những thuộc hạ như thế, có thể nói Nguyễn Huệ biết rõ về địch hơn là địch biết về ông.]

Những miêu tả là dùng ván [Liệt Truyện] hay các cuộn rơm [Cương Mục] trong sử triều Nguyễn có lẽ là một số lá chắn bằng gỗ bọc rơm có bánh xe để tiến đến gầnđồn, sau đó dùng ngay những lá chắn đó làm cầu để vượt qua hào chông của địch. Phương thức công thành đó tương đối thông dụng, đã từng được sử dụng tại Miến Ðiện, Xiêm La và nhiều nơi khác. Những loại xe khổng lồ do người đẩy hay dùng dây thừng kéo khi vào được trong thành lại dùng như vật liệu dẫn hoả để đốt doanh trại địch và là một loại chiến xa công thành khá độc đáo của vùng Nam Á. Loại lá chắn này cũng giúp cho bộ binh không bị chôn chân tại một điểm cố định và thừa thế núp đàng sau tiến vào công thành.

Trước kia, khi binh sĩ chỉ cận chiến bằng các loại võ khí thô sơ như gươm giáo, cung tên việc che chắn khó thực hiện và nhiều khi không cần thiết. Áo giáp là hình thức bảo vệ thông dụng hơn cả. Ðây là lần đầu mà cả hai bên, ta cũng như địch, đã dùng hoả khí [súng ống, đại pháo] trong một qui mô lớn để chiếm ưu thắng, chiến thuật công đồn đã thay đổi. Cải tiến kỹ thuật này là lần đầu tiên được áp dụng nên người dân Bắc Hà chưa từng chứng kiến, việc tường thuật không khỏi pha chút hư cấu, miêu tả thành ván bọc rơm mà nhiều tác giả tỏ ý nghi ngờ về phương pháp và hiệu quả của nó. Con rồng lửa nhắc đến có lẽ là những loại phi pháo của các nhóm hải phỉ thường dùng để đốt tàu địch chứ không phải là những bùi nhùi bằng rơm như một số sách vở chép. Tài liệu người Thanh cũng chép là quân Nam bắn rất nhiều hoả cầu, hoả hổ, hoả long. Nói tóm lại, chiến thắng Kỷ Dậu nhờ vào quân số áp đảo cộng với hoả lực mạnh của quân Tây Sơn.

Theo lời khai và tấu chương của Tôn Sĩ Nghị thì họ Tôn thấy tình hình nguy cấp, quân Nam đã vây bốn bề nên ra lệnh cho tướng sĩ phải tử chiến một trận để báo hoàng ân, bọn Hứa Thế Hanh đáp lời xông lên trước, sau khi bắn hết đạn rồi dùng đoản binh (tức dùng gươm giáo) đánh cận chiến. [Theo báo cáo của phía quân Thanh, trong lần tử thủ này, quân ta phải nhiều lần tiến lên đánh theo lối tràn ngập nên tổn thất cũng không nhỏ. Theo báo cáo của tù binh sau khi trở về thì “quân của Nguyễn Văn Huệ chết chất thành đống đâu phải chỉ vài ngàn mà thôi”. Trang Cát Phát: TTVC (1982) tr. 379] Quân Thanh càng đánh thì quân ta càng kéo đến đông hơn. Trong hai ngày huyết chiến, những đại tướng như như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng … đều tử trận. [Theo Ngụy Nguyên thì những tướng lãnh này bị chết khi tranh nhau quan cầu phao vượt sông Nhị Hà nên bị chết đuối. Ngụy Nguyên cũng viết là quân Nam đánh vào Thăng Long ngày mồng một Tết khi quân Thanh đang ăn cỗ. Thực ra mãi đến mồng 5 quân Tây Sơn mới đụng độ với quân Sầm Nghi Ðống tại Ðống Ða (sau này giỗ trận Ðống Ða vào ngày mồng 5). Việc miêu tả Tôn Sĩ Nghị còn đang yến ẩm thì quân ta kéo đến cũng là hư cấu vì trong mấy ngày liền các trận đánh càng lúc càng ác liệt, càng tới gần, quân Thanh lo chống trả còn chưa xong, không thể nào vui chơi ca hát được. Cũng không có việc quân ta kéo đến nhanh quá nên địch không biết gì cả.] Ðây là trận đánh kinh hoàng nhất và quân Nam cũng bị thiệt hại nhiều tuy sử sách không ghi chép rõ rệt. Riêng các giáo sĩ ghi nhận rằng bên ta thiệt hại ít nhất là 8.000 người trong đó có cả một tướng lãnh cao cấp là Ðô Ðốc Lân. [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 208.]

Khí thế dũng mãnh đó khiến quân Thanh hoảng hốt bỏ chạy bị quân Nam tàn sát, chết và bị thương đến quá nửa. Hứa Thế Hanh thấy tình hình không cự nổi, đành gọi gia nhân đem ấn tín đề đốc vượt sông đem về Trung Hoa như một quyết định sẽ đánh đến chết mới thôi. [Khi tướng lãnh thấy tình hình quá bi đát, phải liều chết để bảo toàn danh tiết thì sai người mang ấn tín vượt vòng vây đem về như một dấu hiệu tận trung báo quốc.]

Quân Tây Sơn không dừng lại lập tức tiến lên đánh vào Khương Thượng (Ðống Ða), phía tây nam ngoại thành Thăng Long. Ðồn này do Sầm Nghi Ðống và toán quân Miêu, rất thiện chiến trấn giữ. [Vào thời kỳ đó, những dân tộc thiểu số dọc theo biên giới Hoa – Việt được tổ chức thành những đơn vị dân quân, trang bị súng điểu thương. Sở dĩ họ được trang bị súng vì nhà Thanh cho là dùng súng không linh hoạt và uy nghi như cung nỏ họ vẫn dùng nên đem các loại súng này (lấy được khi giao tranh với người Hồi) trang bị cho các dân tộc vùng núi.] Sầm Nghi Ðống chỉ huy độ 1,000 binh chống giữ rất hăng, một số lớn bị giết số còn lại đến ngày hôm sau mới ra hàng. [theo tài liệu nhà Thanh, số quân Ðiền Châu theo Sầm Nghi Ðống sang nước ta là hơn 2.000 người nhưng một số chia ra đi theo các cánh quân thiểu số [mà họ gọi là di binh] ở Cao Bằng, Thái Nguyên để hỗ trợ cho Lê Duy Chỉ nên tại Ðống Ða chỉ khoảng 1.000 người.] Các tài liệu của Việt Nam viết rằng Sâm Nghi Ðống thắt cổ tự tử nhưng theo các quân sĩ chạy về được thì Sầm Nghi Ðống bị chém đứt một cánh tay, ngã ngựa rồi bị giết. Hài cốt của y sau được con cháu sang nhận đem về và người Trung Hoa có xây cho y một ngôi miếu ở Hà Nội, sau này gọi là ngõ Sầm công. Nhiều người nhận lầm ngôi miếu này là ngôi đền Nguyễn Huệ dựng cho các tướng nhà Thanh ở phía nam Thăng Long [Khi sứ thần nhà Thanh là Thành Lâm sang phong vương cũng có đến tế ở ngôi đền này.] theo yêu cầu của vua Càn Long. [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 209. Trong các văn bản nôm còn giữ được có một bản văn tế “cúng dàng” quân Thanh chết trận thời Tây Sơn còn lưu lại đến ngày nay có viết: “… Ðiền châu thái thú đảm đương, Liều mình tử trận chiến trường nên công” xác nhận Sầm Nghi Ðống chết trận, đúng như lời khai của quân Thanh khi được trả về. [Xem Nguyễn Thị Lâm “Một Bài Văn Tế Tướng Sĩ nhà Thanh Tử Trận” (Thông báo Hán Nôm Học 2005, tr. 373-378) và “Văn cúng quân Thanh chết trận Ðống Ða: Tài liệu Nôm thời Tây Sơn” (Nghiên Cứu Lịch Sử 1997 – Số 2, 185, tháng 3-4)]]

