[phần bổ xung của người dịch:
Cái nghi lễ sách này gọi là “ôm gối” (bão tất lễ抱膝) thực ra là “bão kiến thỉnh an” 抱見請安 (ôm lưng áp mặt) hết sức tôn quí của nhà Thanh. Từ trước đến nay, hầu như mọi người đều có ấn tượng rõ rệt là triều đại Quang Trung, một “giả vương” của nước ta đã sang Bắc Kinh làm một lễ rất nhẹ thể gọi là “lễ ôm gối” (bão tất lễ) vua Càn Long. Hai chữ ôm gối không khỏi khiến chúng ta hình dung những động từ tương cận như ôm chân, bợ đỡ, quị luỵ …
Tra lại các văn bản [gốc] của chính nước ta, từ các thư từ của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích gửi sang Bắc Kinh đến văn bản trong tài liệu gốc của nhà Thanh thì rõ ràng đây là một chỉnh sửa cố ý của sách, muốn hạ thấp đối phương, chỉ xuất hiện sau khi triều đại Tây Sơn đã diệt vong hơn 30 năm, càng rõ ràng hơn khi chúng ta biết được rằng chính vua Minh Mạng nhà Nguyễn đã đặt ra một nghi lễ mà ông đặt tên là “ôm gối” dành cho tướng lãnh thắng trận vào chầu với kiểu cách và nghi thức hoàn toàn khác hẳn. Cũng chính vua Minh Mạng đặt ra một thể thức mới là “ban ngự tửu” cho tướng lãnh. Hai nghi thức, ôm gối và ban rượu của triều Nguyễn đều vay mượn từ nghi lễ của nhà Thanh nhưng không nhằm mục đích vinh danh bầy tôi như cách thức của người Mãn Châu (bão kiến thỉnh an và ban rượu là cách Đại Hãn tiếp đón và chia sẻ với tướng lãnh khi thắng trận trở về trong thời tiết giá rét vốn là tục lệ của người du mục) mà chỉ xuất hiện trong lịch sử nước ta từ năm Minh Mạng 16 (Ất Mùi, 1835) do “chính vua Minh Mạng đặt ra”.
Thế còn lễ bão kiến thỉnh an của nhà Thanh thì như thế nào?
Theo Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng q. XV (Đáng Án xbx, 1991) tr. 411 – 412 thì:
“… Nguyễn Quang Bình nhận được phong tước cùng nhiều ơn lớn liên tiếp, năm nay sẽ lên cung khuyết chúc thọ chiêm cận, thực quả xuất từ dạ chí thành, đợi khi quốc vương đó đến kinh đô sẽ ra lệnh thi hành bão kiến lễ抱見禮 để tỏ sự ưu đãi khác thường đồng thời ra lệnh cho quân cơ đại thần diễn tập lễ nghi trước một ngày.
Vì quốc vương kia lần đầu nhập cận, chưa am tường lễ chế thiên triều, sau khi tiến quan rồi Phúc Khang An hãy nói cho biết lần này tiến kinh chúc hỗ, đại hoàng đế rất là khen ngợi nên khi quốc vương đến kinh đô triều kiến, đại hoàng đế ra lệnh cho quốc vương làm lễ bão kiến thỉnh an, ấy là thi ân vượt mức, chỉ đại thần của thiên triều có công lao to lớn trứ danh mới được hưởng phần thưởng đặc biệt này, còn lại dù là thân quí cũng khó mà được.
Từ trước tới giờ chỉ có công tước Triệu Huệ 趙惠 tướng quân bình định Hồi bộ, công tước A Quế阿桂 bình định Kim Xuyên khi đại công cáo thành, thắng trận trở về nhập cận, đại hoàng đế khao thưởng tướng sĩ mới ra lệnh cho Triệu Huệ, A Quế làm lễ bão kiến, vậy mà hôm nay quốc vương được thưởng cho đại lễ long trọng này quả là sủng vinh hi hữu …”
Về hình thức, bão kiến thỉnh an vốn là đại lễ mà Đại hãn vùng du mục tiếp đón tiểu hãn. Đại hãn thiết lập lều vàng (hoàng ác) là một loại cung điện di động ở thảo nguyên. Khi tiểu hãn đến nơi, đại hãn bước ra khỏi lều vàng, hai người ôm lưng áp mặt hết sức thân mật tôn quí rồi đi bộ trở về lều cùng tướng lãnh yến ẩm, khác hẳn lối “đi bằng đầu gối, ôm chân vua …” của nhà Nguyễn.
Sự nhập nhằng về cả danh xưng lẫn hình thức nhằm xoá đi những vinh dự của triều đại trước trong ngoại giao với phương bắc đã gây ra những ngộ nhận làm lệch hướng toàn bộ lịch sử. Khi những nghi lễ đó bị “dung tục hoá”, cách nhìn của quần chúng về triều đình Tây Sơn cũng đi theo, củng cố cho cái thuyết “giả vương” sang Trung Hoa mà đến nay vẫn còn nhiều người tin tưởng.]
