[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
[Phần bổ xung thông tin của người dịch (có tham khảo và trích dẫn “Việt-Thanh chiến dịch của Nguyễn Duy Chính và thư từ các giáo sĩ phương Tây tại Bắc Hà thời điểm đó):

Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đại bại, vua Lê bỏ chạy sang Kinh Bắc (Bắc Ninh), sai Lê Quýnh đem tông thất trong đó có cả Hoàng thái hậu, Hoàng phi, Hoàng tử chạy lên Cao Bằng nương náu nơi những thổ quan còn trung thành với nhà Lê, bản thân nhà vua chạy sang Yên Thế. Một người rất thân cận với vua Lê lúc đó là Bùi Dương Lịch đã kể lại như sau:

… Ngày 25 tháng Một (năm Ðinh Mùi) [2-1-1788] vua sai Nguyễn Chỉnh đem đại quân đến chống cự ở sông Sinh Quyết.

Ngày 30 [7-1-1788], Nhậm [Vũ Văn Nhậm] sai người ban đêm lặn xuống sông lẻn vào chỗ quân thủy của Chỉnh đóng, dùng thừng chão buộc thuyền kéo về bờ nam, quân Chỉnh tan vỡ. Nhậm thắng trận liên tiếp kéo quân đến sát thành Thăng Long. Vua nghe tin báo có ý muốn về phía tây ngầm theo đường thượng lưu rút về Thanh Hoa.Nửa đêm Chỉnh từ sông Sinh Quyết trở về, vua sai vời mấy lần, Chỉnh không vào mà ủy cho Tham tri chính sự Nguyễn Như Khuê [tiến sĩ, anh rể Chỉnh] vào tâu xin vua chạy lên phía bắc và nói: Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc, thế lực có thể trông cậy được.

Vua nghe theo, đợi trời sáng, vua ngự ra điện Vạn Thọ, bọn thị vệ dần dần bỏ trốn, vua triệu các quan sảnh đường để xét hỏi, thì họ đã ngầm trốn đi từ trước, không còn một người nào trực cả. Bọn nội thị ai về nhà nấy thu xếp hành lý. Trong điện chỉ còn Hoàng thân thứ hai, cai quản vệ Hổ bôn Ðạt quận hầu [Lê Duy Ðạt], người vừa mới được tiến triều là Nguyễn Khải người Hương Cần, huyện Kỳ Hoa, người họ ngoại là Tích Xuyên hầu cùng hoàng giáp Bùi Dương Lịch bưng khăn đứng hầu mà thôi. Khi sắp đi, vua trước hết đến nhà tẩm miếu tiên đế bái khóc. Bọn thị vệ lại lén bỏ đi. Vua tôi chỉ đưa mắt nhìn nhau, không biết làm thế nào. Bùi Dương Lịchđến trước vua tâu rằng:

- Nay Chỉnh dẫu thua trận rút lui, nhưng thủ hạ của Chỉnh còn nhiều, lòng người còn biết sợ Chỉnh, xin nhà vua truyền dụ đi đến nhà Chỉnh, sai Chỉnh đi theo hộ giá, chắc được, như thế có sự ràng buộc.

Vua cho là phải …


Thế nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh cũng không làm được gì hơn nên khi đến được Kinh Bắc thì Nguyễn Cảnh Thước lại có manh tâm phản trắc, cướp bóc, ngăn trở không cho qua sông. Khi qua được tới vùng Yên Thế, Lạng Sơn thì vì binh lực ít ỏi vua Lê phải dựa vào một nhóm thổ hào ô hợp nên cũng chẳng đến đâu. Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa đem binh đuổi đánh, bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh đem về Thăng Long. Vua Chiêu Thống chạy thoát. Cha con Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ bị giết, người bị xé xác.

Nhiều chi tiết cho ta thấy trong tình trạng rối ren, tông thất nhà Lê cũng có nhiều phe phái, sĩ phu và quan lại cũng nghiêng qua ngả lại, không đồng nhất. Những người còn một số quyền hành tại địa phương thì dĩ nhiên chọn con đường “cần vương” mà chúng ta thấy nổi lên khắp nơi. Những văn quan thì cố tìm cách trốn tránh mặc dù cũng có một số người chạy ra cộng tác với tân triều đóng vai trung gian chiêu dụ người khác nhưng không hoàn toàn thành công.

Khi nhận được tin Vũ Văn Nhậm có ý chuyên quyền, Nguyễn Huệ lập tức kéo quân từ Phú Xuân ra bắt Nhậm giết đi rồi ủy thác cho Ngô Văn Sở và các tướng lĩnh ở lại trấn thủ Thăng Long, sau đó dẫn binh quay về. Vũ Văn Nhậm là con rể của Nguyễn Nhạc, trước đây vốn dĩ là một tì tướng thân cận của Nguyễn Huệ nhưng từ khi hai anh em bất hòa, vị thế của ông này trở nên nguy hiểm. Chúng ta không lấy làm lạ khi ông trừ được Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, thay vì hỏi ý kiến Nguyễn Huệ để xin giải pháp, Vũ Văn Nhậm lại tự ý đưa Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn (tức ông Hoàng Tư, chú của Lê Duy Kỳ) lên làm giám quốc, một hành vi “kỳ đà cản mũi” những toan tính của Nguyễn Huệ. Giết Vũ Văn Nhậm cũng cắt đứt những liên hệ (nếu có) sau cùng giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ.

Tuy nhiên việc Lê Duy Kỳ biến mất khiến cho Nguyễn Huệ lúng túng, dự tính tôn ông lên làm vua lại không được người Bắc Hà tán thành nên sau cùng ông đành chấp nhận giải pháp cũ, bằng lòng để Lê Duy Cẩn (hay Cận) làm giám quốc, một chức vụ có tính thay mặt vua Lê để điều hành chính sự. Mặt khác ông ra lệnh cho Ngô Văn Sở tìm cách tiêu diệt dư đảng nhà Lê, truy sát thân nhân của Lê Duy Kỳ để trừ hậu hoạn. Chính vì thế mà thái hậu và một số tông thất phải liều mạng vượt sông chạy sang Long Châu.

Nói đến các thế lực tại miền Bắc có điều kiện đối kháng với nhà Tây Sơn, chúng ta có thể nhắc đến những lực lượng phù Lê, dư đảng họ Trịnh và những thổ hào phần lớn sống tại vùng trung du sát với núi non. Tại Yên Thế có Dương Ðình Tuấn, vốn dĩ là một tay “anh chị” ở Lạng Giang, nay hưởng ứng Cần Vương được phong làm Bình Khấu tướng quân. Trần Quang Châu, Trần Ðĩnh, Hoàng Xuân Tú ở Chí Linh. Trần Quang Châu được phong là Ðịnh Vũ Hầu. Ở Thanh Hóa có con cháu nhà Lê là Lê Duy Trọng, Lê Duy Phác. Hoàng đệ Lê Duy Chi (em vua Chiêu Thống) thì dấy lên ở Tuyên Quang, Thái Nguyên. Ngoài ra còn vô số các nhóm nhỏ mỗi người làm chủ một cõi.

Quân Tây Sơn thì vẫn còn ở tình trạng trấn giữ, chưa hình thành một bộ máy hành chánh đến mọi địa phương. Ðại quân chỉ tập trung ở một số vị trí huyết mạch chứ không trải mỏng đến từng thôn xóm. Mặc dù Nguyễn Huệ cố tuyển mộ gấp rút một đoàn quân địa phương để bổ xung lực lượng, đa số quân trú đóng ở miền Bắc vẫn là quân đem từ miền Nam ra mà khác biệt về tiếng nói, phong tục, cách sinh hoạt chưa có thể một sớm một chiều khắc phục được.Ngoài ra, chúng ta cũng phải kể đến thành phần Hoa kiều sinh sống trên đất nước Việt Nam, phần lớn là giới con buôn vào ra theo đường sông, cư ngụ dọc theo các trục lộ giao thông, tương đối nắm vững tình hình luôn luôn sẵn sàng nhũng nhiễu khi có cơ hội.

Khi quân Tây Sơn truy nã Nguyễn Hữu Chỉnh, tông thất nhà Lê chạy tứ tán khắp nơi. Theo tài liệu của nhà Thanh còn trong văn khố, vào tháng Chạp năm Càn Long 52 (Ðinh Mùi), cựu thần nhà Lê là Ðịch Quận Công Hoàng Ích Hiểu迪郡公黃益曉, Hoan Trung Hầu Phạm Ðình Quyền懽忠侯范廷權 bảo hộ gia quyến vua Lê, nam nữ cả thảy hơn 200 người chạy lên Lạng Sơn nhưng bị thổ mục ở đó là Quyển Trâm卷簪 toan bắt giữ nên cả bọn phải chạy đến xã Bác Sơn, huyện Võ Nhai nương náu. Ðốc trấn Cao Bằng là Ðồng Bình chương sự Tô Phái Hầu Nguyễn Huy Túc阮輝宿 nghe tin vội chạy đến nghinh đón, có Trường Phái Hầu Lê Quýnh長派侯黎囧, anh vợ vua Lê là Nguyễn Quốc Ðống阮國棟 và Mai Trung Hầu Nguyễn Ðình Mai梅忠侯阮廷枚 đi theo bảo hộ.

Sau một thời gian, đoàn người lưu vong lại bị các phiên mục ở Cao Bằng như Bế Nguyễn Trù閉阮儔, Bế Nguyễn Sĩ 閉阮仕 cùng tướng Tây Sơn là Hoán Nghĩa Hầu Trần Danh Bính 煥義侯陳名炳 đem quân tới Bác Sơn truy nã. Nguyễn Huy Túc dẫn cả bọn bỏ chạy, ngày mồng 4 tháng Năm năm Mậu Thân [7-6-1788] thì tới được Bác Niệm博 淰 (Pác Nặm] giáp với tỉnh Quảng Tây nhà Thanh. Ở vùng này không có cửa ải nào đi qua Trung Hoa, lại bị Hoán Nghĩa Hầu dẫn 300 quânđuổi tới rất gắt.

Ngày 12 tháng Năm [15-6-1788], lúc giờ Dậu [khoảng 8 giờ tối], cả bọn bầy tôi quyến thuộc nhà Lê chạy được đến bên ngoài ải Ðẩu Áo斗奧. Ðẩu Áo cách Long Châu 120 dặm, phía đông bắc Thuỷ Khẩu quan, cạnh một khe suối làm biên giới chia cắt nước ta với Trung Hoa. Nguyễn Huy Túc khai với Tôn Sĩ Nghị rằng di thần quyến thuộc nhà Lê ở bên kia sông bị truy binh nên bọn Nguyễn Huy Túc phải cõng đám đàn bà trẻ con lội qua con rạch. Những người không qua được đều bị quân Tây Sơn giết chết. Ðám tòng vong nhà Lê sau khi qua được con suối thì lên được đỉnh núi, do thổ dân đưađường phải đi hái rễ cây, ăn quả rừng cho đỡ đói sống tạm mấy ngày. Khi tin đưa tới quan quân nhà Thanh thì thông phán Trần Tùng tới gặp. Lê Quýnh viết trong “Bắc Hành tùng ký” như sau:

“Bấy giờ, Thái hậu với Nguyên phi, Nguyên tử đều ở Thái nguyên. Quýnh vâng mệnh đi lên Bắc để hộ vệ Thái hậu. Tháng Tư, đến Thái nguyên, thấy binh ít thế gấp, bèn đưa Thái hậu đi trấn Mục mã thuộc Cao bằng.

Tháng Năm, quân Tây sơn thình lình tới, Phiên mục Hoàng Ích Hiểu theo lời dặn của đốc đồng Nguyễn Huy Túc lấy thuyền buôn đưa Quốc mẫu (Thái hậu) thuận dòng đến cửa Thuỷ khẩu (cửa sông Bằng vào biên giới Long châu), tạm trú trên một gò nhỏ ở giữa sông thuộc thôn Bến xã Phất mê.

Ngày mồng 9 [12-6-1788], quân Tây sơn đến đông. Quýnh và Ích Hiểu chia nhau hai ngả mà ngăn chống. Ðốc đồng Nguyễn Huy Túc, Phượng thể hầu Nguyễn Quốc Ðống, Trường thu lịnh Phạm Ðình Quyền cùng nhau đưa Thái hậu qua sông, tới làng Ðẩu áo mà vào đất Thanh. Chiều tối, Quýnh và Ích Hiểu giữ gò nhỏ ở giữa sông Phất mê. Quân Tây sơn vây phía Tây nam. Quân giữ ải nội địa ngăn phía Ðông bắc. Lui tới đều hết đường, chỉ còn có thể đánh đến chết mà thôi. May tối đến, mưa gió to. Trong đêm tối, nhân chớp sáng mà lội qua sông. Bắt đầu vào đất Thanh tại làng Ðẩu áo trong núi Ðồ sơn. Người nhà còn bảy đứa. Sáng dậy thấy Thái hậu với Nguyên phi, Nguyên tử, các tùng thần đều ở trong động núi. Lương hết. Tìm được vài bao ngô đem tiến. Còn hơn sáu mươi người đều lấy rễ tươi bổ cốt chỉ đập nát và quả trong rừng mà ăn cho đỡ đói...”