Sáng ngày mồng 5 Tết [30-1-1789], các cánh kỵ binh, tượng binh và thủy binh của quân Tây Sơn từ ba mặt cùng kéo đến vây Thăng Long. Trong khi các tướng liều chết chống cự, Tôn Sĩ Nghị vội vàng đem mấy trăm thân binh vượt cầu phao sông Nhị Hà chạy về bắc khiến binh lính, dân phu hoảng hốt chạy tán loạn. Các tướng lãnh thấy thế cũng không còn lòng dạ nào chiến đấu nên cũng lật đật tháo chạy. Ngay sau khi qua sông, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt cầu khiến một số đang đi trên cầu rơi xuống sông chết đuối. [Tài liệu của triều Nguyễn nói là cầu đứt nhưng theo chính lời tâu của Tôn Sĩ Nghị [văn thư đề ngày 15 tháng Hai năm Càn Long 54, Cung Trung Ðáng, hòm 2727, bao 226, số hiệu 56526] thì chính ông ta ra lệnh chặt cầu phao. Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược đã cố tình không đề cập đến chi tiết này mặc dù cũng dùng bản tấu thư nêu trên.] Trong số người nịch tử có một số tướng lãnh nhà Thanh, những người chưa qua được đành quay lại huyết chiến cho đến chết. [Ngoại trừ Hứa Thế Hanh tử trận, các tướng lãnh khác chết ra sao không có tài liệu nào ghi chép rõ rệt. Theo Thánh Vũ Ký聖武記 trang 188 thì “Tôn Sĩ Nghị sau khi qua được sông Phú Lương rồi, lập tức chặt đứt cầu phao đoạn hậu, những người còn ở bờ sông phía nam như đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long trở xuống và phu dịch hơn một vạn người (?) rơi xuống sông chết đuối”. Theo cuốn Trường Phát Di Nhân長髮夷人 của Trung Hoa thì lại viết rằng “cầu phao bị giặc chặt gãy nên một số quan binh không còn đường chạy đành lộn trở lại phía Lê thành tử chiến nên bị giặc sát hại”. Chú thích 88 của Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 412.]

Theo đúng kế hoạch của vua Quang Trung, các toán thuỷ, hải quân đã bố trí sẵn trong vịnh Bắc Việt đi theo đường sông đánh vào các lực lượng quân Thanh canh giữ các đài trạm chứa lương thực dọc từ Thăng Long lên đến Lạng Sơn.

Ðể biện minh cho việc bỏ chạy thoát thân lấy một mình, Tôn Sĩ Nghị khai rằng:

“tuy giết được nhiều quân giặc nhưng phải đối phó với cả hai mặt, không biết hay dở sống chết thế nào. Nếu như thần chẳng may trúng phải mũi tên hòn đạn thì e rằng sẽ nhục đến quốc thể nên phải dẫn bọn phó tướng Khánh Thành 慶成, Ðức Khắc Tinh Ngạch 德克精額, tham tướng Hải Khánh 海慶 dẫn hơn ba trăm quân phá vòng vây mà chạy”. [Quân Cơ Xứ, CCBVB. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 379.]

Ðến ngày mồng 6 tháng 2 năm đó [2-3-1789], trong thượng dụ xin vua Càn Long thu hồi tước công của Tôn Sĩ Nghị, lại viết:

“Thần Tôn Sĩ Nghị thấy Lê Duy Kỳ bỏ chạy trước, biết rằng chẳng nên ở lại Lê thành làm gì, cũng lập tức triệt binh, đem quân đến bờ phía bắc sông Thị Cầu đứng chờ đại quân.” [Minh Thanh sử liệu, thiên Canh, bản thứ 2, tr. 108 (bản sao tấu chương Tổng đốc Lưỡng Quảng của bộ Lễ). Dẫn theo Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 379.]

Những lời tâu của Tôn Sĩ Nghị xem ra không đúng sự thật và mâu thuẫn với các lời tường thuật của những người khác. Ngay những lời khai của quân Thanh cũng đã không giống nhau.

Trong Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược 欽定安南紀略 để tránh cái tiếng “chưa đánh đã chạy” Tôn Sĩ Nghị đem bản văn đó tô vẽ lại:

“Nào hay càng giết địch càng đông, vây đại binh cả bốn bề. Thần cùng với đề trấn [đề đốc, tổng binh] dẫn các tướng xông thẳng vào trước địch quân. Hứa Thế Hanh nghĩ rằng thần là tổng đốc đại thần, không thể so với các trấn tướng được, nếu có điều gì sơ sẩy thì quan hệ đến quốc thể, hết sức ngăn trở. Sau đó sai phó tướng Khánh Thành hộ tống. Lại ra lệnh cho thiên tổng Tiết Trung cầm cương ngựa của thần gò lại. Thần vung roi vừa đánh vừa quát mắng, ra lệnh cho y buông ra, Tiết Trung nhất quyết không bỏ.

Thần nghĩ lại lời của Hứa Thế Hanh, quả quan hệ đến đại thể, nên dẫn bọn Khánh Thành, theo phía sau điện mà ra.”
[KDANKL, quyển XIII, trang 3]

Theo tài liệu của Trung Hoa thì số quân Thanh đóng ở bờ phía nam sông Phú Lương gồm ba ngàn người do tổng binh Thượng Duy Thăng尚維昇, phó tướng Hình Ðôn Hành邢敦行, tham tướng Vương Tuyên王宣, thổ quan Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống岑宜棟 được lệnh rút về tiếp cứu đề đốc Hứa Thế Hanh. Tuy nhiên những cánh quân đó cũng đang bị vây đánh, không thể tăng viện cho nhau được. Tôn Sĩ Nghị và bọn Khánh Thành thì dẫn hơn ba trăm quân định qua cầu nổi, nhưng bị ba, bốn nghìn quân Tây Sơn truy kích, vừa lúc tổng binh Lý Hóa Long dẫn hơn hai trăm quân chạy theo đến. Tôn Sĩ Nghị liền sai y đi qua bờ bên kia đóng lại tại phía bắc để hộ vệ cho ông ta qua sông. Lý Hóa Long chạy được tới giữa cầu, quính quáng trượt chân ngã xuống sông chết đuối, bọn tuỳ tùng thấy tổng binh chết rồi càng thêm hoảng loạn. Tôn Sĩ Nghị vội vàng sai bọn Khánh Thành bảo vệ phía sau, dùng súng bắn chặn, dẫn binh theo phiệt kiều chạy qua bắc ngạn trước, sau đó chặt đứt cầu nổi khiến cho quân sĩ, phu tướng còn ở phía nam không ai qua sông được nữa, đành phải quay lại tử chiến. [Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 379-80]

Một tướng nhỏ là Trương Hội Nguyên張會元 bị bắt làm tù binh khi được trả về cung khai như sau:

“Lần này phụng lệnh đóng quân tại phía nam Lê thành cách chừng mười dặm, ngày mồng 5 tháng Giêng, giờ Dần đánh nhau với giặc, giết được rất nhiều tặc phỉ, cho đến giờ Mùi, quân giặc càng giết càng đông, cùng xông cả lên khiến quan binh tán loạn. Hội Nguyên đem quân xung sát đến bờ sông, thấy cầu phao đứt mất rồi, không qua sông được nữa, bên mình chỉ còn độ hơn trăm binh. Hội Nguyên kêu lên rằng không lẽ bó tay chịu chết, chi bằng liều mạng đánh về phía Lê thành, giết được thêm vài đứa giặc thì có chết cũng nhắm mắt. Bọn lính nghe nói thế, ai nấy cố hết sức, theo đường cũ xung sát về hướng Lê thành, bị quân giặc vây bốn bề. Hội Nguyên bị quân giặc dùng giáo đâm trúng bên yết hầu và mạng sườn, mê man ngã xuống ngựa, lại bị chém một đao ở cổ, bất tỉnh nhân sự.” [Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380.]

Ðấy là nói về những người không qua được, còn người liều mạng vượt qua thì thế nào. Theo lời Trần Nguyên Nhiếp thì:

“Ðến được bờ sông, đại binh tranh nhau vượt qua. Cầu nổi làm bằng tre và gỗ bắc ngang sông đã bị đứt chìm xuống nước, lại thêm số nhân mã bị tượng trận đốt cháy chết chồng thêm lên một tầng nữa đè cầu xuống. Người đi qua chân đạp lên xác người ở bên dưới, chỉ còn đầu trồi lên phải đến ba dặm mới qua được bờ bên kia. Quần áo giày dép đều ướt sũng, yên cương, ngựa cưỡi cũng mất cả trên cầu.”