Cái nghi lễ sách này gọi là “ôm gối” (bão tất lễ抱膝) thực ra là “bão kiến thỉnh an” 抱見請安 (ôm lưng áp mặt) hết sức tôn quí của nhà Thanh. Từ trước đến nay, hầu như mọi người đều có ấn tượng rõ rệt là triều đại Quang Trung, một “giả vương” của nước ta đã sang Bắc Kinh làm một lễ rất nhẹ thể gọi là “lễ ôm gối” (bão tất lễ) vua Càn Long. Hai chữ ôm gối không khỏi khiến chúng ta hình dung những động từ tương cận như ôm chân, bợ đỡ, quị luỵ …
Tra lại các văn bản [gốc] của chính nước ta, từ các thư từ của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích gửi sang Bắc Kinh đến văn bản trong tài liệu gốc của nhà Thanh thì rõ ràng đây là một chỉnh sửa cố ý của sách, muốn hạ thấp đối phương, chỉ xuất hiện sau khi triều đại Tây Sơn đã diệt vong hơn 30 năm, càng rõ ràng hơn khi chúng ta biết được rằng chính vua Minh Mạng nhà Nguyễn đã đặt ra một nghi lễ mà ông đặt tên là “ôm gối” dành cho tướng lãnh thắng trận vào chầu với kiểu cách và nghi thức hoàn toàn khác hẳn. Cũng chính vua Minh Mạng đặt ra một thể thức mới là “ban ngự tửu” cho tướng lãnh. Hai nghi thức, ôm gối và ban rượu của triều Nguyễn đều vay mượn từ nghi lễ của nhà Thanh nhưng không nhằm mục đích vinh danh bầy tôi như cách thức của người Mãn Châu (bão kiến thỉnh an và ban rượu là cách Đại Hãn tiếp đón và chia sẻ với tướng lãnh khi thắng trận trở về trong thời tiết giá rét vốn là tục lệ của người du mục) mà chỉ xuất hiện trong lịch sử nước ta từ năm Minh Mạng 16 (Ất Mùi, 1835) do “chính vua Minh Mạng đặt ra”.
Thế còn lễ bão kiến thỉnh an của nhà Thanh thì như thế nào?
Theo Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng q. XV (Đáng Án xbx, 1991) tr. 411 – 412 thì:
“… Nguyễn Quang Bình nhận được phong tước cùng nhiều ơn lớn liên tiếp, năm nay sẽ lên cung khuyết chúc thọ chiêm cận, thực quả xuất từ dạ chí thành, đợi khi quốc vương đó đến kinh đô sẽ ra lệnh thi hành bão kiến lễ抱見禮 để tỏ sự ưu đãi khác thường đồng thời ra lệnh cho quân cơ đại thần diễn tập lễ nghi trước một ngày.
Vì quốc vương kia lần đầu nhập cận, chưa am tường lễ chế thiên triều, sau khi tiến quan rồi Phúc Khang An hãy nói cho biết lần này tiến kinh chúc hỗ, đại hoàng đế rất là khen ngợi nên khi quốc vương đến kinh đô triều kiến, đại hoàng đế ra lệnh cho quốc vương làm lễ bão kiến thỉnh an, ấy là thi ân vượt mức, chỉ đại thần của thiên triều có công lao to lớn trứ danh mới được hưởng phần thưởng đặc biệt này, còn lại dù là thân quí cũng khó mà được.
Từ trước tới giờ chỉ có công tước Triệu Huệ 趙惠 tướng quân bình định Hồi bộ, công tước A Quế阿桂 bình định Kim Xuyên khi đại công cáo thành, thắng trận trở về nhập cận, đại hoàng đế khao thưởng tướng sĩ mới ra lệnh cho Triệu Huệ, A Quế làm lễ bão kiến, vậy mà hôm nay quốc vương được thưởng cho đại lễ long trọng này quả là sủng vinh hi hữu …”
Về hình thức, bão kiến thỉnh an vốn là đại lễ mà Đại hãn vùng du mục tiếp đón tiểu hãn. Đại hãn thiết lập lều vàng (hoàng ác) là một loại cung điện di động ở thảo nguyên. Khi tiểu hãn đến nơi, đại hãn bước ra khỏi lều vàng, hai người ôm lưng áp mặt hết sức thân mật tôn quí rồi đi bộ trở về lều cùng tướng lãnh yến ẩm, khác hẳn lối “đi bằng đầu gối, ôm chân vua …” của nhà Nguyễn.
Sự nhập nhằng về cả danh xưng lẫn hình thức nhằm xoá đi những vinh dự của triều đại trước trong ngoại giao với phương bắc đã gây ra những ngộ nhận làm lệch hướng toàn bộ lịch sử. Khi những nghi lễ đó bị “dung tục hoá”, cách nhìn của quần chúng về triều đình Tây Sơn cũng đi theo, củng cố cho cái thuyết “giả vương” sang Trung Hoa mà đến nay vẫn còn nhiều người tin tưởng.]