Trong “Tiêu Cung Tuẫn Tiết Hành” Nguyễn Huy Túc thuật về cuộc đời của hoàng phi Nguyễn Thị Kim cũng miêu tả như sau:

Tới Mục Mã vội vàng nghỉ lại,

Thuyền vua giong lên ải Phất Mê.

Ðịch nghe tin kíp đuổi kề,

Tên bay đạn lạc bốn bề rối ren.

Bè một mảng qua phen kinh hãi,

Bao hiểm nghèo rồi lại bình yên,

Vịn cây dẫm đá trèo lên,

Mưa mù lam chướng đầy trên một trời.

Dân sở tại chào mời đưa dắt,

Gập ghềnh theo lối tắt đường ngang.

Hết đường tới núi vào hang,

Giếng thơm trong suốt, nước đang dạt dào …


Qua được đất Trung Hoa, thân quyến và bầy tôi nhà Lê chỉ còn 62 người, trong đó có thái hậu [mẹ Lê Chiêu Thống] là Nguyễn (thị) Ngọc Tố阮玉素 và vương phi [vợ Lê Chiêu Thống] là Nguyễn (thị) Ngọc Ðoan阮玉端, vương tử [con Lê Chiêu Thống] là Lê Duy Thuyên黎維詮). So sánh với số lượng hơn 200 người tông thất nhà Lê chạy lên Cao Bằng ta thấy khoảng hơn 150 người đã bị giết hay mất tích. Con số có thể lớn hơn nữa vì hơn 200 là tông thất nhà Lê lúc ban đầu, về sau có thêm Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh … không biết bao nhiêu. Tính theo tỉ lệ số người bị Tây Sơn bắt giết là đa số, những người còn sống sót chỉ là thành phần quan trọng nhất được bảo vệ mà thôi. Tất cả được đưa vào cho nghỉ tạm ở Long Châu. Nguyễn Huy Túc lúc đó mới đem mọi việc của nước Nam loạn lạc thế nào, Thăng Long bị mất ra sao trình lên cho quan nhà Thanh như sau:

… Nguyên ngày mồng 2 tháng Chạp [8-1-1788] năm ngoái, thổ tù đất Quảng Nam Nguyễn Nhạc là bên ngoại của nước chúng tôi, còn có tên là Văn Bình (ở đây nhầm Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc), năm ngụy Thái Ðức thứ 11, bọn chúng vốn không phải họ Nguyễn, cũng không phải họ Nguyễn phụ chính (tức chúa Nguyễn trong Nam), em của y là Nguyễn Huệ, ngụy xưng là Thượng Công, sai ngụy tiết chế là Nguyễn Nhậm (tức Vũ Văn Nhậm) đem mấy vạn quân thẳng đến kinh thành, quốc vương nước tôi lãnh binh các đạo chống giữ đánh thắng được địch mấy lần.

Tháng Ba năm nay, Nguyễn Huệ đem quân đến tiếp viện, quốc vương phải lánh nạn ở hạ lộ Sơn Nam. Bọn chúng tôi đưa vương mẫu, vương tử, vương phiđến trốn tránh ở Na Lữ, đất Cao Bằng.

Ngày mồng chín tháng Năm [12-6-1788], man binh bất ngờ đến cướp trại, truy sát rất gấp, không nơi chạy trốn, bọn chúng tôi phụng mệnh mẹ của tự tôn (tức Lê Chiêu Thống) chạy đến quí hạt. Trộm nghĩ vua Lê nước tôi nhiều đời phụng sự thiên triều, vẫn mong được thánh thiên tử chăm lo dạy dỗ. Nay gặp phải biến cố này nên cố bỏ đất mà chạy đến đây, mong được quí đài chiếu cố, trình lên thượng hiến, tâu lên mọi việc, cũng mong trời che đất chở không gì là không dung chứa, đoái hoài đến cả kẻ ở phương nam là mẹ con của quốc vương chúng tôi Lê Duy Kỳ đều được thương xót, có nơi nương tựa, sống nốt tháng ngày, đợi khi quốc vương nhờ uy đức thiên triều lại trở về được kinh đô, khi đó đón trở về nước, dương danh chí nhân thịnh đức của thiên hoàng đế thì cũng là do quí liệt đài thương xót mà ban cho.


Nay trình lên.

Lá thư viết ngày 12 tháng Năm [15-6-1788] nhưng đến đầu tháng Sáu năm Càn Long thứ 53 tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh mới nghe trình lên rằng ở phủ Thái Bình có gia quyến vua Lê nước Nam chạy sang lánh nạn. Ðề đốc Quảng Tây là Tam Ðức三德 lúc đó đang ở tại Tả Giang lo việc di chuyển quân sĩ vừa thắng trận trở về (chiến tranh dẹp loạn nhóm Thiên Ðịa Hội Lâm Sảng Văn林爽文 ở Ðài Loan) nên ngay ngày mồng 3 [6-7-1788] đã tới ngay Long Châu để xem xét tình hình.

Long Châu là một thị trấn nhỏ ở sát biên giới, khí hậu oi bức, ma thiêng nước độc, vừa ngại gia quyến nhà Lê không hợp thuỷ thổ, lại sợ quân Tây Sơn có thể tấn công qua bắt lại nên Tam Ðức liền thương nghị với tổng binh Tả Giang là Thượng Duy Thăng, đưa cả bọn lên Nam Ninh (thủ phủ của tỉnh Quảng Tây). Tổng Ðốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị vội vàng đem tình hình tâu lên vua Càn Long, một mặt ra lệnh cho Thượng Duy Thăng đem quân đến Long Châu phòng ngự.

Thượng Duy Thăng liền phái 1.000 quân đến phối hợp với quân sĩ trú đóng ở Long Châu, chia nhau canh giữ các nơi. Ngày mồng 4 tháng Sáu [7-7-1788], Tôn Sĩ Nghị từ Triều Châu lên đường sang Long Châu để quan sát tình hình, sợ quân chưa đủ sức nên bí mật sai Tam Ðức điều thêm mấy ngàn binh sĩ sẵn sàng tiếp ứng nếu quân Nam tràn qua. Biên giới tỉnh Quảng Tây tiếp giáp với nước ta có ba cửa, từ trên xuống dưới là Thuỷ Khẩu Quan水口, Bình Nhi Quan平而 và Trấn Nam Quan鎮南. Trấn Nam Quan – mà ta gọi là Nam Quan – là cửa chính, luôn luôn có trọng binh trấn giữ. Sứ thần nước ta mỗi khi sang Tàu đi theo con đường này. Hai cửa ải kia nhỏ hơn, chỉ là đường cho dân chúng hai nước qua lại. Tôn Sĩ Nghị sợ thất thố nên lại sai Tả Giang Trấn điều thêm 300 quân, chia ra mỗi cửa ải đặt thêm 100 người canh gác ngày đêm.

Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị孫士毅 (tổng đốc Lưỡng Quảng) và Tôn Vĩnh Thanh孫永清 (tuần phủ Quảng Tây) thì khi vua Hiển Tông thăng hà:

…然已亡失國之印信,因鄭氏擅權時,曾竊奪國印,謀取簒位。黎維祁乃咨請憑信,兩廣總督孫士毅以其未經具本告哀,尚未奉旨承襲,不便先給印信,拒之。

, “ ….tuy nhiên không có quốc ấn vì khi họ Trịnh còn nắm quyền đã ăn trộm mất ấn tín để mưu việc soán đoạt. Lê Duy Kỳ có viết biểu tâu lên để xin một quả ấn khác (tức ấn An Nam quốc vương của nhà Thanh phong cho) nhưng tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chưa tiếp được bản cáo ai, lại chưa được chiếu chỉ cho phép nên đã từ chối”.

Căn cứ vào đó, hoàng tôn Lê Duy Kỳ được coi như dòng chính thống và việc Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long là một hành vi tiếm nghịch nên nhà Thanh phải can thiệp để lấy lại nước cho vua Lê. Ðể đem quân sang nước ta nhà Thanh nêu cao chủ trương “hưng diệt kế tuyệt, phất lợi kỳ thổ địa thần dân” 興滅繼絶,弗利其土地臣民 (hưng lên kẻ bị diệt, nối lại dòng bị đứt, không mưu lợi đất đai hay dân chúng):

– Lê triều đã thần phục và triều cống Trung Hoa trong hơn một trăm năm qua (chỉ tính riêng nhà Thanh vì mỗi khi mệnh trời đổi coi như một nước mới). Việc nối lại triều Lê là một hành vi thích đáng vì thiên triều có bổn phận với thuộc quốc, không thể để cho loạn thần ngang nhiên cướp ngôi một dòng họ đã được họ công nhận chính thức.

– Vua Càn Long cũng khẳng định là việc đem quân sang nước ta không phải vì có tham vọng muốn chiếm đất đai hay dân chúng. Trong nhiều văn thư, ông cũng ra lệnh đem gạo thóc từ “nội địa” sang để nuôi quân, không tơ hào tài sản của nước Nam và ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị ước thúc quân lính không cho quấy nhiễu.

Dự tính nguyên thủy của Thanh triều không chỉ lấy kinh đô Thăng Long rồi giao lại cho nhà Lê mà coi việc tái chiếm Bắc Hà mới là bước đầu. Một khi thành công, quân Thanh sẽ tiếp tục đánh xuống Thuận Hóa để “đảo huyệt cầm cừ” (đánh vào sào huyệt bắt kẻ cầm đầu) rồi tùy theo tình hình mà chia nước ta thành nhiều khu vực tự trị. Từ vị trí một ngoại phiên (tương tự như Triều Tiên, Lưu Cầu, Xiêm La …), An Nam sẽ trở thành một nội phiên như Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương … tuy vẫn do những lãnh tụ bản xứ cai trị nhưng thực chất chỉ là những quan lại do triều đình bổ nhiệm. Âm mưu đó trước khi xuất chinh còn mơ hồ – chỉ mới nằm trong những mật tấu của Tôn Sĩ Nghị – thì sau khi chiếm được Thăng Long lại trở nên khá rõ rệt. Có lẽ việc tiến quân quá dễ dàng khiến vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị đều tin rằng quân Thanh có thể làm hơn thế nữa. Ngay sau khi chiếm được Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị liền tính toán kế hoạch đóng thuyền và lập đài trạm từ Thăng Long vào Thuận Hoá để đến ra giêng tiến quân xuống phương Nam. Tuy nhiên kế hoạch đó không thực hiện được vì những khó khăn về quân đội, lương thực, nhân sự, tài chánh … nhất là e ngại một cuộc sa lầy tại phương nam giống như tại Miến Ðiện trước đây nên vua Cao Tông đã ra lệnh rút quân về.

Ngày 19 tháng Sáu năm Càn Long 53 [22-7-1788], vua Cao Tông gửi một đạo dụ cho Tôn Sĩ Nghị như sau:

“Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị tâu lên, tiếp theo căn cứ vào lời bẩm của Tả Giang Trấn thì thân quyến tự tôn nước An Nam chạy qua nội địa nên ta đãra lệnh cho tùy nghi lo liệu, lại sai người đến ngay Long Châu, xem xét tình hình để tâu lên cho rõ ràng. Việc này trước đây khi Tôn Vĩnh Thanh tâu lên, trẫm sợ rằng viên tri phủ đó không có chủ kiến nên lập tức giáng chỉ ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị lập tức tra xét lo liệu.

Hiện nay viên tổng đốc kia chưa đợi dụ chỉ đã khởi trình đến trước rồi, như thế thực là biết việc nặng nhẹ, không thẹn là kẻ đại thần ở biên cương, thật đáng khen ngợi. Trong tấu triệp của Tôn Vĩnh Thanh trước đây, chưa biết tung tích của tự tôn Lê Duy Kỳ đang ở đâu, mà chạy sang đến hơn sáu chục người thì có liên hệ thế nào? Trẫm đã từng ra lệnh tra xét cho thấu đáo, rồi tâu ngay lên cho ta.