Cũng ngày hôm đó, cánh quân Vân – Quí [chỉ có hơn 3.000 người] đóng ở Sơn Tây của Ô Ðại Kinh kéo đến sông Phú Lương để tiếp cứu thì thấy “cầu nổi đã đứt chìm mất rồi, phía bên kia sông lửa cháy rực trời”. Tuy nhiên tiếng súng đã dứt chứng tỏ quân Thanh nếu không chết thì cũng đầu hàng. Họ Ô biết rằng đại binh đã thua không dám tham chiến vội vàng theo đường cũ chạy về nước. [Những tài liệu mới đây cho thấy Ngụy Nguyên (Thánh Vũ Ký – Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký) viết nhiều chỗ hoàn toàn sai sự thực. Các tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long… theo Ngụy Nguyên thì chết đuối nhưng thực ra đều chết trận vì bị bỏ lại phía nam sông Nhĩ Hà không qua được sông (hoặc có thể đã chết từ trước).]

Việc Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy mà chưa từng chạm mặt với quân Tây Sơn là chuyện do chính y thú nhận, và chính những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng đồng ý về điều đó. Ngoài ra còn những chi tiết tuy nhỏ bé nhưng lại đóng một vai trò quan trọng khi chúng ta tìm hiểu về bang giao Thanh – Việt thời hậu chiến. Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, thì:

“Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn tặc (tức Nguyễn Huệ) đích thân đến đánh, kinh hồn táng đởm, tay bồng con thơ, vội vàng dẫn mẹ vượt sông Phú Lương, chẳng kịp đem theo vợ, dân chúng trông thấy tình cảnh đó, cũng hoảng hốt chạy tán loạn, tin đồn lan đến quân doanh, bọn giặc cũng đã hay biết, nên chúng càng hăng tiết”.

Ý của họ Tôn muốn đổ tội cho Lê Chiêu Thống chưa đánh đã chạy làm loạn nhân tâm khiến cho bị đại bại.

Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên – Quyển XLVII thì:



“Bấy giờ, đương ở nơi màn tướng, thình lình được tin quân giặc (quân Tây Sơn) đã tiến sát Thăng Long, Sĩ Nghị không biết xoay trở ra sao, bèn nhổ đồn lũy, vượt qua sông chạy. Cầu gãy người chết vô số kể.

Bấy giờ nhà vua (tức Lê Chiêu Thống) đang hội kiến với Tôn Sĩ Nghị ở nơi màn tướng, có tám người theo hầu là Hoàng Ích Hiểu 黃益曉, Nguyễn Quốc Ðống阮國棟, Lê Hân黎昕, Phạm Như Tùng范如松, Nguyễn Viết Triệu阮曰肇, Phạm Ðình Thiện范廷僐, Lê Văn Trương黎文張 và Lê Quí Thích黎貴適 thì chợt được tin bại trận đưa đến. Sĩ Nghị rút chạy. Nhà vua cũng cưỡi ngựa cùng đi với Sĩ Nghị lên phía Bắc. Riêng Viết Triệu cầm cương ngựa đi theo nhà vua. Nhà vua sai bọn Hoàng Ích Hiểu gấp về nội điện, hộ vệ thái hậu và nguyên tử vượt qua sông. Hoàng đệ Duy Chi維祗 hộ vệ bọn hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu gãy, không qua sông được, phải hướng về phía tây mà chạy trốn.” [CM II, XLVII (1998) tr. 847-8]

Ngày mồng 9 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [3-2-1789], Tôn Sĩ Nghị chạy được về đến Lạng Sơn qua Nam Quan trở về Quảng Tây. Suốt một tháng sau đó, quân Thanh thoát chết chạy được về theo báo cáo của quan nhà Thanh vào khoảng 8.000 người, còn số tử trận và mất tích khoảng hơn 5.000 tên.[281] Trong khi giao tranh, số lượng dân phu chết không phải là ít nhưng vì họ chỉ là thành phần được sử dụng tạm thời nên sinh mạng của họ không ai tính tới. Thanh triều chỉ ghi số binh sĩ chính qui bị giết, còn những giáo sĩ và sử sách của ta thì ghi cả dân phu. [Cung Trung Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380]

Tôn Sĩ Nghị khi về đến Quảng Tây, tự nhận mình đã không điều binh đúng phép khiến cho chiến dịch thất bại nên xin vua Càn Long cách chức trị tội nhưng chính vua Cao Tông đã phê trên tấu thư là “sao lại nói thế?” (何出此言 – hà xuất thử ngôn). Tôn Sĩ Nghị cũng xin một mình được bồi thường tất cả mấy chục vạn lượng bạc chi phí trong chiến dịch, [Chúng ta cũng không thể không dè dặt khi sách vở nước ta có khuynh hướng thổi phồng những gì không nắm vững, nghĩ rằng địch càng nhiều thì chiến thắng càng vinh quang mà quênđi những yếu tố thực tế như tổ chức quân sự của nhà Thanh, phương pháp điều động, tiếp liệu, trang bị của một đoàn quân chính qui.] vua Thanh cũng lại phê “việc gì đến nỗi thế?”. Tôn Sĩ Nghị trong dạ bất an nên tự ý giao lại bốn vạn lượng bạc cho Lưỡng Quảng quân doanh để đền bù phần nào tốn phí, quân trang, quân dụng, [nguyên văn 應由其一人賠補 – ứng do kỳ nhất nhân bồi bổ. Thực ra đến 1,346,508 lượng như đã viết ở trên nhưng chắc khi đó Tôn Sĩ Nghị chưa có những con số chính thức, tưởng chỉ tốn vài chục vạn lượng.] vua Cao Tông tuy bất đắc dĩ chấp thuận nhưng cũng phê rằng “việc này thôi cũng được để cho khanh đỡ mất mặt và cho được thoả lòng”. [Tôn Sĩ Nghị vẫn được liệt vào hàng “thanh liêm” trong đám vây cánh của Hoà Thân nhưng xem ra ông ta cũng không phải là “nghèo” như chúng ta tưởng.]

Vua Thanh chỉ thu hồi lại tước công và chiếc mũ có gắn hồng bảo thạch đã ban cho Tôn Sĩ Nghị nhưng vì uy tín họ Tôn đã bị suy sụp nên không thể nào tiếp tục để cho giữ chức vụ bèn ra lệnh triệu hồi về kinh, đặt dưới quyền điều động của bộ Binh, rồi cử Phúc Khang An làm tổng đốc Lưỡng Quảng đến Nam Quan tiếp tục giải quyết công việc.

Tổng số chi phí mà triều đình nhà Thanh đã tiêu vào cuộc chiến ở Việt Nam là 1,346,508 lượng bạc bao gồm tỉnh Quảng Tây chi ra 1,057,322 lượng và tỉnh Vân Nam chi ra 289,186 lượng. [Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 430] Trong những chiến dịch lớn mà vua Cao Tông tự hào, chiến dịch này là chiến dịch ít tốn phí hơn cả.

Theo tài liệu chính thức, đề đốc Hứa Thế Hanh許世亨, tổng binh Thượng Duy Thăng尚維昇, Trương Triều Long張朝龍, tham tướng Dương Hưng Long 楊興龍, Vương Tuyên王宣, Anh Lâm英林, phó tướng Hình Ðôn Hành邢敦行, du kích Minh Trụ明柱, Trương Thuần 張純, Vương Ðàn王檀, Lưu Việt劉越, đô ti Ðặng Vĩnh Lượng 鄧永亮, thủ bị Lê Chí Minh黎致明 đều tử trận.[Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380] Còn đạo quân Vân Nam bố trí từ biên giới đến Thăng Long hơn 30 trạm,[Về số đài trạm mà quân Thanh thiết lập từ Vân Nam theo tấu thư của Phú Cương thì từ Mã Bạch đến An Biên là 11 trạm, từ An Biên đến Tuyên Quang là 14 trạm, từ Tuyên Quang đến Thăng Long hơn 10 trạm. KDANKL, quyển XI, tr. 26] Ô Ðại Kinh rút về đến Tuyên Quang ngày mồng 9 tháng Giêng, sau đó theo cửa quan triệt hồi.

Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh sau khi nghe tin báo đại binh thất trận liền sai tham tướng Vương Lập Công王立功 đem 300 quân chạy xuống Lạng Sơn tiếp cứu những người chạy về, rồi trong hai ngày 10, 11 tháng Giêng [4/5-2-1789] chuyên chở số binh lương, thuốc súng còn để tại Lạng Sơn về nước.