Nay cứ theo như lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, lúc đầu cứ tưởng có cả Lê Duy Kỳ đi theo. Thế nhưng nếu ví thử Lê Duy Kỳ đích thân dẫn quyến thuộc sang nội địa thì cớ gì lại phải ra lệnh cho di quan Nguyễn Huy Túc đứng tên, còn bọn thổ tù Nguyễn Nhạc kia sau khi công phá Lê thành, thấy Lê Duy Kỳ bôn đào nên dẫn binh truy sát. Nếu cả nước đã bị họ Nguyễn chiếm mất rồi, ắt Lê Duy Kỳ mang quyến thuộc theo, tuy không quá 60 người, nhưng lẽ nào đi đường không lo liệu tính toán gì mà đến được nội địa?

Lê Duy Kỳ nếu đã đến Long Châu nên truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị đến đó tận mặt hỏi Lê Duy Kỳ xem việc họ Nguyễn nổi loạn ra sao, hai bên vì cớ gì gây hấn, gặp nạn chạy sang nội địa cốt lo bảo toàn tính mạng mẹ con mà phải bỏ đất cho họ Nguyễn. Y bỏ nước chạy sang đây rồi, trong nước thần tử có ai lo chuyện diệt giặc khôi phục để nghinh đón mẹ con y về hay không, xem chủ kiến y thế nào?

Nếu như Lê Duy Kỳ cũng không biết rõ ràng thì nên hỏi bọn Nguyễn Huy Túc để cho rõ tình hình nước đó ngõ hầu theo tình hình mà trù biện. Theo ý trẫm thì vì quẫn bách mà tự tôn nước đó chạy sang nội địa, tuy trình lên không có giọng muốn xin quân cứu viện, nhưng nếu trấn mục nước đó có thể tụ tập dân binh, tảo trừ hung nghịch đón tự tôn về thì thế là tốt nhất. Còn như họ Nguyễn đã chiếm được cả địa phương ở Lê thành nhưng các nơi khác vẫn thuộc họ Lê, các trấn mục không diệt được họ Nguyễn nhưng việc đã định vẫn có thể sắp xếp cho ổn thỏa để nghinh đón tự tôn thì đất nước của nhà Lê cũng chưa đoạn tuyệt, cũng không cần phải hưng sư cho lớn chuyện làm gì.

Còn như họ Nguyễn công phá Lê thành xong chiếm hết nước An Nam, con cháu nhà Lê bị giết hại thì tự tôn nước đó không còn nước mà trở về. An Nam thần phục bản triều, rất là cung thuận, nay bị cường thần soán đoạt phải chạy sang đây nếu như ta bỏ qua không lý đến thật không phải là cái đạo tồn vong nên phải tập trung binh lực kể tội sang chinh thảo.

Trẫm nay đã định đoạt rồi, lại truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị, tuân theo dụ chỉ trước đây, xem két kỹ lưỡng thêm nữa, trù biện cho chín chắn, cứ theo tình thực mà nhanh chóng tâu lên ta sẽ đợi tới khi đó sẽ hạ chỉ để cho biện lý. Còn về phần thân thuộc của Lê Duy Kỳ thì nên sắp xếp cho ổn thỏa, cung cấp thêm chớ nên hẹp hòi, còn như các nơi cửa quan thì điều động một nghìn binh sĩ phân bố ra trấn đóng.

Ngặt vì binh lính không có nhiều, e rằng bọn phỉ thấy quan quân ít ỏi đâm ra coi thường thì hãy điều động thêm các nơi chung quanh hai ba nghìn lính nữa, phân bố quan ải để làm thanh viện, đề đốc Tam Ðức là người từng chinh chiến lâu năm, nên sai y đến đây thống lãnh, hợp với việc đàn áp tra xét, không cần phải lo gì nữa. Còn Tôn Sĩ Nghị sau khi nghe bẩm báo, lập tức lên đường đến ngay thật đúng như ý trẫm, hịch văn cũng thật là đắc thể, ngoài những điều trẫm đã nói cũng không có gì khác, nay thưởng thêm cho một đôi hà bao lớn, một đôi hà bao nhỏ để tưởng lệ.”


Cùng ngày hôm đó, Tôn Sĩ Nghị tâu lên rằng một khi hư trương thanh thế, truyền hịch đem quân sang đánh nước Nam, ắt những người đã theo Tây Sơn sẽ nổi lên chống lại, và nhà Thanh không phải hao quân tổn tướng mà vẫn đạt được thắng lợi. Vả lại, An Nam vốn chẳng phải là đất của Tây Sơn nên khi nghe tin quân Thanh sang đánh, họ sẽ rút về Quảng Nam không luyến tiếc. Mục tiêu gần của anh em Nguyễn Nhạc là thu vét tài vật thì họ đã làm xong, chiếm lĩnh đất đai chỉ là thứ yếu nên chắc chắn ra quân sẽ thành công.

Nói tóm lại, chủ trương của Thanh triều là làm sao tìm được vua Lê để tiền hô hậu ủng đưa ông về Lê thành [kinh đô Thăng Long], phong vương rồi can thiệp càng lúc càng sâu vào nội tình nước ta như một vùng nội phiên.]

------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói Triều Châu, Long Châu, từ khi nhận được mật trát, liền tiến hành thăm dò biên giới, rồi tiến đến Thái Nguyên ban bố hịch.

Ở Triều Châu có hai họ Trương張, Cát吉, vốn quen lấy nghề đào hầm khai thác bạc làm kế sinh nhai, cư trú tại Tống Tinh送星 thuộc Thái Nguyên. Mọi người cùng nhau tôn họ làm thủ lĩnh, phe đảng của họ có đến hơn vạn người, đều là khách hộ (người dân/thương nhân) từ nội địa [Trung Quốc].

Nghe hịch, họ liền đến Hành Tinh tâu rằng:

- Bọn tiểu nhân chúng tôi làm nghề khai thác mỏ để kiếm sống, đời đời cư trú ở vùng đất phía Nam này. Trước đây nghe tin kinh thành An Nam thất thủ, trong nước đại loạn, chúng tôi sợ bị tai vạ vạ lây (nguyên văn: cụ hữu lâm mộc trì ngư chi cập懼有林木池魚之及: như cá chậu chim lồng), bèn cùng người địa phương tập luyện hỏa súng, nỏ mạnh, chỉ là để tự bảo vệ mà thôi! Quân địch mấy trăm người kéo đến cướp bóc, chúng tôi giao chiến một trận đã tiêu diệt hết. Nghĩ rằng bọn chúng chắc chắn sẽ quay lại, chúng tôi bèn chia thành mười đoàn, mỗi đoàn nghìn người, thề sẽ ra trận tử chiến với địch. Nay vâng theo hịch văn, thật không khỏi hăng hái, nguyện xin làm tiên phong. Vả lại bọn tiểu nhân chúng tôi cũng thuộc dân cư của Triều Châu, có thể cùng nghĩa quân Điền Châu滇州 [Vân Nam] dốc sức.

Người được phái đi nghe họ nói như vậy, liền lấy lời khai làm thành bản cung trạng [bản tường trình] rồi về bẩm báo lại.

Lại nói, Lê Đế trước đó đã cử bồi thần (quan nhỏ) Như Thanh如清 đi cầu viện nhà Thanh. Đến lúc này, Lê Duy Đản黎惟亶 từ Thái Bình trở về, tâu lại việc Tổng đốc Quảng Tây đã tấu trình và được nhà vua [Thanh] ban chiếu chỉ, nói rằng đại binh sắp đến trong nay mai. Gặp lúc Lê Quýnh từ Long Châu trở về báo tin, nói rằng Thái Hoàng hậu và quyến thuộc hiện đang ở thành Nam Ninh, cuộc sống an ổn. Vua Lê rất đắc ý, chắp tay vái lên trán nói:

- Ta còn trẻ mà gặp buổi gia đình đại nạn, nhờ ơn linh thiêng của cửu miếu. Đại Hoàng đế nhân đức ban ơn cho nước nhỏ [An Nam], trong nước lại thấy trời quang mây tạnh. Cơ hội trung hưng há chẳng phải ở đây sao!

Bèn sai sửa soạn biểu văn tạ ơn và các thư từ trình tấu, một loạt gửi đi nhanh chóng, nói rõ:

"Giặc Tây Sơn hoành hành, dân chúng không chịu nổi. Nay tuy phải bôn tẩu ngoài biên ải, nhưng may mắn lòng dân vẫn nhớ về triều cũ, nên có thể vài lần khởi nghĩa nhưng rồi lại thất bại. Gần đây nhận được văn thư từ Nhị Lạng [Lạng Sơn], mật dụ các hào kiệt trong nước, ai nấy đều hăng hái, thề diệt kẻ thù. Ngày đêm mong đợi sự viện trợ của thượng quốc [Trung Quốc], nhờ uy linh của Thiên triều, việc ắt sẽ thành công. Khi sứ giả mang hịch về tuyên đọc, thần dân mừng rỡ như được sống lại, kẻ địch cũng bị đoạt khí thế, khắp nơi đều tụ tập nghĩa quân. Chờ Thiên binh vượt cửa ải, sẽ đến trước quân môn bái kiến, nhận hiệu lệnh đi tiên phong, giặc sẽ bị bắt hết, kinh đô sẽ được khôi phục. Thật là nhờ đức nhân của Đại Hoàng đế trong việc hưng phục nghiệp cũ, và công lao của các quan lớn [nguyên văn Thượng hiến上憲] đã thành toàn, ắt sẽ ghi nhớ mãi mãi cùng với sông Lô, núi Tản mà lưu truyền muôn đời không cùng.

Vừa lúc đó, nhận được văn bản tấu trình từ Triều Châu, lại có tin này, liền cùng với tuần phủ tâu xin xuất quân. Trong đó có thượng dụ của vua (Thanh):

"Chỉ có thể coi đó là viện trợ về mặt thanh thế, để họ tự lo liệu, không cần thiết phải xuất đại binh để giải quyết việc lớn.

Khâm Thử.”

Tôn Sĩ Nghị có bản tấu:

“Vâng mệnh, thần đã tra xét kỹ đường đi nước bước, từ Chiêu Đức Đài昭德台 [Ngưỡng Đức Đài là toà nhà ở phía nước ta đối xứng với Chiêu Đức Đài ở bên kia Nam Quan của phía Trung Hoa] đến kinh thành nước đó, quân đi không quá sáu ngày. Lạng Sơn hơi có sương mù và chướng khí, nhưng qua đó thì nước đất đều tốt lành, đại binh tiến đến La Thành đóng quân, cũng không có chướng khí. Lại ở đó làm rạng rỡ quân uy, khiến giặc biết là không thể chống lại, sau đó phân phái nghĩa binh trong nước tự mình tiễu trừ, quân ta không cần đổ máu mà địch bị bắt sống, mau chóng đạt được công lớn. Trộm nghĩ cuộc hành quân này, quả đúng như thánh dụ. Hơn nữa, những lần tấu đi tấu lại trước đây, tự thấy quá câu nệ, binh quý thần tốc, cơ hội có thể tận dụng, địch chưa dốc sức phòng bị biên cương, để hoàn thành ý chỉ giao phó. Còn sau khi dẹp yên, việc sắp xếp sẽ cẩn trọng tấu trình tiếp”

Ngay lập tức, thư hỏa tốc được gửi cho Tổng đốc Vân Quý, lệnh tuân theo chiếu chỉ trước đó, từ đường Vân Quý, lấy đường Tuyên Quang, đại binh sẽ tiến vào cửa ải, từ Lạng Sơn mà đi.

Đúng là:

堂堂大將提兵出,赫赫元戎拜表行。

Đường đường đại tướng đề binh xuất, hách hách nguyên nhung bái biểu hành

[Đường đường đại tướng dẫn quân ra trận, hùng dũng nguyên soái dâng biểu khởi hành]

Chưa biết cuộc xuất binh này thắng bại ra sao, xin hãy nghe hồi sau phân giải.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ MƯỜI BA

懾先聲強敵避鋒, 得大援故君反正.

Nhiếp tiên thanh cường địch tị phong, đắc đại viện cố Quân phản chính.

[Kẻ thù mạnh khiếp sợ tiếng tăm mà tránh mũi nhọn,

Nhờ có viện binh lớn nên vua cũ trở lại ngôi chính thống.]

Lại nói, khi Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị sắp xuất quân, tiếp tục có tấu sớ nói rằng:

"Thần nghe An Nam nhà Lê yếu kém, về sau ắt không thể giữ được nước. Nay đến cầu viện, triều ta về nghĩa lý phải ra tay cứu giúp; vả lại, An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, nếu sau khi phục hưng nhà Lê mà nhân đó đặt binh đồn trú, thì vừa giữ được nhà Lê lại vừa thu được An Nam, quả là đôi đường đều lợi."

Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh孫永清 dâng sớ phản đối, cho rằng:

"Triều đình lấy danh nghĩa phục hưng nhà Lê, nhưng Lê không thể giữ được nước, lại phái quan đến để chiếm lấy nước đó; bắt đầu bằng nghĩa mà kết thúc bằng lợi, thần trộm cho là không nên. Hiện nay Lê và Nguyễn đang đánh nhau, Lê ắt sẽ bị Nguyễn thôn tính. Chi bằng giữ binh bất động, sau đó thừa lúc chúng suy yếu mà lấy đi, chưa phải là muộn."

Cuối cùng Thanh Đế chấp thuận tấu trình của Tôn Sĩ Nghị. Tôn Vĩnh Thanh không hợp ý với Tôn Sĩ Nghị, bèn cáo bệnh không đi. Tôn Sĩ Nghị một mình vâng chiếu, suất lĩnh quân mã bốn lộ Lưỡng Quảng, Vân Quý xuất quan, chia làm hai đường: một đường từ Lạng Sơn đến, do Tôn Sĩ Nghị tự suất lĩnh; một đường từ Tuyên Quang đến, do tổng binh suất lĩnh, cả hai đều thuộc quyền tiết chế của Tôn Sĩ Nghị.

--------------------

[Nghe tin Thanh triều rục rịch động binh, tổng trấn Thăng Long Ngô Văn Sở sai hiệp trấn Trần Danh Bính 陳名炳 đem quân tấn công Lạng Sơn, họ Trần thấy các nơi chỗ nào cũng trương tờ hịch nên lại theo giặc nốt. [nguồn: Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 356-7. Tuy nhiên, theo sử nước ta thì Trần Danh Bính chỉ trá hàng, về sau khi quân Thanh tiến sang, đem binh cự địch bị giặc bắt giết.] Ngô Văn Sở nghe tin đó liền viết thư đề ngày 11 tháng Chín [9-10-1788] gửi cho Phan [Khải Ðức] và Trần [Danh Bính], trách họ manh tâm bội bạc, vong ân phụ nghĩa dịch ra như sau: [nguồn: Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 357-9. Cung Trung Ðáng, CCBVV. Bài văn này phải kể là một tuyệt tác, không biết do danh nho nào [có lẽ là Ngô Thì Nhậm] nhân danh Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở soạn ra.]

“Khâm sai tổng lý mọi việc binh dân là Ðại Tư Mã Quận Công thống lãnh đại đô quận công có lời hiểu dụ Tham đốc Ðức Nghĩa Hầu Phan Khải Ðức và chưởng kỳ Hoán Nghĩa Hầu Trần Danh Bính được biết:

Thường nghe cái nghĩa của kẻ bầy tôi là phải tận trung. Các ông từ khi phàn lân phụ dực [nghĩa đen vin vào vảy (con rồng), tựa vào cánh (con phượng), tức là phò tá một bậc minh chủ (còn viết là phàn long phụ phượng)] đến giờ, phụng sự vương thượng chia cơm xẻ áo, ân tình biết là nhường nào, trải qua hàng trăm trận đánh, đi theo xông xáo nơi tên đạn phải bao công lao mới có được ngày hôm nay.

Mới đây các ông được ủy thác nặng nề làm vây cánh, cũng mong hết lòng báo đáp để khỏi phụ tình tri ngộ của vương thượng, cùng nhau hưởng cái vui vẻ tôn vinh, tưởng như gan ruột đá vàng, không thể nào mà lay chuyển được.

Ta nghe đồn rằng quan nội địa gửi mật dụ khuyên các ông qui hàng, các ông lập tức đem thân theo họ, có lẽ nào vong ân phụ nghĩa đến thế sao? Há chẳng nghĩquốc gia hưng vong cũng do số trời, nếu trời đã cho hưng thì ai mà phế được, còn như trời phế rồi thì ai mà hưng được.

Trước đây quyền bính nhà Lê giao xuống dưới, gian thần họ Trịnh nắm giữ hơn hai trăm năm, có biết đâu trèo cao ngã đau, lại đem quân xâm chiếm một giải Phú Xuân đẩy dân đen vào nơi nước lửa, khiến ai nấy đều chạy theo Tây Sơn.

Vương thượng ta trên thuận theo thiên ý, dưới hợp lòng người, chiến dịch Giáp Ngọ (1774), gió nồm giúp cho, chỉ trong mươi ngày thu phục Phú Xuân, tiến thẳng đến thành Thăng Long, vốn chỉ muốn dẹp nạn cứu dân, không phải có bụng lấy nước. Lúc đó họ Lê cũng đã nhường quyền trị nước cho, vương thượng ta mấy lần từ chối, đến khi vua Lê tạ thế lại lập người rồi mới trở về, việc đó các ông chính mắt trông thấy, chứ có phải đâu tham đất của người ru?

Ðến khi trở về mới nghe Lê Duy Kỳ là người dâm bạo, tin dùng kẻ gian trá (tức Nguyễn Hữu Chỉnh), giết chú tư thông với em, bên trong ly tán, bên ngoài chống lại, khiến cho đại loạn, dân chúng lại rơi vào chỗ lầm than, chỉ mong có người cứu vớt. Vương thượng ta bất đắc dĩ phải cất quân trở lại để cứu lấy muôn dân. Ngày vừa đến thành, Lê Duy Kỳ hoảng hốt bỏ chạy, đất nước không còn ai cai trị, quốc dân tất cả cùng suy tôn, mong vương thượng chúng ta trông coi quốc sự, đành phải miễn cưỡng theo lời cầu xin, để cho dân được thỏa lòng, lập tức kể lại ngọn nguồn, viết thành tấu bản, sai người đem lên cửa Nam Quan rập đầu trình lên, hướng về thiên đình (triều đình nhà Thanh), mấy tháng chầu chực, việc đó các ông cũng chính mắt thấy rồi.

Nghĩ đi nghĩ lại, vương thượng ta xưa nay làm việc, danh chính ngôn thuận biết chừng nào, nhân chí nghĩa tận biết chừng nào, sợ trời lòng thành cũng biết chừng nào, nếu không phải là trời cho hưng lên thì làm sao được như thế. Thế nhưng công văn bản quốc chưa đệ đạt lên, sự tình trong nước chưa được thiên triều xem xét, quan ngoài biên ải chỉ mới nghe lời một phía, đã toan động binh, các ông giữ chức bảo vệ biên cương, đáng lẽ phải tùy cơ lựa lời, đem mọi việc tình nghi trong nước trình lên, để cho việc nước sớm êm, khỏi gây hấn nơi biên cảnh, có phải là lập được công lớn cho nước nhà hay chăng? Cớ sao các ông lại nỡ nhẹ lời, khom mình hướng về phương bắc, không biết suy nghĩ ra thế nào? Hay là các ông cho rằng quan binh của ta không địch nổi binh lực đại quốc nên lo cái kế sách vẹn toàn chăng? Có biết đâu chuyện thắng phụ của binh gia là do cái lý thẳng hay cong chứ đâu phải là do quân nhiều hay ít.

Nước ta tuy nhỏ nhưng vẫn dựa vào lẽ trời, từ xưa cũng có lúc hưng lúc phế, cũng là sự thường. Ngày nay vương nghiệp đang lên, ấy cũng là thuận lòng trời vậy. Nội địa tuy có tinh binh trăm vạn nhưng cũng không qua khỏi cái lẽ phế hưng, nếu như muốn xâm lấn nước ta thì lấy cái danh nghĩa gì? Các ông há chẳng thấy vương thượng chúng ta anh võ như thế nào, binh tinh tướng dũng như thế nào, khi mới khởi nghĩa chỉ lưa thưa một nhóm, thế mà Chiêm Thành, Xiêm Lađều thua xiểng liểng, huống hồ hôm nay đã có toàn cõi nước Việt ta, đất rộng dân đông, gấp trăm lần khi trước, nhưng cũng đã sai sứ trình lên một niềm cung thuận. Nước lớn có chinh phạt chi binh thì nước nhỏ cũng có kế sách chống đỡ, các ông việc gì mà phải lo?

Còn như Lê Duy Kỳ phạm tội đào vong, chắc đã chết nơi rừng sâu nước độc nào rồi, nếu có sống mà trở về thì cũng có khả năng giữ được nước hay chăng? Lẽ hưng vong đến đàn bà trẻ con cũng biết, các ông không lẽ không nhận ra được hay sao? Nếu như còn nghĩ đến ơn xưa thì hãy mau quay đầu lại, đem gián văn của ta trước đây trình lên để liệt vị đại nhân chiếu cố, cho người trần tình nơi cửa khuyết, mong được thiên triều hiểu cho nguyên nhân, ắt sẽ bàn thảo xử trí, hai đằng trong ngoài đều ấm êm, chẳng phải đẹp hay sao? Còn như thay lòng đổi dạ, nhất định không chịu quay về, thì cái nợ bội bạc kia, không còn đường nào mà chạy được nữa, cái tội bỏ đi, quan hệ không nhỏ, các ông hãy suy nghĩ cho kỹ, đừng để phải hối hận về sau.”


Nay hiểu dụ.

Thái Ðức năm thứ 11, ngày mười một tháng Chín. [9-10-1788]

Ngô Văn Sở cũng sai cựu quan nhà Lê là Tạ Ðình Thực 謝廷植 cùng một số châu mục ở miền Bắc [trong tấu văn không liệt kê nhưng trong sách có ghi là của các quan ở Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thanh Hoa, Nghệ An, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hưng Hoá, An Quảng … các nơi. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 366.] viết biểu tâu lên Tôn Sĩ Nghị dịch ra như sau:

“Ngày 12 tháng Mười năm Càn Long thứ 53 [9-11-1788], (chúng tôi) tiếp nhận được hiểu dụ rằng bản quốc bị thổ mục đất Quảng Nam là Nguyễn Huệ chiếm cứ Lê thành, [vậy nên] thần dân nhà Lê ai ai cũng phải nghĩ đến đức cũ, đồng lòng căm hận, đợi khi thiên binh qua ải tiễu trừ sẽ chia nhau ra để được sử dụng.

Ngưỡng mộ đại nhân có lòng chí nhân thương xót người bị nạn, đỡ đần kẻ đang ngả nghiêng, khẳng khái lấy điều hoạ phúc, danh nghĩa để chỉ bảo những điều mờ tối cho chúng tôi, thực hết sức cảm kích.

Trộm nghĩ Lê vương nước tôi thụ phong, thiên triều nghĩ đến vua nước dưới hơn ba trăm năm đời đời thừa kế, bọn chúng tôi là dân ăn lộc, chịu ơn vua, nay tự tôn một sớm mất cả xã tắc, lưu lạc bôn đào, hễ ai còn chút khí huyết không thể không chua xót. Thế nhưng bản quốc trước đây sở dĩ đổ nát, mối hoạ chẳng phải một ngày một buổi. Vua Lê mất hết quyền bính, việc cai trị giao cho họ Trịnh cả, đã mấy đời nay, để cho yêm hoạn lộng quyền, chính trị pháp luật không ai gìn giữ, trong nước sinh ra biến cố, không năm nào không, để đến xảy ra binh đao năm Giáp Ngọ (1774), dân chúng Nam Hà khốn khổ về sưu thuế, đã mỏi mệt chuyện binh đao, lại xây thành đắp luỹ, mười phần thì chết đến bốn năm. Ðến khi Trịnh Khải nắm quyền, loạn lạc lại càng quá lắm, quan tham lại nhũng, binh kiêu dân oán.

Chính vì thế mà anh em thổ mục đất Quảng Nam mới thừa cơ nổi lên, dân chúng cả một dải biển Nam, bấy giờ mới tập hợp lại. Mùa hạ năm Bính Ngọ (1786) (quân Tây Sơn) tiến đến thẳng kinh thành, hai bên giao chiến, phụ chính cũ là Trịnh Khải bị thua, xuất bôn rồi chết ở lộ Sơn Tây, Nguyễn Huệ vào thành chiêu an, phủ dụ không hề giết một ai, người nào hàng thì tiếp nhận khiến người đi theo càng lúc càng đông. Năm trước quốc vương Duy Ðoan già cả bệnh hoạn, Nguyễn Huệ đăng điện phù tá, dâng lên hộ tịch binh dân, việc xong cuốn giáp trở về nam, người dân trong nước chạy theo không biết bao nhiêu mà kể.

Chẳng bao lâu tiền vương tạ thế, tự tôn Duy Kỳ kế vị, lại ngầm vời phản thần của Nguyễn Huệ là Nguyễn Chỉnh đem quân vào hộ vệ, Nguyễn Chỉnh chuyên quyền trị nước, khiến dân tình không theo, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam các nơi, đâu đâu cũng nổi lên làm loạn, binh lửa không ngày nào không. Cố chủ bị Nguyễn Chỉnh mê hoặc, ra tay tru lục không kể gì, người người ngả nghiêng không biết đường nào, ai nấy chạy đến Nguyễn Huệ xin đem binh dẹp loạn Nguyễn Chỉnh, khiến cho Nam binh lại phải trở ra, cố chủ bị Nguyễn Chỉnh ép bức, thua trận bỏ chạy.