Quân Thanh trước đây đã thiết lập 17 kho lương thực dọc theo đường từ Lạng Sơn xuống Thăng Long, bố trí 5,000 quân chia thành ba toán, 2,000 người ở lại phòng thủ Lạng Sơn, 1300 người chia ra canh gác 17 kho lương thực được thành lập dọc theo tuyến đường từ Lạng Sơn đến kinh đô, 1700 người khác chia ra canh phòng các nơi hiểm yếu.[Tôn Sĩ Nghị vốn dĩ định sau khi chiếm được Thăng Long rồi sẽ đem quân đánh vào Quảng Nam nên đã dự bị thủy lục hai mặt, quân thủy nửa tháng sau sẽ qua nhưng vì thuyền lớn qua không được mà cửa sông Nhĩ Hà thì quân ta đã chặn rồi nên ra lệnh cho đóng 40 chiến thuyền, đủ sức chở 2,000 quân, lập thêm 25, 26 trạm trên bộ cách nhau chừng 8, 90 dặm, ngoài ra còn xây thêm 53 trạm lương thực từ Thăng Long vào Phú Xuân. Tuy nhiên khi Tôn Sĩ Nghị bị thua ở Thăng Long thì những công tác này không thực hiện được.]

Tuy nhiên, các đài trạm dọc theo đường từ Lạng Sơn đến Thăng Long quân Thanh không di tản được. Hai viên quan phụ trách đài trạm là tri huyện Lăng Vân凌雲 Viên Thiên Quì袁天逵 và kinh lịch Trương Thành張誠 đều tử trận. [Cung Trung Ðáng, CCBVV, tấu triệp của Tôn Vĩnh Thanh đề ngày 14 tháng Giêng năm Càn Long 54. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380-1] Theo báo cáo của quan nhà Thanh thì chính họ đã đốt các kho lương thực và quân cụ nhưng chỉ là ngoa ngôn để che dấu việc bị quân Nam chiếm đoạt. Theo các giáo sĩ phương Tây, số lượng “chiến lợi phẩm” quân Tây Sơn thu được rất lớn.

Theo Lại Phúc Thuận thì:

“Ngày mồng 5 tháng Giêng năm Càn Long thứ 54 [30-1-1789] Lê thành bị thất hãm, Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt bỏ chạy, dẫn theo 500 quân qua sông, còn bao nhiêu bỏ lại bờ phía nam sông Phú Lương cho địch giết. Ngày mồng 9 tháng Giêng [3-2-1789], Tôn Sĩ Nghị chạy được về Lạng Sơn, thu hồi tàn binh. Ngày 11 lui vềđến Trấn Nam Quan. Khi trước Tôn Sĩ Nghị ở Lê thành quân số tổng cộng 5,700 người, thêm tổng binh Thượng Duy Thăng chỉ huy 3,000 người đóng ở bờ sông, tổng cộng 8,700 người, chạy về được đến Trấn Nam Quan hơn 3,000 người. Còn lại hơn 5,000, kể cả những người tử trận ở sông Thị Cầu và bệnh hoạn mà chết, thêm một số về sau chạy được trở về cửa ải. Cuối tháng Ba, tân nhiệm Lưỡng Quảng tổng đốc là Phúc Khang An báo cáo là ở Trấn Nam Quan mỗi ngày vẫn còn 3, 4 có khi 7, 8 người qua ải, phần lớn bệnh hoạn hoặc bị trọng thương.” [Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 145]

Số quân về được Trung Hoa không phải là đi cùng Tôn Sĩ Nghị mà là quân Thanh đóng dọc theo trục lộ và nhất là 2.000 quân đóng ở Lạng Sơn. Tuy về sau có nhiều đoàn quân lẻ tẻ chạy theo đường mòn, băng rừng vượt suối về lại Trung Hoa nhưng không phải đi theo Tôn Sĩ Nghị như ông ta đã báo cáo.

Cuộc chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu không phải là không đem đến những tổn thất cho quân ta. Tuy vua Quang Trung hết sức dấu kín tổn thất của bên mình nhưng quân ta cũng phải chết đến hàng vạn người và một số tướng lãnh tử trận, trong đó có cả một đô đốc được an táng rất trọng thể. Riêng trận Ngọc Hồi, theo sự ghi nhận của các giáo sĩ Tây phương đang ở Bắc Hà, bên ta thiệt hại ít ra cũng phải 8.000 người. [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr.208] Nguyễn Huệ sau khi đánh thắng quân Thanh, ông lập tức xúc tiến việc phòng thủ bằng cách bắt tất cả binh lính và dân chúng “xây một lũy đất dầy 6.6 m (20 feet), cao 3.6 m (12 feet) chung quanh điện của Chiêu Thống”, [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr.209] đồng thời sai Ngô Văn Sở đem truy binh đuổi theo nhưng bị địch đẩy lui. Ðây cũng là một câu hỏi cần được đặt ra vì theo các chi tiết từ sử liệu Trung Hoa, không có một trận đánh lớn nào xảy ra sau khi quân Thanh đã thua chạy và họ cũng không có đủ thời giờ hay phương tiện để ngăn chặn quân Nam. Số lượng quân Thanh đóng giữ tại các đài trạm cũng không nhiều, làm nhiệm vụ canh gác hơn là chiến đấu nên hầu như không nơi nào có điều kiện để chiến đấu mà chỉ mạnh ai nấy chạy khi nghe tin đại binh đã thua.

Nhiều chi tiết cho chúng ta một kết luận là chính vua Quang Trung không muốn đuổi tận giết tuyệt vì còn để một khoảng trống ngõ hầu tiến hành việc bang giao với nhà Thanh, một sứ mạng mà ông cho rằng quan trọng hơn một thắng lợi quân sự. Nguyễn Huệ đã có một kế hoạch “giữ thể diện” cho nhà Thanh trước khi ông tấn công nên hết sức tránh những động thái nào có vẻ như khiêu khích đối phương, và sau khi lấy lại Thăng Long rồi ông cũng cố gắng giảm thiểu việc truy sát. Theo những lời khai của tù binh và quân sĩ chạy về được, thái độ của quân Nam xem ra rất độ lượng trong việc đối xử cũng như tạo cơ hội cho họ khỏi mất mặt. Xem như thế, vua Quang Trung đã có một chính sách cụ thể và minh bạch ngay từ đầu về mục tiêu tái lập bang giao với Trung Hoa.

Dân chúng sống trong vùng biên giới ở nam Trung Hoa khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị đại bại, e ngại một cuộc tập kích tiếp theo nên cũng hoảng vía thu dọn tài sản chạy loạn. Về việc này, sử nước ta có phóng đại ít nhiều nhưng không phải là không có. Chính trong một mật chỉ của vua Càn Long gửi Phúc Khang An cũng có đề cập đến việc cử ông ta tới làm tổng đốc Lưỡng Quảng nhằm mục đích “trấn định nội địa nhất đái nhân tâm” [để làm yên lòng người một dải biên giới] [thượng dụ gửi Phúc Khang An. KDANKL, quyển XIII, tr. 29a]

Trong thời gian mấy tháng liền, vua Quang Trung đã phòng ngự cẩn mật đề phòng một cuộc đại chiến thứ hai và đến khi thấy việc thông hiếu với nhà Thanh đã hình thành, ông mới đem chiến lợi phẩm về Phú Xuân.

Theo Thanh Cao Tông thực lục thì trong bản văn tế “Xuất Sư An Nam Trận Vong Tướng Sĩ出師安南陣亡將士, liệt kê rõ như sau:

Nguyên văn:

乾隆五十五年十二月,是年,追予出師安南陣亡游擊蕭應得一員,都司虛文魁等六員,守備馮天輿等九員,千總楊赴龍等十四員,把總李世俊等十員,外委謝廷超等九十一員,額外外委關秀芳等十四員,漢士馬步兵丁李上通等六千八百七十六名,祭葬恤賞如例,俱入祀昭忠祠。 [Cao Tông thực lục, quyển 1369 (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1986) tr. 374 (trong sách đánh số nhầm là quyển 1370). Quách Chấn Phong, Trương Tiếu Mai, Việt Nam Thông Sử (2001) tr. 526]

Dịch âm:

Càn Long ngũ thập ngũ niên thập nhị nguyệt, thị niên, truy dư xuất sư An Nam trận vong: du kích Tiêu Ứng Ðắc nhất viên, đô ti Hư Văn Khôi đẳng lục viên, thủ bị Phùng Thiên Dư đẳng cửu viên, thiên tổng Dương Phó Long đẳng thập tứ viên, bả tổng Lý Thế Tuấn đẳng thập viên, ngoại uỷ Tạ Ðình Siêu đẳng cửu thập nhất viên, ngạch ngoại ngoại uỷ Quan Tú Phương đẳng thập tứ viên, Hán sĩ mã bộ binh đinh Lý Thượng Thông đẳng lục thiên bát bách thất thập lục danh, tế táng tuất thưởng như lệ, câu nhập tự Chiêu Trung Từ.