Năm nay Nguyễn Huệ vào đô thành, lập con thứ của tiền vương là Duy Cận giám quốc thờ phụng, hơn tháng lại trở về đất cũ. Thần dân nước tôi thấy con cháu vua cũ yếu hèn, không giữ nổi nước nên mời Nguyễn Huệ ở lại chăn dắt, dẹp an phản trắc, thật chẳng phải có ý nọ tâm kia, bỏ cũ thay mới, có điều sự thế thayđổi, kẻ yếu không thể tự tồn được, bản quốc vững vàng cũng là nhờ vào Nguyễn Huệ mà yên ổn, mấy lần muốn giữ lại nhưng Nguyễn Huệ bụng dạ khiêm nhường, quả không có ý chiếm thành lấy nước.

Nay nghe đại nhân kể tội, e rằng chỉ là nghe những lời đồn, phần lớn không phãi chuyện thực, mẹ và quyến thuộc cố chủ mất nước hoảng hốt, cho nên đổ tội cho người, còn thần dân bản quốc thì bị cái tiếng chạy theo kẻ nghịch nên phải viết thư trình bày, mong việc này được sáng tỏ, sợ danh nghĩa bị hoen ố mà hoạ phúc cận kề, mong đại nhân đèn trời soi xét thông hiểu được tình cảnh ở xa, đoái thương đến thân phận chúng tôi mà miễn cho tội lỗi.

Phàm tính trời ai chẳng nhớ nguồn gốc, việc mất còn không lẽ không nghĩ đến hay sao? Nay cố chủ đi rồi không nghe tung tích, đại nhân xin đại hoàng đế đem binh tiến thẳng đến Lê thành, sức cho chúng tôi nghênh đón cố chủ về nước, thật không biết một khi (vua Lê) ra đi rồi, phong ba lam chướng, biết đâu mà kiếm. Một khi đã ra quân, nhân dân nơi hòn tên mũi đạn, ắt lòng trắc ẩn của đại nhân chẳng nỡ nào. Nước chúng tôi từ thuở binh đao đến nay, tài lực đều cạn kiệt, nay các đạo quan binh mấy chục vạn kéo sang, tư lương chu cấp, ắt là chẳng đủ, thật trong lòng sợ hãi khôn xiết.

Nay xin đại nhân rủ lòng soi xét, tâu lên đại hoàng đế tra xét rõ ràng Nguyễn Huệ hai lần nhập đô ra sao, để cho dân nước tôi được đón mẹ và quyến thuộc cố chủ trở về, (để cho) rõ ràng ngay cong, còn nhân mã, lương thảo đã xuất khẩu, bản quốc sẽ liệu đường lo toan, bọn chúng tôi không khỏi kinh hoảng mà bẩm lên.

Ngày 22 tháng Mười năm Càn Long thứ 53 [19-11-1788]
. [Nguyên văn từ Quân Cơ Xứ, CCBVV, bẩm văn của bọn Tạ Ðình Thực đề ngày 22 tháng Mười năm Càn Long 53 [19-11-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 366-7.]

Ngoài ra Ngô Văn Sở cũng yêu cầu Lê Duy Cẩn và một số quan lại nhà Lê trình bày mọi việc để xin nhà Thanh bãi binh. Tờ biểu này tuy có nhiều điểm không hoàn toàn đúng sự thực nhưng cũng cung cấp được một số chi tiết trước đây các sử gia chưa rõ, chẳng hạn tên những hoàng thúc bị Lê Duy Kỳ làm hại, xác định lại một số sự việc và chuyện Lê Hiển Tông nhường đất Nghệ An cho Tây Sơn, mà chúng ta ngờ rằng chính là đầu dây mối nhợ mà Nguyễn Huệ có ác cảm với Lê Duy Kỳ.

Tờ bẩm gửi Tôn Sĩ Nghị đề ngày 22 tháng Mười năm Càn Long thứ 53 [19-11-1788] [Tờ bẩm của Lê Duy Cẩn ngày 22, tháng Mười năm Càn Long 53 [19-11-1788] lưu giữ tại Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 365-6.] dịch ra như sau:

“Con ruột của tiền vương nước An Nam Lê Duy Ðoan (tức vua Hiển Tông) là Lê Duy Cẩn cùng các người trong họ cúi đầu bẩm trước ánh sáng Lưỡng Quảng Tổng Ðốc Bộ Ðường đại nhân của thiên triều:

Ngày mồng 10 tháng Mười năm Càn Long thứ 53 [7-11-1788] (chúng tôi) nhận được hịch dụ về nguyên do việc thổ mục đất Quảng Nam Nguyễn Huệ trộm đất đuổi chủ, sự việc liên quan trọng đại, thiên binh (chỉ quân Thanh) kéo sang ảnh hưởng đến sinh linh bản quốc không nhỏ nên đứa con hèn mọn của tiền vương là Duy Cẩn xin đem mọi việc tình hình trong nước, từ trước tới sau chính mắt trông thấy, chẳng lẽ ngậm miệng không nói, vậy xin trình lên:

Tổ tiên nhà Duy Cẩn trước nay nhiều đời thờ phụng thiên triều, tuy vẫn kính cẩn triều cống nhưng thực ra uy phúc không có, hơn hai trăm năm qua quyền hành ở trong tay họ Trịnh phụ chính. Ðến khi cha của Duy Cẩn (tức vua Hiển Tông) tuổi già, người phụ chính trước là Trịnh Ðống (tức Trịnh Tông hay Trịnh Khải) trông coi việc nước, tình hình rối ren, đất nước chia rẽ. Nguyễn Huệ ở biên thùy phía nam xa xôi, được một phương dân hòa, nhân tháng Sáu năm Bính Ngọ (1786) kéo rốc quân ra tiến đến đô thành, giao chiến với họ Trịnh, Trịnh Ðống chiến bại bỏ chạy rồi chết, Nguyễn Huệ liền đem binh dân hộ tịch trong nước giao lại cho thân phụ Duy Cẩn, một tháng sau trở về nam.

Cha của Duy Cẩn cắt đất Nghệ An để làm vật khao thưởng công lao, lại đem con gái gả cho. Chẳng bao lâu, thân phụ Duy Cẩn ngọa bệnh tạ thế, Nguyễn Huệ lại ủng lập tự tôn Duy Kỳ lên nối ngôi. Ngờ đâu Duy Kỳ lại âm mưu dụ dỗ phản thần của Nguyễn Huệ là Nguyễn (Hữu) Chỉnh, đem binh vào bảo vệ. Nguyễn Chỉnh tác oai tác phúc, trong triều ngoài nội đều oán hận, Duy Kỳ nghe lời xúc xiểm, làm chuyện tru lục, đem các chú Lê Duy Lữ, Lê Duy Lân, Lê Duy Hội ba người ném xuống giếng trong cung, Duy Cẩn và các thân tộc khác lo không tự bảo vệ được, (nên phải) chạy đến dựa vào Nguyễn Huệ cho được yên thân. Ðến ngay cả các bầy tôi ở ngoài triều như võ lão tướng Hoàng Phùng Cơ, vì thù riêng mà giết văn lão thần Dương Trọng Tế, ai nấy cảm thấy nguy cơ, cũng vội vàng chạy đến với Nguyễn Huệ mong được sống.

Duy Kỳ lại bội ước cắt đất, cùng với Nguyễn Chỉnh tập hợp binh chúng gây rối ở đất Nghệ An, thành thử Nguyễn Huệ phải sai gia tướng đem quân từ Thuận Hóa rong ruổi kéo vào kinh đô, phạt tội Nguyễn Chỉnh. Duy Kỳ bị Nguyễn Chỉnh ép phải xuất bôn, Nguyễn Chỉnh thua trận mà chết, Duy Kỳ lưu lạc, không biết ở đâu.

Tháng Ba năm nay, Nguyễn Huệ tiến vào đô thành, chiêu an các quan lại đang tứ tán các nơi, hỏi người trong nước xem con cái vua trước có ai, các quan văn võ cùng người già cả viên mục mới xin Nguyễn Huệ ở lại trị nước không để họ nhà Duy Cẩn nữa. [Trong CưƠng Mục, quyển XLVII có chép là “Văn Huệ sai người lùng hết các bầy tôi văn võ, cưỡng ép họ đến cửa cung khuyết để cùng đứng tên vào tờ biểu khuyên mời Văn Huệ lên ngôi vua. Huy Trạc bị bắt đến Ngự sử đài, không chịu ký tên vào tờ biểu ấy, đêm đến, uống thuốc độc tự tử. Việc này do đó cũng đình chỉ”. Như vậy việc này có thể là thật.] Thế nhưng Nguyễn Huệ là người lễ phép khiêm tốn, thấy Duy Cẩn là máu huyết của tiền vương, trước đây khi huynh trưởng mất sớm (tức thái tử Duy Vĩ, cha của anh em Lê Duy Kỳ), đã từng được tiền vương lập làm thế tử, nên ủy nhiệm việc giám quốc, tế lễ, lại sợ thế lực yếu ớt, người trong nước không theo, nên để gia thần cầm quân ở lại trấn thủ, còn như binh dân của Duy Cẩn nhất thiết trả lại cả, rồi đưa quân trở về Thuận Hóa …

Sau đó chúng tôi đã từng đem tình hình trong nước sai quan ở biên giới tâu lên mọi việc, thế nhưng kẻ viên mục giữ ải cầm ấn trốn đi, [Chỉ trấn thủ Lạng Sơn Phan Khải Ðức] quan thiên triều lại lờ mờ không rõ chuyện, thành ra quốc thư không đến được. Còn như việc mẹ và quyến thuộc của Lê Duy Kỳ đem khổ tình vong quốc khẩn cầu thượng hiến thương xót đưa về nước, dựa vào lòng vỗ về kẻ ở xa của đại hoàng đế xuống đến chúng tôi, thượng hiến tuân phụng thánh ý, không đành để cho giòng giõi nhà Duy Cẩn tôi bị tàn lụi, thương xót cả thần dân nên mong cho có đường khôi phục.

Trộm nghĩ Duy Kỳ không giữ nổi xã tắc, đi rồi không biết tung tích ra sao, còn Nguyễn Huệ quả không có ý chiếm đoạt, nay người ta bịa đặt ra rằng cướp nước, xin thượng hiến lấy danh nghĩa bá cáo cho mọi người, lại tâu lên đại hoàng đế để đem mấy chục vạn thủy lục quan binh các tỉnh, định thời hạn đem sang tiễu trừ, lại sức cho thần dân bản quốc các nơi chia nhau ứng phó, những kẻ bất mãn trong nước trong lòng khấp khởi, chỉ vì người trong họ nhà Duy Cẩn bỏ nước mong lấy lại, gây chuyện can qua nên tâu lên sự việc không rõ ràng khiến thiên triều vì lòng thành mà cực chẳng đã phải điều động đến binh đao.

Trộm nghĩ thân thuộc nhà Duy Cẩn có lẽ vì hung hăng quá mà đành lòng làm thế chứ bản quốc bốn năm năm nay đói khổ điêu tàn chưa hồi phục, một khi thiên binh nhập quốc, ngoài việc bầu nước giỏ cơm ra đón chắc không thể cung ứng nổi, nhân dân trẻ già lớn bé trốn tránh hết, thật không phải là điều thuận tiện cho thượng hiến tuyên bá lòng nhân ái của hoàng đế đến phương xa, ban bố huệ đức cho dân chúng, vậy xin tra xét rõ ràng việc Nguyễn Huệ nhập quốc rồi lại trở về, cùng nguyên do việc thần dân bản quốc khẩn cầu Nguyễn Huệ ở lại cai trị, để cho Duy Cẩn cùng văn võ quan viên tiếp lãnh mẹ con, quyến thuộc Duy Kỳ về nước an dưỡng. Còn như Duy Kỳ gây hấn để đến nỗi mất nước, nếu không chết thì cũng lưu lạc nơi đâu không có tin tức gì, mọi chuyện xin vì bản quốc mà đề đạt lên đại hoàng đế để truyền chỉ xử phân, miễn cho thần dân bản quốc cái khổ binh qua, ấy là công đức thương xót, giải nạn của thượng hiến vậy. Duy Cẩn cùng toàn thể tông tộc vô cùng đội ơn, nay trình lên.

Xin đệ lên thổ vật hai chiếc sừng tê, nặng bảy cân một lượng, một trăm súc lụa. Nay sai tông nhân hai người là Lê Duy Phùng, Lê Duy Trọng cùng ba văn quan theo hầu là Nguyễn Nha, Võ Huy Phác, Trần Bá Lãm, ba viên võ quan theo hầu là Nguyễn Ðình Khoan, Nguyễn Ðăng Cai, Lê Huy Tán.

Càn Long năm thứ 53, ngày 22 tháng Mười [19-11-1788].
[Tờ biểu trên đây tuy có thể nhiều phần không đúng sự thật nhưng có một điểm chúng ta có thể cải chính. Trước đây, sử ta đều dựa theo Hoàng Lê nhất thống chí mà chép rằng khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang, Lê Duy Kỳ theo về đến Thăng Long, lúc đó mới trả ân báo oán, trong đó có việc chặt chân ba hoàng thúc vứt xuống giếng trong cung. Nhưng theo lá thư này, việc ba người chú Lê Duy Kỳ bị giết xảy ra từ khi mới lên nắm quyền trước khi lưu vong. Chúng ta cũng biết được tên của ba người hoàng thúc đó là Lê Duy Lữ, Lê Duy Lân, Lê Duy Hội. Theo HLNTC thì những người viết lá thư này là Nguyễn Quí Nhạ, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn cũng bị hạ ngục khi Lê Duy Kỳ trở về, chỉ có Nguyễn Bá Khoan được miễn vì dốt nát, già cả. Một giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo Ba Lê (Société des Missions Étrangère de Paris) cũng nhắc đến một sắc dụ của Nguyễn Huệ trong đó kết tội “Chiêu Thống đã phạm trọng tội gian dâm và loạn luân ghê tởm với em gái ông và sát nhân vì ông đã cho giết một cách dã man ba người chú ông và một người vợ của Cảnh Hưng, tổ phụ ông …” để đưa ra một trọng thưởng cho người nào bắt được Lê Duy Kỳ. Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …” Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 187]

Xem như thế, khi nghe tin quân Thanh sắp sửa kéo qua, nhà Tây Sơn cũng hết sức nỗ lực dùng đường lối ngoại giao mềm mỏng để yêu cầu đối phương bãi binh.]

----------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tôn Sĩ Nghị triệu tập đại hội tướng sĩ, tuyên bố quân luật gồm tám điều:

• Một là: Đại binh xuất quan vốn là để tiễu trừ nghịch tặc, yên dân. Khi đi qua các địa phương, phải giữ đội ngũ chỉnh tề, không được quấy nhiễu dân chúng, cướp bóc chợ búa, cửa hàng.

• Hai là: Bên ngoài cửa ải có núi cao rừng rậm, nơi đó vốn dễ bị phục kích. Nên trước tiên phải san phẳng đá tảng, chặt bỏ cây cối, bụi rậm, khiến cho có thể nhìn một lượt rõ ràng, để yên tâm tiến quân. Nếu có nơi nào đất mới mềm xốp, càng phải đặc biệt lưu ý xem xét, để phòng ngừa quỷ kế.

• Ba là: Phàm nơi đại binh đóng quân, phải trước tiên xem xét địa hình, chiếm cứ vị trí hiểm yếu, dễ kiếm nước và cỏ, không được gần rừng rậm. Bốn phía phải đào hào đắp lũy, đốc thúc binh lính, ngày đêm tuần tra cảnh giới, lại phải cử người đi thăm dò tình hình ở cách xa mười dặm, không được ồn ào, dễ gây hoảng loạn.

• Bốn là: Người phương Nam đánh trận thường dùng sức voi, điều mà nội địa không quen. Gặp phải ắt phải tránh trước. Nhưng không biết rằng sức voi tuy lớn, rốt cuộc cũng chỉ là thân thể huyết nhục, không thể chống lại hỏa khí của ta; nếu thấy voi ra trận, ở xa thì dùng súng pháo, ở gần thì dùng cung đao, khiến chúng bị đau mà quay đầu bỏ chạy, tự giẫm đạp lẫn nhau. Binh lính của ta thừa cơ truy sát, ắt thắng không nghi ngờ. Phải tuyên bố rõ ràng cho binh lính biết điều này.

• Năm là: Binh lính phương Nam không có tài cán gì khác, toàn dùng phún đồng噴筒 làm vũ khí lợi hại, gọi là hỏa hổ火虎. Khi hai quân giáp chiến, chúng dùng thứ này để đốt quần áo người, khiến người ta lùi lại; nhưng thuật của chúng chỉ có thế, so với súng pháo của ta kém xa. Đã chế tạo hàng trăm tấm chắn bằng da trâu sống. Nếu người phương Nam phun hỏa hổ, binh lính ta một tay cầm khiên đỡ lửa, một tay cầm đao chém loạn, chúng ắt sẽ tan rã.

• Sáu là: Đại binh hành quân, nếu gặp khe suối, sông rộng nước sâu, phải chặt tre gỗ, dựng cầu phao để binh mã qua sông; còn sông hẹp nước nông, các binh sĩ, quan viên phụ trách phải thử nghiệm chắc chắn, rồi lệnh binh lính lần lượt nối đuôi nhau tiến vào. Khi gần nước không được tùy tiện vứt dây mồi lửa, thuốc súng xuống, kẻo bị ướt.

• Bảy là: Củi đun hàng ngày của đại binh đã có bạc quan cấp phát, chỉ được giao lưu thân thiện với người phương Nam, không được tự ý chặt cây cối trong làng xóm, gây tranh chấp. Nếu ở gần rừng núi một hai dặm, cũng phải cử binh lính bảo vệ những người đi lấy củi, không được tự ý đi xa, gây ra chuyện khác; còn việc lấy nước nấu cơm, cũng phải do các binh lính, quan viên phụ trách kiểm tra xác nhận là sạch sẽ không độc hại mới cho lấy uống.

• Tám là: Binh lính bị thương, mắc bệnh, cấp trên phải kiểm tra xác nhận rồi bẩm báo, cho phép họ trở về doanh trại, để tỏ lòng thương xót, an ủi; hoặc có binh lính giả vờ bị thương, giả bệnh, vọng tưởng được về nhà, một khi bị tra ra, lập tức xử theo quân pháp. Vả lại, lần dùng binh này phải đi xa qua sa mạc, triều đình thương xót, đã ngoài lệ mỗi binh lính cấp thêm một phu (người vận chuyển). Quan phụ trách trước hết phải dụ dỗ giảng giải, binh lính và phu cũng phải thương yêu nhau, không được tùy tiện sai khiến. Còn khi binh lính hành quân, khí giới phải mang theo người, không được tự mình tay không mà đi, giao phó hết cho phu dịch vận chuyển đến nỗi không chịu nổi, dẫn đến việc bỏ trốn giữa đường. Lại nữa, số phu nhiều, khó kiểm soát, dễ có trường hợp doanh trại trước lẫn vào doanh trại sau, không quen biết nhau, dễ gây hỗn loạn, ắt phải cấp cho mỗi phu một thẻ đeo lưng, ghi tên, số hiệu doanh trại để dễ phân biệt.

Các điều quân luật trên, binh lính và quan viên đều phải nghiêm chỉnh tuân theo, nếu có kẻ vi phạm, nhất luật xử theo quân pháp, không tha.

--------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 28 tháng Tám năm Mậu Thân, Càn Long 53 [dương lịch ngày 27 tháng 9 năm 1788], Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh chuẩn bị xuất phát. [Ðề đốc Quảng Tây là Tam Ðức đã bị bệnh mất ngày mồng 8 tháng Bảy năm đó [9-8-1788], Hứa Thế Hanh (từ Chiết Giang được điều động lên thay) đem quân tới Long Châu phòng thủ (theo Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược, quyển 2 trang 1). Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 359.] Sau khi cả hai mặt trận đông và tây đều đãtruyền hịch để phô trương thanh thế, quân Thanh bắt đầu tiến sang nước ta.

Cứ như tổ chức hành chánh và quân đội của Thanh triều, đội quân viễn chinh sang đánh nước Nam được đặt dưới quyền chỉ huy của các viên chức sau đây:

– Chỉ huy tối cao: Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng

– Chỉ huy yểm trợ: Phú Cương, tổng đốc Vân Quí

- Chỉ huy quân đội (cánh quân mặt đông): đề đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh許世亨 [người Tân Ðô, Tứ Xuyên gốc người Hồi, tòng quân đánh Kim Xuyên, lập công trạng trong vụ đánh Ðài Loan nên được làm đề đốc Quảng Tây, khi bị chết ở Thăng Long được thăng Tráng Liệt Bá, ban tên thuỵ Thiệu Nghị] có hai phụ tá

- Tổng binh Quảng Tây Thượng Duy Thăng尚維昇, [thuộc Nhương Lam Kỳ Hán quân, làm tổng binh Hữu Giang trấn Quảng Tây, khi chết tại nước ta được ban thuỵ là Trực Liệt直烈] phó tướng Tôn Khánh Thành [Tôn Khánh Thành孫慶成) là chắt của Chấn Võ tướng quân Tôn Tư Khắc, một danh tướng đầu đời Thanh.]

- Tổng binh Quảng Ðông Trương Triều Long張朝龍, [Người Ðại Ðồng nhưng sang sống ở Quí Châu, từng tham dự các trận đánh Miến Ðiện, Kim Xuyên lập nhiều công lao nên thăng lên đô ti. Sau tham dự đánh Ðài Loan trong chiến dịch bình Lâm Sảng, Trang Ðại Ðiền nên được lên tổng binh Nam Áo南澳, Phúc Kiến. Khi chết ở nước ta được ban tên thuỵ là Tráng Quả 壯果).] phó tướng Lý Hóa Long

- Chỉ huy quân đội (cánh quân mặt tây): đề đốc Vân Nam Ô Ðại Kinh, [Người Trường An, đậu tiến sĩ võ đời Càn Long, làm tham tướng Ðức Châu. Khi Vương Luân nổi loạn ở Thọ Trương, ông đem quân đánh dẹp, thăng lên đề đốc Vân Nam và ở đây cho tới chết.] có hai phụ tá

- Tổng binh Thọ Xuân Ðịnh Trụ定柱 [Thuộc Nhương Hoàng Kỳ Mãn Châu, từng tham gia các cuộc chiến đánh Miến Ðiện, Kim Xuyên, thăng lên tổng binh Thọ Xuân. Ðến đời Gia Khánh có công trong việc đánh dẹp các giáo phái tại Hà Nam, Thiểm Tây. Sau lên làm đề đốc Ô Lỗ Mộc Tề烏魯木齊]

- Tổng binh Khai Hóa Tôn Khởi Giao孫起蛟) [người Võ Thành, có chiến công nên được làm ngoại uỷ đời Càn Long, tham dự đánh Kim Xuyên, sau lên làm đề đốc Quảng Ðông]

Theo những chi tiết ghi trong các tài liệu của Thanh triều (Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược, Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Ðế Thực Lục, Thanh Sử Cảo, Ðông Hoa Tục Lục và các sổ sách của Bộ Hộ, Bộ Binh …) được Lai Phúc Thuận賴福順 tổng kết trong Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh chi Quân Nhu Nghiên Cứu乾隆重要戰爭之軍需研 究 thì quân Thanh chia làm hai đạo chính: Quảng Tây và Vân Nam.

Thoạt tiên nhà Thanh điều động 5,000 quân Quảng Ðông, 10,000 quân tỉnh Quảng Tây, tổng cộng là 15,000 người. Về sau Tôn Sĩ Nghị thấy 15,000 không đủ nên lại điều động thêm 3,000 lính nữa từ Quảng Ðông, 3,500 lính từ Quảng Tây nâng con số mặt đông lên tổng cộng 21,500 người, nếu tính cả phu dịch chăn ngựa thì vào khoảng 23,000 Thanh binh các loại.

Tháng Giêng năm Càn Long thứ 54 (Kỷ Dậu, 1789), sau khi triệt binh, nhà Thanh lại đưa thêm 3,000 quân tỉnh Quảng Ðông, 2,100 quân tỉnh Quảng Tây đến Nam Quan chia ra các nơi phòng thủ, ngoài ra tổng binh trấn Hữu Giang là Vương Lâm cũng điều động từ 900 đến 1,400 quân chia ra canh phòng các cửa ải thuộc phủ Trấn An. Quân số chính thức của hai tỉnh Quảng Ðông – Quảng Tây dùng vào chiến dịch vào khoảng 3 vạn người (mặc dù một số binh sĩ chỉ mới điều động nhưng chưa di chuyển sang nước ta), không tính phu phen và thổ binh, hương dũng.

Quân Quảng Ðông từ Quảng Châu đưa tới, theo đường thủy đến phủ Triệu Khánh, qua huyện Phong Châu ra khỏi cảnh giới [biên giới hai tỉnh Quảng Ðông – Quảng Tây] vào huyện Thương Ngô, phủ Ngô Châu (Quảng Tây) đi qua phủ Tầm Châu, Nam Ninh đến bến đò huyện Tuyên Hóa, rồi từ đó đi theo đường bộ đến huyện Sùng Thiện, phủ Thái Bình, từ châu Ninh Minh mà qua Nam Quan để vào nước ta.