Dịch nghĩa:

Tháng Chạp năm Càn Long thứ 55 (1790) truy cứu những người chết trận trong chuyến đánh An Nam gồm có: một du kích là Tiêu Ứng Ðắc, sáu đô ti là bọn Hư Văn Khôi, 9 thủ bị là bọn Phùng Thiên Dư, 14 thiên tổng là bọn Dương Phó Long, 10 bả tổng là bọn Lý Thế Tuấn, 91 ngoại uỷ là bọn Tạ Ðình Siêu, 14 ngoại uỷ ngoại ngạch là bọn Quan Tú Phương, còn lại mã binh, bộ binh, quân sĩ là 6.876 người, theo lệ tế và chôn cất, thưởng tuất, tất cả đều được thờ trong Chiêu Trung Từ.

Theo qui chế nhà Thanh, gia đình những người tử trận được hưởng tiền tử tuất tính bằng ngân lượng [bạc tính theo lạng] như sau: đề đốc (800), tổng binh (700), phó tướng (600), tham tướng (500), du kích (400), đô ti (350), thủ bị (300), thủ ngự sở thiên tổng (250), vệ thiên tổng (200), doanh thiên tổng (150), bả tổng, ngoại uỷ (100), mã binh (70), bộ binh (50), hương dũng, thổ binh (25). [Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 409-10. Theo qui chế nhà Thanh dân phu bị chết trong chiến dịch này không được hưởng trợ cấp tử tuất, vừa để giảm thiểu chi phí cho triều đình, vừađể thu hẹp tổn thất. Ðó chính là chênh lệch trong hai cách tính của Việt và Thanh. Ðối với chúng ta, bất cứ người nào đi theo đoàn quân Tôn Sĩ Nghị thì đều là “quân Tàu”, không phân biệt. Ðây là điểm quan trọng cần lưu ý khi nói đến số quân Thanh sang đánh nước ta cũng như thiệt hại của họ.]

Ngoài ra còn khoảng gần 800 người bị bắt, tính ra quân Thanh (chính qui) tổn hại tổng số độ 8.000 người. Những con số trên đây không tính tới những thành phần tham chiến khác như quân Cần Vương của nhà Lê, các thổ binh, thổ hào, dân phu, và một số đông phu mỏ, Hoa kiều … có thể cũng bị giết trong khi giao chiến hay bị trả thù. Theo cách tổ chức quân đội và điều động nhân sự của nhà Thanh, trong những lần viễn chinh, số lượng dân phu sử dụng thường từ 3 đến 5 lần số quân hiện dịch. Riêng cánh quân Lưỡng Quảng, số dân phu điều động lên đến khoảng một chục vạn người nhưng có mặt tại trận địa lúc đó chắc ít hơn. Nếu cho rằng số dân phu bị chết ít ra cũng phải tương đương với số quân lính thì dân phu người Thanh thiệt hại khoảng một tới hai vạn. Con số dân phu tử thương này [phần lớn là các dân tộc thiểu số sống ở nam Trung Hoa và rừng núi biên giới Hoa – Việt] nhà Thanh bỏ lơ không nhắc đến mà bên nước ta thì cũng không muốn khơi ra nên số người Trung Hoa bỏ xác lại trên đất Việt vẫn chỉ là những ước đoán. [Theo một số tài liệu, xác người Thanh được gom lại chôn tập thể thành 12 gò ở ngoại ô Thăng Long. Tuy nhiên có lẽ đây chỉ là một phần nhỏ vì dù cho mỗi gò có khoảng 200 xác thì cũng chỉ độ hơn 2.000 người.]

Ðáng kể nhất phải là toán thổ binh Ðiền Châu của Sầm Nghi Ðống từ Quảng Tây và quân của châu Bảo Lạc là người thiểu số của nước ta từ biên giới xuống. Theo sử nhà Thanh thì một số đông dân phu mỏ (mà họ gọi là xưởng binh) là dân Trung Hoa lén trốn sang làm việc ở nước ta đã tự nguyện đi theo đoàn quân Thanh và thành phần này bị thiệt hại khá nặng. Theo các văn thư của nhà Thanh, số xưởng dân đi theo quân Thanh có đến mấy vạn người. Thành phần này vốn dĩ sống ngoài vòng pháp luật nên khi xuống Thăng Long quen thói cường đạo, nhũng nhiễu nên khi thua trận bị dân chúng tìm giết rất nhiều. Vì quen địa thế những người sống sót đã chạyđược về Tàu và được đặc ân không bị bắt tội và cho hồi tịch (theo luật nhà Thanh, những ai bỏ nước ra đi đều mang tội phản quốc và vì thế Thanh triều không can thiệp vào những vụ tàn sát Hoa kiều ở các nước Ðông Nam Á như trường hợp Gia Ðịnh …).

Nếu ước đoán như thế, tổng cộng số quân Thanh và đồng bọn chết trong chiến dịch này có thể lên đến trên dưới hai vạn người, mặc dù nhà Thanh chỉ đề cập đến thành phần chính qui của họ bị tổn thất [tức thành phần được hưởng tử tuất] vào khoảng trên dưới một vạn người mà thôi.

Một nhân vật hoàn toàn không còn được nhắc đến sau trận đánh đầu năm Kỷ Dậu là Lê Duy Cẩn, có lẽ cũng là một nạn nhân của trận chiến. Chúng ta chỉ biết rằng trước đây vua Cao Tông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị “truyền dụ cho Lê Duy Kỳ đem Lê Duy Cẩn giải sang nội địa [Trung Hoa] để an tháp”. Tuy nhiên Lê Duy Kỳ– có lẽ một phần vì tình đồng tộc [Lê Duy Cẩn là chú Lê Duy Kỳ] đã chống chế rằng “Lê Duy Cẩn là kẻ ngu si, dễ dàng quản thúc, hiện đã bị giám sát mọi cử động không thấy có điều gì khác lạ, trong tương lai nếu có chuyện gì đáng ngờ, lúc đó giam cấm nghiêm trị cũng còn kịp”.[Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 375] Như vậy, Lê Duy Cẩn đã cùng với một số đông tôn thất nhà Lê ra hàng khi quân Thanh tiến vào Thăng Long và sử sách chỉ thấy chép một số ít sau này nổi lên chống lại triều đình Tây Sơn ở các vùng rừng núi phía tây và thượng Lào nên có lẽ đã bị thất tung trong cơn binh lửa.

Về phần quân Nam, trong vai tấn công, đánh biển người, đánh thí mạng chắc chắn thiệt hại cũng không ít nhưng con số không được tính toán chính xác nên không rõ là bao nhiêu. Thành phần tân tuyển từ Thanh – Nghệ hẳn là đông hơn cả. Số binh lính đó về sau không biết ra sao, phần lớn phải tự tìm đường trở về nhà nhưng không ít người hoà nhập với dân ở ngoài bắc hoặc lần mò tới một số vùng đất tân bồi vùng duyên hải lập nghiệp, kiến tạo một số làng xã mới vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ MƯỜI LĂM

定北河平王受封, 戰宣光皇弟遇害.

Định Bắc Hà, Bình vương thụ phong; chiến Tuyên Quang, hoàng đệ ngộ hại.

[Bình định Bắc Hà, Bắc Bình Vương nhận thụ phong; trận chiến ở Tuyên Quang, em vua bị hại]

Lại nói, khi Tôn Tổng đốc chạy về phía Bắc, tình thế cấp bách, không kịp thu xếp gì cả. Đến vùng Phượng Nhãn, lại nghe tin tướng Tây Sơn là Đắc Lộc Hầu得祿侯 dẫn binh từ phía Đông đến, đã sắp chặn đường, lại một phen kinh hãi. Những gì mang theo đều vứt bỏ trên đường, chỉ giữ được thân mình thoát nạn. Do đó, tất cả sắc thư, cờ hiệu, ấn tướng mà Hoàng đế Thanh ban cho đều bị quân Tây Sơn thu được mang về.

Thì ra, mùa đông năm ngoái, Hoàng đế Thanh đã theo lời thỉnh cầu của Nghị, ban sắc lệnh điều binh ra cửa ải. Sau đó lại có chỉ dụ rằng cứ từ từ tiến quân, không cần vội vã, trước hết hãy truyền hịch văn để làm thanh thế, rồi thả các quan nhà Lê về nước, tập hợp nghĩa binh, tìm dòng dõi nhà Lê cho họ ra mặt, đối địch với Nguyễn Quang Trung, xem tình thế ra sao.