Năm ngàn quân (đợt I) điều động từ tỉnh Quảng Ðông gồm có bao quát (quân địa phương) và đề tiêu (quân trực thuộc đề đốc) mỗi đội 1,500 người, cánh tả, cánh hữu mỗi cánh 1,000 người, do hai tổng binh Trương Triều Long, và Lý Hóa Long chỉ huy, chia từng đội 500 người tổng cộng là mười đội lần lượt kéo đến biên cảnh Quảng Tây. Những quân này là quân mới đánh Ðài Loan, phần lớn vừa trở lại quân doanh thì đã bị xuất chinh lần nữa.

Quân Quảng Ðông vào huyện Thương Ngô (Quảng Tây) thì đã ra khỏi địa giới tỉnh mình, chiếu theo qui định về quân nhu thì khi nào còn ở bản tỉnh – từ lúc xuất quân đến khi tới giáp giới hai tỉnh – chỉ mang theo gạo ăn, không cần mang muối hay đồ ăn, còn khi đã rời khỏi bản tỉnh thì tất cả gạo muối thức ăn đều được chu cấp. Nếu thắng trận trở về thì đến bản tỉnh cũng chỉ phải mang theo gạo ăn, quan viên các tỉnh sẽ ứng chiếu cung cấp dân đinh phục dịch những nhu cầu khác.

Quan binh tỉnh Quảng Tây chiếu theo như thế mà cấp, chỉ có đến Nam Quan rồi, ở nội địa thì theo luật trong nước, ra khỏi quan thì theo luật xuất cảnh. Thế nhưng Tôn Sĩ Nghị lại ra lệnh cho những viên chức biện sự, quan binh từ khi chưa xuất cảnh cũng chiếu theo chiết giảm thực phẩm, định rằng mỗi người quan binh mỗi ngàyđược phát lương hai lần, phó tướng 1 tiền 6 phân, tham tướng, du kích 1 tiền, đô ti 7 phân, thủ bị 6 phân, thiên, bả tổng cho chí ngoại ủy 4 phân, tiền đó bao gồm cả gạo lẫn đồ ăn, muối mắm. Lính 2 phân, còn binh đinh, căn dịch (lính chăn ngựa), dư đinh (phu phen) mỗi ngày được 8 hợp 3 dược gạo. [Theo hệ thống đo lường của Trung Hoa thì 10 dược龠 là 1 hợp合, 10 hợp là một thăng 升, 10 thăng là 1 đẩu 斗, 10 đẩu là 1 thạch 石. Theo cách tính đong gạo, đời Thanh một thạch là 125 cân, thời Dân Quốc lại là 150 cân. Một cân đời Thanh là 596 gram. Như vậy 1 thạch là 74.5 kg, 1 đẩu là 7.45 kg, 1 thăng là .745kg, 1 hợp là 74.5 gram, 1 dược là 7.45 gram. Trung Quốc Lịch Sử Ðại Từ Ðiển, (Thượng Hải từ thư, 2000)]

Cứ tính theo lương bổng lúc bình thời, việc cấp dưỡng như thế bị giảm bớt nhiều, nếu tính một tháng thì phó tướng bị bớt đi 2 lượng 4 tiền, tham tướng, du kích 1 lượng 2 tiền, đô ti 9 tiền, thủ bị 6 tiền, thiên thống 8 tiền, bả tổng, ngoại ủy 3 tiền, binh lính phu phen 3 tiền. Ðổ đồng ra lương lậu bị giảm khoảng 30%, trong đó thiên tổng, binh đinh bị giảm nhiều nhất. [Mặc dù Tôn Sĩ Nghị giảm lương vì muốn tiết kiệm ngân sách nhưng cũng vì thế mà quan binh trong lòng bất mãn nên không có chí chiến đấu, gặp lúc núng thế liền bỏ chạy như khi tại Thăng Long sau này.]

Vào thời kỳ này bên ngoài cũng như bên trong Nam Quan, mưa dầm rất nhiều, đường đi lại càng khó khăn, mấy năm liền bị hạn hán nhưng từ vào thu đến nay lại quá nhiều nước, nhiều đoạn đường núi bị ngập. Từ Nam Quan đến Thăng Long, đường khoảng 600 dặm, đi qua ba con sông Thọ Xương, Thị Cầu, Phú Lương, nước sông chảy xiết, binh mã qua lại rất khó khăn, phải đến trung tuần tháng Mười trời tạnh ráo, đại binh lúc ấy mới tiến qua được. Bốn ngàn quân lính phòng thủ các ải của tỉnh Quảng Tây vì bị mưa dầm nên rất đông người bị bệnh. Còn quân của tỉnh Quảng Ðông bị điều đi từ cuối tháng Chín, mất 10 ngày từ mồng 1 đến ngày 11 tháng Mười [29-10 đến 8-11-1788] tất cả mới ra khỏi cảnh giới nhưng phải sau ngày 20 tháng Một [17-12-1788] mới đến được Nam Quan.

Tôn Sĩ Nghị không đợi cho quân Quảng Ðông đến đủ số đã ra lệnh phát binh, đích thân hối thúc quan binh, cho rằng đã trễ lắm rồi. Thế nhưng thời đó bên ngoài Nam Quan trời mưa tầm tã, quân có đi cũng ướt át lầy lội, nếu ra khỏi cửa quan rồi đứng lại chờ thì cũng thế, đành phải đợi đến trung tuần tháng Mười về sau, trời tạnh ráo mới tiếp tục đi.

Ngày 28 tháng Mười, giờ Mão [25-11-1788] quân Thanh tế cờ mở cửa ải tiến qua. Tôn Sĩ Nghị đích thân đưa 3,800 quân tỉnh Quảng Tây, thêm 1,500 quân tỉnh Quảng Ðông, tổng cộng 5,300 người xuất phát, tới Lạng Sơn thì đóng quân đợi viện binh. Ngày 12 tháng Một [9-12-1788], thêm 3,500 quân Quảng Ðông, 1,200 quân tỉnh Quảng Tây đến, Tôn Sĩ Nghị phân bố 2,000 quân phòng thủ trên đường đi, đưa 8,000 quân tiến lên.

Về tỉnh Quảng Tây, ngoài 5.000 quân bản bộ, Tôn Sĩ Nghị cũng điều động 4.000 quân đang trấn giữ ở Nam Quan và các cửa ải, lại tuyển thêm 1.000 quân bổ sung thành 5.000 người nâng quân số của tỉnh Quảng Tây lên tổng cộng 10,000 người. [nguồn: Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 360.] Ngoài lính ra, Quảng Tây còn mang theo 423 con ngựa, về sau tăng viện 3,500 binh sĩ, tổng cộng 13,500 quân và 423 ngựa.

Tính như thế tổng cộng số quân do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy bao gồm hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây là 21,500 quân và 751 con ngựa. Trong số này, khoảng chừng 18,000 người qua Nam Quan tiến vào Thăng Long, 5,000 còn lại chia thành ba toán, 2,000 người ở lại phòng thủ Lạng Sơn, 1,300 người chia ra canh gác 17 kho lương thực được thành lập dọc theo tuyến đường từ Lạng Sơn đến kinh đô, 1.700 người khác chia ra canh phòng các nơi hiểm yếu.[Tôn Sĩ Nghị vốn dĩ định sau khi chiếm được Thăng Long rồi sẽ đem quân đánh vào Quảng Nam nên đã dự bị thủy lục hai mặt, quân thủy nửa tháng sau sẽ qua nhưng vì thuyền lớn qua không được mà cửa sông Nhĩ Hà thì quân địch đã chặn rồi nên ra lệnh cho đóng 40 chiến thuyền, đủ sức chở 2,000 quân, lập thêm 25, 26 trạm trên bộ cách nhau chừng 8, 90 dặm, ngoài ra còn xây thêm 53 trạm lương thực nhưng vì sau này bị thua ở Thăng Long nên những công tác này không thực hiện.]

Ðường qua nước ta lắm rừng nhiều núi, súng lớn大礟 không thể mang theo được nên chỉ đem được loại nhỏ hơn gọi là phách sơn pháo劈山礟 vì tương đối gọn nhẹ dễ vận chuyển. Có điều Quảng Tây lại không được trang bị loại súng này, Tôn Sĩ Nghị phải điều động đem 20 khẩu phách sơn pháo từ Quảng Ðông sang.

Các phủ Khai Hóa và Lâm An của Vân Nam thông với An Nam, trong đó huyện Mông Tự tiếp giáp với trấn Hưng Hóa của nước ta, từ Lâm An đến biên giới khoảng chừng hơn 30 trạm, từ biên giới Hưng Hóa đến Thăng Long, xa gần thế nào, qua những vùng nào thì quân Thanh cũng không biết đích xác. Từ Lâm An đến biên giới phải qua 3 con sông, đều phải qua đất của dân thiểu số, chướng khí rất nặng, nước sông tuy chảy xuôi nhưng lại không có thuyền bè gì mà qua được, cũng chẳng biết là đi đến đâu. Một đường do phủ Khai Hóa tới Mã Bạch Quan rồi qua Tuyên Quang xuống Thăng Long, lộ trình phải qua hơn 20 trạm, gần hơn lối Mông Tự, khí hậu cũng dễ chịu hơn, lại không xa đất Cao Bằng, Lạng Sơn.

Ngày 15 tháng Chín [13-10-1788], tổng đốc Vân Quí là Phú Cương phụng chỉ điều 3,000 quân từ ba phủ Khai Hóa, Lâm An, Quảng Nam (thuộc Vân Nam), lại sai tổng binh Khai Hóa Tôn Khởi Giao đưa thêm 2,000 quân của hai phủ Lâm An, Khai Hóa đến đóng tại Mã Bạch Quan, cùng với 3,000 người ở các doanh khác, định ngày mồng 10 tháng Một sẽ cùng đến biên giới nước ta.

Ngày 13 tháng Một [10-12-1788], Phú Cương dẫn 1,000 binh đến Mã Bạch, cộng thêm 2,000 quân trú đóng sẵn nơi đây chia thành từng đội định ngày 17 [14-12] ra khỏi cửa ải. Tuy nhiên vì phu lương chưa đủ nên phải hoãn lại đến giờ Thìn ngày 20 [17-12] mới khởi trình, 3,000 binh chia làm ba ngả sai phó tướng Ðịnh Trụ đi đầu, Phú Cương, Ô Ðại Kinh dẫn hai đội theo sau. Còn những binh lính chưa tới kịp thì sau đó sẽ đi.

Theo Sư Phạm trong Chinh An Nam Kỷ Lược thì cánh quân Vân – Quí điều động 20,000 dân phu, chia ra để vận chuyển 25 đài trạm. Ngoài ra họ cũng dùng đến 2,000 con ngựa và 2,000 con bò để chuyên chở lương thực.

Ra khỏi cửa ải đường rừng rậm rạp, lộ trình càng thêm hiểm trở, 1,000 lính thuộc phủ Quảng Nam và 500 lính thuộc phủ Phú Châu thông thạo đường lối nên đi trước dẫn đường. Quân Thanh phải đi qua những triền núi rất hẹp, leo trèo, dắt díu nhau mà tiến theo hàng một, mỗi ngày chỉ đi được ba bốn chục dặm.

Tính như thế tổng cộng tất cả quân số của Vân Nam – Quí Châu sử dụng là 8.000 người do Ô Ðại Kinh và Ðịnh Trụ chỉ huy nhưng đợt đầu tiên chỉ đem 3.000 quân đi trước, 5.000 quân đóng tại biên giới chờ lệnh. Theo tài liệu của nhà Thanh, tổng đốc Vân Quí Phú Cương tình nguyện chỉ huy 5.000 quân cùng với đề đốc Ô Ðại Kinh xuất quan nhưng vua Càn Long không bằng lòng, lấy lý do là một đoàn quân không thể có hai nguyên soái ngang nhau, không người nào dưới người nào. [nguồn: Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 363.] Thành thử khi ra khỏi cửa ải chỉ có Ô Ðại Kinh và Ðịnh Trụ mà thôi.