Nếu lòng dân An Nam quả thực vẫn còn muốn ủng hộ họ Lê, khi thiên binh của ta đến, ai mà không hăng hái tự nguyện giúp sức, Quang Trung ắt sẽ phải rút lui. Khi đó, cứ để dòng dõi họ Lê đi trước truy kích, đại binh ta theo sau, thì không tốn công sức mà thành công, đó là thượng sách.

Nếu cả nước chia làm hai phe, mỗi bên một nửa, Quang Trung ắt sẽ không chịu lui. Tạm thời cứ viết thư, tuyên bố rõ họa phúc, xem hắn ta thế nào. Đợi khi thủy quân Mân, Quảng của ta ra biển, tấn công Thuận Hóa trước, rồi bộ binh sẽ tiến lên. Quang Trung bị giáp công cả trước lẫn sau, thế tất phải chịu phục. Ta nhân đó giữ lại cả hai bên: Thuận Quảng trở xuống thì cho Quang Trung ở; Hoan [Châu] Ái [Châu] trở lên thì phong cho dòng dõi họ Lê. Rồi đóng đại binh ở nước đó để từ xa khống chế, sau này sẽ có cách xử lý khác. Đến khi đại binh của Tôn Sĩ Nghị xuất quan, nghe tin quân Tây Sơn đã rút lui, liền chỉnh quân thẳng tiến đến thành Thăng Long đóng quân, không hề đề phòng. Do đó, đã thảm bại hoàn toàn.

Đất nước nhà Thanh đã thái bình lâu ngày, dân chúng không biết đến chiến tranh, thấy Tôn Sĩ Nghị thảm hại chạy về, lòng người hoảng sợ. Tiếp đó, lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi đến ranh giới Lạng Sơn, có lời đồn rằng họ giết sạch quân Hung Nô, quân Di (sắc dân thiểu số Trung Quốc). Vì thế, nội địa đại chấn động, từ cửa ải trở về phía Bắc, nam nữ người Thanh dắt díu nhau chạy trốn, hàng trăm dặm không một bóng người. Việc này tâu lên, vua Thanh đại nộ, liền hạ chiếu, sai Nội các đại thần Phúc Khang An福隆安 làm Lưỡng Quảng Tổng đốc, thống lĩnh binh mã chín tỉnh, để đi kinh lý việc An Nam, còn triệu Tôn Sĩ Nghị về kinh chịu tội.

Nói về việc Bắc Bình Vương sau khi đã phá tan quân Thanh, bèn chiếm giữ thành Thăng Long. Liền hạ lệnh chiêu an, phàm những người Thanh bỏ chạy, đều lệnh cho đến đầu thú, nhân dân không được che giấu. Trong mười ngày, đã thu được hàng vạn người, tất cả đều được cấp phát áo quần và lương thực. Lại thu được chiếu thư và ấn tín quân đội do [Tôn Sĩ] Nghị bỏ lại, bèn cho Ngô Thì Nhậm xem mà nói rằng:

- Ta xem chiếu thư của vua Thanh, chẳng qua cũng chỉ coi mạnh yếu mà theo thôi. Cái gọi là 'giữ Lê, việc nghĩa', chẳng phải là thật lòng, chỉ là mượn cớ đó mà thực ra là mưu lợi cho mình. Nay đã bị ta đánh bại, nhịn thì cho là sỉ nhục, báo thù thì cũng khó khăn. Phàm quân lính tan rã mà ta bắt được, nên đều cấp lương ăn, rồi đưa hết đến cửa ải. Khanh vốn giỏi lời lẽ, nên lập tức viết thư gửi cho họ, nói rõ rằng:

“Ta là tiểu phiên, một lòng cung thuận, kính sợ trời lớn, sao dám có ý khác? Trước đây đã có biểu văn trình lên, nhưng bị Tôn đại nhân ngăn chặn, không thể đạt tới triều đình. Gần đây từ phương Nam đến, vốn định cùng Tôn đại nhân biện bạch chân tình, không ngờ tin đồn lan rộng, thanh thế lớn lên, mọi người đều kinh hãi nghi ngờ, tự bỏ quân chạy trước, cầu phao lại đứt. Khiến cho thiên binh chìm xuống, những người tranh nhau chạy đường, tự giẫm đạp lên nhau, nhiều người chết và bị thương. Việc này thực sự là do Tôn đại nhân mà ra, chứ không phải tội tiểu phiên dám giao chiến. Nay đã thu nhận hàng vạn quân lính tan rã, và đã tra rõ danh tính, cấp lương đến cửa ải, lập sổ sách để trình nạp.”

Thế là Ngô Thì Nhậm liền viết thư, sai người phi ngựa. Lệnh cho thổ mục Lạng Sơn, từ cửa ải gửi đi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760429019799.png

Tranh vẽ Nguyễn Huệ cử Nguyễn Quang Hiển sang nhà Thanh xin hòa

[阮惠遣阮光显向清朝请和]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nói về Tân Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An, vốn là người Mãn Châu滿州 thuộc Tương Hoàng Kỳ鑲黃旗, nhờ được hưởng ơn tập ấm mà lên đến chức cao, được vua Thanh tin dùng, nên giao phó việc giải quyết công việc phía Nam. Khi ông ta đến nơi nhậm chức Tổng đốc thay thế [Tôn Sĩ] Nghị, ông ta đã cưỡi trạm ngựa đến phủ Quảng Tây và tận mắt thấy [Tôn Sĩ] Nghị chỉ có một mình chạy về. Lại nghe tin thế lực của Bắc Bình Vương mạnh mẽ, không khỏi ngần ngại, sợ hãi. Đến khi nhận được thư từ biên giới, ông ta liền vững dạ, tự mình gánh vác việc miền Nam, ngầm nói với Vương phân phủ ở Thái Bình rằng:

- Hai bên ngừng chiến, đó là phúc của muôn dân, mà thực sự là đại may mắn cho các quan lại ở biên cương! Ta nghe nói ở nước Nam có quan văn là Ngô Thì Nhậm, từ trước đến nay các thư từ đều do tay ông ta viết. Ông có thể viết thư trả lời, để ông ta chuyên lo việc hòa nghị, khẩn trương thảo biểu tạ ơn rồi gửi đi. Ta làm chủ nội bộ, việc gì cũng sẽ thành công.

Vương phân phủ ra ngoài, lập tức chuyển công văn cho Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Nhậm đem việc ấy tâu với Bắc Bình Vương. Bắc Bình Vương tuy đã định được Bắc Hà, nhưng phía Nam vẫn còn nội loạn, đang muốn nhanh chóng rút quân về, bèn họp các tướng lĩnh lại nói:

- Việc quân ở Bắc Hà, ta giao cho Văn Sở (Ngô Văn Sở) và Văn Lân (Phan Văn Lân); sứ mệnh với Trung Quốc, ta giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Ích. Mọi việc đều tùy cơ ứng biến mà xử lý. Ta sẽ trở về, những việc không quan trọng, không cần phải qua lại tâu báo.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760429139819.png

Chân dung Phúc Khang An
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thế là, Bắc Bình Vương dẫn quân về phía Nam, để Ngô Văn Sở tổng quản các công việc quân quốc, còn Ngô Thì Nhậm chủ trì các việc ở phía Bắc, phối hợp ăn ý với Vương phân phủ của triều Thanh ở biên giới. Bên ngoài có Phúc Khang An tấu trình, bên trong có Đại học sĩ Hòa Thân和珅 làm chủ trương. Hòa Thân là người Mãn Châu thuộc Hoàng Kỳ黃旗, từ chỗ là ấm sinh mà vào nội các, cùng với Phúc Khang An quản lý Phiên viện. Phúc Khang An gửi thư cho Ngô Thì Nhậm, chỉ cách dùng tiền vàng để hối lộ Hòa Thân. Hòa Thân liền tấu xin bãi binh, và phong vương cho Quang Trung, đừng gây thêm việc biên giới để tốn kém của cải Trung Quốc. Lại nói rằng từ xưa đến nay, chưa từng có ai đắc chí ở vùng đất man di phương Nam. Nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh đều cuối cùng bị thất bại, tấm gương đó không xa. Vua Thanh cho là phải, bèn một lòng chủ trương giảng hòa. Hòa Thân và những người khác đều đón ý vua, không ai không hợp ý. Vua Thanh rất vui, liền ban chiếu thư khen ngợi.

Thế là, Phúc Khang An báo cho Ngô Thì Nhậm, thúc giục ông ta soạn thảo biểu tạ ơn, trong đó kèm theo lời trình bày rằng:

"Nước thần đã đến kỳ cống, theo lệ phải kính cẩn cử bồi thần mang đến. Nhưng tiểu phiên thần vẫn đang tạm quyền giải quyết việc nước, không dám tự tiện hành động, e rằng không hợp thể lệ, mà cứ bình thản bỏ bê thì trong lòng cuối cùng cũng không yên. Cống phẩm và bồi thần đã sẵn sàng chờ đợi ở cửa ải, kính mong định đoạt. Không dám không lo sợ mà chờ mệnh chỉ."

Phúc Khang An nhận được biểu tạ ơn, liền sai ngựa trạm chuyển đến Yên Kinh, Hòa Thân đem biểu tấu trình. Vua Thanh xem xong rất vui, hạ chiếu cho phép bồi thần Vũ Huy Tấn武輝瑨, Ngô Vi Quý吳為貴, Nguyễn Đình Cử阮廷舉 v.v. qua ải, vào thành Quế Lâm桂林城 chờ đợi; và cử sứ giả đến sắc phong Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, ban thưởng rất hậu, cống phẩm vẫn nhận như cũ. Sau đó lại hạ chỉ, triệu Quốc Vương vào chầu.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
-----------------

[Sau thất bại của Tôn Sĩ Nghị, nhà Thanh dẫu muốn tiến đánh nước ta một lần nữa, tình thế không chắc đã hơn những chiến dịch chinh phục Miến Điện (có thể còn vất vả hơn), chi phí nặng nề mà mối lợi chưa thấy đâu cả. Chính vì lẽ đó, ngay từ đầu, sau khi lượng giá tình hình, đình thần nhà Thanh đều “chủ hòa”. Sau khi Tôn Sĩ Nghị bị triệu hồi về kinh, tình hình giữa hai bên bớt căng thẳng, nhà Thanh lập tức thay đổi thái độ nên việc phong vương cho vua Quang Trung trở thành một nghi lễ cần thiết, một phần để vua Càn Long chữa thẹn cho chính mình, một phần chính vì Trung Hoa muốn tuyên oai vương đức cho các chư hầu biết là phương nam đã thần phục hầu khỏa lấp chiến thắng quân sự vang dội của Đại Việt.

Trước đây, nước ta thường chỉ ở vai trò phiên thuộc bậc hai, có khi còn thấp hơn nữa. Đời Mạc và Lê trung hưng, vua ta chỉ được phong làm An Nam đô thống sứ, kèo nài mãi mới được phong An Nam quốc vương. Người Tàu lại luôn luôn dùng nghi lễ phong vương như một cơ hội để hống hách, doạ nạt mà triều đình nước ta luôn luôn phải nhịn. [xem: Hoa Bằng: Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc 1788-1792, (Saigon: Thư Lâm, 1958)]

Phúc Khang An khi vừa đáo nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng liền tâu lên:

Nguyên văn:

…該國地方,南北三千里,東西二天里,程站既多,則師行難速,而彼中四時氣候,惟冬季三月,瘴癘不作,其餘春夏秋三季,則毒霧淫霖,不可觸染,與緬甸無異。若興師大舉,必須於十月進兵,十二月奏捷,次年正月班師,方為萬全無患,然軍旅之事,豈能剋定時日,倘此三月內不能蕆事,則一交春令,瘴氣大作,撤兵則前功盡棄,留兵則傷亡必多,是安南之不必用兵,非因地利不便,人事不協,總以天時限之。 歷代以來,迄無成功,職此之故,今阮惠因與黎氏為仇,以致勞我師,徒靡我糧餉。乃大兵進關未久,該酋屢次乞降,明係抗拒於前,輸款於後,形跡之間,轉旅窒碍。閲其表文,內稱西山布衣,明其並非竊據人國,復云跡似抗衡,明其不敢得罪於天朝。 但其措辭含糊推諉,並未將實非抗拒之處,明晰剖白,此時若遽淮其所請,恐該酋驕詐性成,轉豈輕易中華之漸。 [Hồ Bạch Thảo (dịch): Cao Tông thực lục (New Jersey, 2004)]

Phiên âm:

… Cai quốc địa phương, nam bắc tam thiên lý, đông tây nhị thiên lý, trình trạm ký đa, tắc sư hành nan tốc, nhi bỉ trung tứ thời khí hậu, duy đông quí tam nguyệt, chướng lệ bất tác, kỳ dư xuân hạ thu tam quí, tắc độc vụ dâm lâm, bất khả xúc nhiễm, dữ Miến Điện vô dị. Nhược hưng sư đại cử, tất tu ư thập nguyệt tiến binh, thập nhị nguyện tấu tiệp, thứ niên chính nguyệt ban sư, phương ư vạn toàn vô hoạn, nhiên quân lữ chi sự, khởi năng khắc định thời nhật, thảng thử tam nguyệt nội bất năng siển sự, tắc nhất giao xuân lệnh, chướng khí đại tác, triệt binh tắc tiền công tận khí, lưu binh tắc thương vong tất đa, thị An Nam chi bất tất dụng binh, phi nhân địa lợi bất tiện, nhân sự bất hiệp, tổng dĩ thiên thời hạn chi.

Lịch đại dĩ lai, ngật vô thành công, chức thử chi cố, kim Nguyễn Huệ nhân dữ Lê thị vi cừu, dĩ chí lao ngã sư, đồ mi ngã lương hướng. Nãi đại binh tiến quan vị cửu, cai tù lũ thứ khất hàng, minh hệ kháng cự ư tiền, thâu khoản ư hậu, hình tích chi gian, chuyển lữ trất ngại. Duyệt kỳ biểu văn, nội xưng Tây Sơn bố y, minh kỳ tịnh phi thiết cứ nhân quốc, phục vân tích tự kháng hành, minh kỳ bất cảm đắc tội ư thiên triều.

Đãn kỳ thố từ hàm hồ thôi ủy, tịnh vị tương thực phi kháng cự chi xứ, minh tích phẫu bạch, thử thời nhược cự hoài kỳ sở thỉnh, khủng cai tù kiêu trá tính thành, chuyển khởi khinh dị Trung Hoa chi tiệm …

Dịch nghĩa:



“… Địa phương nước này (tức nước ta), từ bắc xuống nam ba nghìn dặm, từ đông sang tây hai nghìn dặm, chặng đường phải nhiều, việc kéo quân đi khó mà có thể nhanh được, huống chi nơi đó khí hậu bốn mùa, chỉ có ba tháng mùa đông, chướng lệ không nổi lên, còn ba mùa xuân, hạ, thu kia, đều có sương độc mù mịt, không thể nhiễm được, chẳng khác gì Miến Điện.

Nếu như kéo đại quân qua, thì ắt phải tiến binh vào tháng mười, tháng mười hai phải thắng, tháng giêng năm sau trở về, có thế mới vạn toàn không nguy hiểm. Khổ nỗi việc quân lữ, đâu có thể nào định trước thời gian, nếu như trong ba tháng việc chưa xong, đến mùa xuân rồi, chướng khí bùng lên, nếu triệt binh thì công lao từ trước coi như bỏ đi, lưu binh thì thương vong hẳn lớn. Thành thử chẳng nên dụng binh đất An Nam, không những địa lợi không tiện, nhân sự không hợp, mà chính vì thiên thời có giới hạn.

Từ xưa đến nay, chưa bao giờ thành công cũng là vì lẽ đó, hiện nay Nguyễn Huệ có thù với họ Lê, khiến phải lao khổ đến binh lính chúng ta, phí tổn lương hướng. Thế nhưng đại binh tiến quan chưa bao lâu, gã tù (trưởng) kia mấy lần xin hàng, rõ ràng là trước khi kháng cự, (cũng như) sau khi thua (?) trận, lúc nào cũng tỏ vẻ sợ hãi. Xem biểu văn thấy trong đó y xưng là kẻ áo vải đất Tây Sơn, rõ ràng không có ý chiếm nước của người khác, cũng không có ý chống lại, đủ biết không dám đắc tội với thiên triều.

Thế nhưng lời của y cũng vẫn còn mù mờ, chưa hẳn có thực không kháng cự hay chăng, cần phải phân biện rạch ròi, còn như như y xin đã cho ngay, e rằng gã tù trưởng này kiêu ngạo, gian dối đã quen, dần dà lại đâm coi thường cả Trung Hoa …”


Theo sử nhà Thanh, một mặt Phúc Khang An nhờ Ô Đại Kinh đưa thư hăm dọa, một mặt điều quân đến Trấn Nam Quan phòng ngự quân Tây Sơn tấn công qua. Quả thực sau trận chiến đầu năm Kỷ Dậu, tình hình giữa hai quốc gia rất căng thẳng, vua Quang Trung cũng chưa dám rút quân về Phú Xuân và vẫn còn trong tình trạng củng cố lực lượng để đề phòng quân Thanh mở một cuộc tấn công kế tiếp. Ông đã tích cực cho đắp một ‘thành lũy bằng đất quanh điện vua Lê, dày 20 piê (bộ)” trong ba ngày ba đêm liền [Nguyễn Nhã: Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự (Một Vài Sử Liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Cali: Đại Nam 1992) tr. 105]. Ngoài ra ông còn bố trí những đạo quân từ Thăng Long dọc lên biên giới khiến dân chúng hoang mang và việc quân Thanh tập trung ở Trấn Nam Quan cũng tạo nên mối kinh hoàng cho dân cư ở khu vực này. Nhiều người sợ vạ lây nên đã tìm cách tránh khỏi vùng lửa đạn. Hai bên “giữ miếng” như thế nhiều tháng trời cho tới khi Trung Hoa công nhận triều đình Quang Trung và xúc tiến những thủ tục phong vương. Trong nhiều tháng trời, hai sứ thần của ta là Nguyễn Hữu Chu (Trù) và Vũ Huy Tấn (Phác) phải chạy đi chạy lại từ Thăng Long lên Lạng Sơn đến bảy lần rất vất vả.

Hai bên qua lại, sau cùng Thang Hùng Nghiệp nhượng bộ, thấy quả nước ta có ý cầu hòa nên bằng lòng để Nguyễn Hữu Chu về tâu lại với vua Quang Trung diễn tiến đàm phán còn Vũ Huy Tấn ở lại quán dịch tiếp tục thương thảo.

Nhà Thanh thấy tình hình bắt đầu hòa hoãn, không khỏi đưa thêm một số vấn đề trong tiến trình nghị hòa trong đó nhấn mạnh hai điều kiện, một là trao trả lại những người đã bị quân ta bắt được trong trận đánh, hai là giao lại phần đất mà trước đây vua Ung Chính đã trả lại cho nước ta. Trong một thời gian vài chục năm hồi đầu thế kỷ 18, nhà Thanh đã chiếm của Đại Việt một số đất lấy sông Đổ Chú賭咒 để phân chia ranh giới.

Nguyên đời Lê Gia Tông, Vũ Công Tuấn làm phản ở Tuyên Quang bị triều đình đánh đuổi chạy sang Tàu, đem ba châu của nước ta (Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thủy Vĩ) xin sáp nhập vào tỉnh Vân Nam để nhờ nhà Thanh che chở, trong đó có cả mỏ đồng Tụ Long thuộc châu Vị Xuyên. Nước ta nhiều lần đòi lại nhưng Thanh triều không chịu trả. Đến năm 1728, sau khi quân Việt đánh lui được đạo quân Vân – Quí tràn qua để bảo hộ mỏ đồng, vua Ung Chính đành phải nhượng bộ trả lại 40 dặm cho Đại Việt [Quốc Sử Quán triều Nguyễn: Đại Nam Nhất Thống Chí (Phạm Trọng Điềm dịch) (Huế: nxb Thuận Hoá, 1997) tập 4 tr. 334-5]. Nhân dịp vua Quang Trung xin phong vương, Thanh triều đã kèm theo như một điều kiện phụ nhưng sứ bộ Đại Việt đã gạt đi không chấp thuận.

Cuộc chiến tranh ngoại giao đó mỗi bên nhìn một khác, bên nào cũng cho rằng mình chiếm được thượng phong so với bên kia. Dù muốn dù không, vua Quang Trung cũng còn nhiều vấn đề nội bộ chưa giải quyết xong, việc được nhà Thanh công nhận làm An Nam quốc vương sẽ là một thắng lợi lớn, ít nhất cũng khuất phục được những người dân Bắc Hà khi đó chưa biết phải theo bên nào cho phải, đồng thời củng cố được vị thế để tiến hành những bước kế tiếp, loại trừ những thế lực thù nghịch.

Trong cuộc đấu tranh ngoại giao ấy, tuy phải lúc cứng, lúc mềm Nguyễn Huệ đã có những biến chuyển rõ rệt. Trước đây, khi hành sử vai trò một tướng lãnh, ông tuy xuất sắc trong nhiệm vụ quân sự, song việc hành chánh và chính trị lắm khi thiếu uyển chuyển. Điều đó cũng dễ hiểu vì bản thân ông và những cận thần đều là võ tướng, đa số thuộc hàng thảo mãng, chủ yếu là những đầu lãnh trước kia theo anh em ông khi còn ở Tây Sơn, hoặc những người có liên hệ thân thích, gần xa ở Qui Nhơn. Đến lúc này, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rằng muốn tiến xa hơn, ông phải thoát xác để thành một vì vua sáng nghiệp mà việc đầu tiên là thu phục được thành phần sĩ phu, thiết lập được bộ máy hành chánh để dần dần thay thế đám tướng lãnh đang nắm quyền tại địa phương.

Bên trong việc bang giao Hoa Việt thời kỳ đó chắc chắn còn nhiều vấn đề mà chúng ta không thể biết hết nhưng tựu trung vua Càn Long đã có một kế hoạch từ trước, đưa Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị vừa để tạo một sức ép về quân sự, vừa chỉ định một con người ngoại giao đứng ra để đàm phán với Đại Việt. Đối chiếu bài biểu dưới đây với di cảo qua lại mà nay còn giữ được, ta thấy vua Quang Trung đã khôn khéo loại bỏ hết những đoạn có tính chất khiêu khích, hạch tội đối phương.

Xét về văn chương cũng như ngoại giao, bản văn cầu phong của vua Quang Trung không hạ mình mà cũng không hợm hĩnh, thích hợp hơn với thực tế để làm dịu xuống một tình trạng đang căng thẳng. Chướng ngại trong giao thiệp Việt Hoa là Tôn Sĩ Nghị thì lúc này không còn tại chức, và mục tiêu của vua Quang Trung là muốn yên một bề, vừa tránh được việc can qua với Thanh triều để tập trung đối phó với những kẻ thù ở phía tây và phía nam, vừa chính thống hóa vai trò của mình với dân chúng xứ Bắc Hà. Lẽ dĩ nhiên bên cạnh việc đàm phán, vua Quang Trung cũng không quên tiếp xúc với các đại thần và những người thân tín của vua Càn Long nhưng đó không phải là lý do chính mà nhà Thanh chấp nhận phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.]

----------------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngô Thì Nhậm bèn chọn Nguyễn Quang Trị阮光值, một quân hiệu người Mạc Điền幕田, Nam Đường南塘, Nghệ An乂安, dung mạo đoan chính, giả làm Quốc Vương. Ngô Văn Sở làm võ trọng thần武重臣, Phan Huy Ích làm văn trọng thần文重臣, Đô đốc Nguyễn Duật阮聿 làm hộ thị, Vũ Huy Tấn làm từ thần, hộ tống "Quốc Vương" như lệ trình diện quan chức nhà Thanh. Lại tiến cống hai con voi đực. Người Thanh dọc đường tiếp đón vất vả, trong ngoài đều biết là giả nhưng không ai dám nói. Đến khi vào kinh, vua Thanh rất đỗi vui mừng, cho rằng đó là Quang Trung thật, khi vào chầu, còn ban cho ngồi đồng yến với các thân vương. Lại ban thêm ân huệ, kéo lại ôm gối [nguyên văn 抱膝 bão tất; hiện nay đang có tranh cãi đây là lễ Bão Tất hay Bão Kiến抱見, đây có lẽ tác giả viết dưới thời Nguyễn, chịu ảnh hưởng nhà Nguyễn nên bôi nhọ Quang Trung] thân thiết như cha con trong nhà. Đến khi bái tạ về nước, liền sai thợ vẽ truyền thần và ban tặng. Ân lễ long trọng hậu hĩnh, thực là một điều hiếm có ngàn đời.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,160 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760429405642.png

Chân dung Hòa Thân
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top