Các trấn, hiệp, doanh tại đốc phủ đề lân cận cũng được lệnh chuẩn bị thêm vài nghìn quân để điều động sau, tính ra riêng tỉnh Vân Nam cũng đã dự bị cả thảy hơn một vạn quân. Ngoài ra còn thổ quan châu Bảo Lạc là Nông Phúc Tấn農福縉 cũng tình nguyện đem 2.000 quân đi theo, Tôn Sĩ Nghị liền sai y tấn công Cao Bằng. Thổ ti Ðiền châu田洲 là Sầm Nghi Ðống 岑宜棟 cũng dẫn 2.000 thổ binh đến Thái Bình [Quảng Tây] đi theo quân Thanh. Nhiều tài liệu chỉ chép số quân của Sầm Nghi Ðống là 1500 người nhưng các con số trên đây trích từ chính tấu thư của Tôn Sĩ Nghị (KDANKL, quyển X, tr. 14)] Ngoài ra còn thổ quan (quan lại người thiểu số ở các vùng trung, thượng du nước ta) Ðô Long都龍 là Hoàng Văn Trăn黃文溱 và thổ quan Bảo Thắng保勝 là Hoàng Văn Thao 黃文韜 cũng đem quân đi theo để đánh Tây Sơn. Riêng mạc hữu xưởng Ba Bồng波篷 là Lâm Tế Thanh 林際清 được nhà Thanh đặc thưởng hàm tri huyện, thống suất những người trong xưởng đi theo quân Thanh.

Ở cánh quân Vân Quí, nhà Thanh cũng điều động 1,500 thổ binh vùng biên giới Hoa – Việt để dẫn đường nhưng cánh quân này không đụng độ với quân Nam thì đã rút về nước. Tổng số thổ binh như vậy vào khoảng 5,500 quân mặc dầu không ít quân của một số châu huyện phía bắc nước ta cũng nhân dịp này tiếp tay với địch, gia nhập đoàn quân viễn chinh.

Quan binh hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây cùng các phu phen, binh lính chuyên chở lương thảo, đường bộ và đường thủy, tốn phí tổng cộng hơn 70,800 lượng bạc. Năm Càn Long thứ 53, tỉnh Quảng Ðông điều động 5.000 quân, đem theo 266 con ngựa, Quảng Tây điều động 10,000 quân cùng 423 con ngựa. Năm Càn Long thứ 54 lại điều thêm 3.000 quân tỉnh Quảng Ðông, thêm 62 con ngựa, tỉnh Quảng Tây thêm 3,500 binh sĩ nhưng không đem thêm ngựa. Theo tiêu chuẩn mỗi con ngựa là 2 người phu thì họ phải điều động thêm khoảng 1.500 dân phu để phục dịch cho 751 con ngựa, riêng cánh quân phía đông (Lưỡng Quảng) tổng cộng cả lính lẫn phu chăn ngựa lên khoảng trên dưới 23,000 người. Cũng nên nói rõ là ngựa mà quân Thanh dùng trong chiến dịch không phải là loại ngựa chiến mà là loại ngựa bản địa, nhỏ nhưng dai sức để dùng cho quan quân cưỡi và chở đồ đạc, súng đạn. [Trong chiến dịch đánh An Nam, rút kinh nghiệm các trận đánh ở Miến Ðiện, nhà Thanh đổi chiến lược không điều động kỵ binh từ miền bắc xuống mà chỉ dùng quân địa phương, thổ binh và chủ yếu phương tiện của bốn tỉnh miền tây nam giáp với nước ta. Chính vì thế, công tác chuẩn bị cũng nhanh mà lực lượng điều động cũng nhỏ (nhỏ nhất trong mười chiến dịch đời Càn Long), không ghê gớm như chúng ta thường tưởng tượng.]

Ngựa được nuôi bằng đậu mà tỉnh Quảng Tây không sản xuất được đậu nên khi đi qua châu huyện nào thì các trạm sẽ ứng chiếu cung cấp bốn thăng thóc, mỗi thạch trả cho 4 tiền, 10 cân cỏ tính thành một bó.

Ra khỏi cửa ải rồi (tức qua bên nước ta) trên đường tới Thăng Long vì đường đi gập ghềnh hiểm trở, đất bằng rất ít, ngựa không thể đi nhanh nên tính theo lối cũ, mỗi con ngựa ngày cho ăn 4 thăng đậu như lúc bình thời nuôi doanh mã, thêm 5 thăng 3 hợp 3 dược thóc nhưng vì ra ngoài không có thóc cho ngựa ăn nên đổi thành 2 thăng 6 hợp 6 dược gạo và 2 bó cỏ, chiếu quân nhu tính giá là 2 phân bạc.

Những quan binh không có ngựa thì chiếu tiền nuôi ngựa mà cấp cho để trả phu phen. Tổng kết lần này quan binh Lưỡng Quảng, cả lính lẫn ngựa cùng phu phen, hao phí 22,153 lượng bạc, gạo 2,804 thạch gạo. Những quan đi ngựa trên bộ, mỗi con ngựa được cấp hai người phu, còn những phu phen, ngựa cần thêm thì các trạm tùy theo nhu cầu mà cung ứng, nếu không có đủ thì bắt thêm dân phu. Phu phen cứ theo lệ mỗi người được trả 5 phân bạc, không có gạo nhưng lần này ở quan nội thì mỗi người được 5 phân, ra quan ngoại thì được 8 phân, mỗi ngày được một thăng gạo. Trước đây khi ra đánh các vùng quan ngoại (miền bắc) thì ngựa cho thả rong kiếm ăn nhưng lần này Thanh triều phải cấp gạo cỏ cho ngựa vì tình hình địa thế không giống nơi khác.

Ngoài thành phần lính chính qui, quân Thanh còn có thêm những đoàn dân phu đi theo để chăn ngựa, khuân vác nhưng không rõ rệt là bao nhiêu, được sử dụng theo từng công tác hay đi kèm theo với quân đội. Ðể làm công tác vận tải súng ống, quân dụng, canh giữ và chuyển vận lương thảo … đóng rải rác dọc theo trục lộ tiến quân hay phục dịch tại mặt trận họ cũng điều động một lượng dân phu tính ra còn đông hơn cả binh sĩ.

Số người này phần lớn là dân chúng vùng nam Trung Hoa bị bắt đi làm công không lương (được cơm ăn trong số gạo họ mang vác) và cả một số người Việt tại các vùng biên giới. Riêng cánh quân Quảng Tây đã lên đến 54,000 người. Con số dân phu Vân Quí như trên đã viết là 20,000 người để vận chuyển 40,000 thạch gạo. Ngoài ra, dân phu thường xoay chuyển (rotation) hết đoàn này đến đoàn khác nên qua lại nhộn

Khó khăn về tiếp liệu cho quân đội vẫn là trở ngại lớn lao nhất mỗi khi quân Tàu sang đánh nước ta. [Không riêng gì quân Thanh ở cuối thế kỷ XVIII, 500 trước quân Mông Cổ cũng lâm vào những khó khăn tương tự. Ðoàn quân ngoại nhập phải mang theo một số lượng thực phẩm rất lớn cho cả quân đội lẫn phu phen. Nhà Nguyên cũng phải thiết lập nhiều trạm tiếp vận, cách nhau 30 dặm (khoảng 15 km) và một dịch trạm mỗi 60 dặm (30 km). Trong một lá thư của quan chức nhà Nguyên gửi triều đình có đề cập đến những khó khăn như sau:

Ngay từ thời cổ, khi điều binh thì luôn luôn phải sao cho hợp với thiên thời. Trung Nguyên đất phẳng, vậy mà ta cũng vẫn phải tránh cái nóng mùa hè. Còn như Giao Chỉ là nơi oi nồng ôn dịch, khí hậu nơi đây khiến cho quan quân thiệt hại còn nhiều hơn cả đối phương tấn công. Nay ta lại điều binh xuống vào tháng Bảy, trước khi tới được An Nam đã chết mất khá nhiều, thế thì khi gặp địch làm sao mà đối phó? Xứ Giao Chỉ lại chẳng có gạo thóc, thủy đạo bất tiện, không thể không tiếp tế bằng đường bộ nhưng lại không có ngựa, bò, xe cộ. Mỗi người có thể mang được 5 đấu, nhưng trên đường đi phu cũng phải ăn, thành thử quân chỉ còn được một nửa. Cho nên nếu như muốn gửi tới 100,000 thạch gạo thì phải dùng đến 40 vạn phu để chuyên chở, mà gạo đó cũng chỉ đủ ăn 1 đến 2 tháng mà thôi. (Quảng Tây thông sử) bản đời Gia Khánh (1796-1821) (Quảng Tây Nhân Dân Xb xã tái bản, 1988) Vol VIII, chương 187, trang 5032.] Ðể giải quyết vấn đề lương thực, Tôn Vĩnh Thanh tâu lên vua Càn Long để tạm thời đặt tổng hành dinh tại phủ Thái Bình (Quảng Tây) do quận đạo Diên Kiến延建 là Lục Hữu Nhân陸有仁 phối hợp với tri phủ Thái Bình Lâm Hổ Bảng林虎榜 cùng lo toan. Khi quân ra khỏi Nam Quan rồi thì lúc ấy binh lương sẽ do các lương trạm 糧站 cung ứng. Các lương trạm này do Hữu Giang Ðạo Tống Văn Hình宋文型 cùng tri phủ Nam Ninh Cố Quỳ (顧葵), tri phủ Trấn An Trần Ngọc Lân 陳玉麟 quản lý. Ðể chi phí, ngoài số lượng hơn 30 vạn lượng bạc tồn ngân của tỉnh Quảng Tây, Tôn Vĩnh Thanh phải tâu về triều để yêu cầu các tỉnh phụ cận phụ thêm hơn 50 vạn lượng nữa cho đủ chi dụng. [Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 363]

Riêng hai tỉnh Lưỡng Quảng, phu phen và tiền chuyên chở cả bộ lẫn thuỷ để từ các nơi tập trung đến cửa Nam Quan trước khi ra đi cũng đã tốn 70,800 lượng bạc. Còn về ngựa thì phải nuôi bằng đậu mà tỉnh Quảng Tây không sản xuất được nên các trạm sẽ phải thay thế bằng thóc, mỗi thạch tính giá 4 tiền, còn cỏ thì mười cân tính thành một bó. Sau khi ra khỏi ải, đường đi từ Nam Quan đến Thăng Long gập ghềnh khó đi, hiểm trở nên không thể đi nhanh, ngựa cho ăn theo lối cũ, mỗi ngày 4 thăng đậu thêm 5 thăng, 3 hợp, 3 dược thóc nhưng vì không có thóc nên đổi thành 2 thăng, 6 hợp, 6 dược gạo và 2 bó cỏ, chiếu quân nhu tính thành tiền là 2 phân bạc.

Những quan binh nào không có ngựa thì chiếu tiền nuôi ngựa mà trả cho phu phen. Quan đi ngựa trên bộ thì mỗi con được cấp hai mã phu, đi đến trạm nào thì trạm ấy phải lo, nếu không có mã phu thì bắt dân phu thay thế. Phu theo lệ mỗi người là 5 phân bạc, ra khỏi nước thì được 8 phân và một thăng gạo.

Quân của tỉnh Quảng Ðông đi từ Quảng Châu tới theo đường thủy đến Triệu Khánh, qua Tầm Châu rồi đi theo đường bộ đến Ninh Minh để qua Nam Quan. Quân Thanh chia thành từng đội mỗi đội 500 người, phải tự mang gạo nhưng muối và đồ ăn tới đâu thì quan lại địa phương cung cấp, chỉ khi đã qua khỏi Nam Quan vào địa giới nước ta thì mới được hưởng luật xuất cảnh. Cũng theo Lại Phúc Thuận, viên chức và binh sĩ được cấp phát theo biểu xuất sau đây:

Tiền này là tiền lương bao gồm cả gạo lẫn đồ ăn, mắm muối cho một ngày. Theo tính toán của Lai Phúc Thuận, nếu tính ra lương tháng thì đổ đồng mỗi người mất đi 1/3 lương, quả là một thiệt thòi lớn. Có điều chúng ta không rõ khi bớt lương như thế, các quan binh có được hứa hẹn gì về việc truy lãnh sau này, hay trợ cấp gì cho gia đình không. Tuy nhiên điều đó cũng xác định rằng công khố của nhà Thanh ở địa phương hay trung ương cũng đều kiệt quệ nhất là vào thời gian này, Thanh triều đang tập trung tài vật chuẩn bị buổi tiệc thọ bát tuần của vua Càn Long, một đại lễ hết sức tốn phí và huy hoàng năm 1790. Nhà Thanh cũng phải đúc thêm một loại tiền đặc biệt để dùng trong chiến dịch đánh Ðại Việt, một mặt có bốn chữ Càn Long Thông Bảo 乾隆通寶 một mặt có hai chữ An Nam安南. [nguồn: Nguyễn Anh Huy, Lịch Sử Tiền Tệ Việt Nam: Sơ Truy và Lược Khảo (2010) tr. 151 Tấm ảnh của đồng tiền này có in trong trong Phụ Lục Ảnh Màu của tài liệu trên. Xem thêm Annam and its minor currency (Ed. Toda 1882) phần II, chương XX Chinese intervention in Tunquin, and the Nguyen Dynasty].Ðây là loại tiền đúc ra để tiêu trên đất nước ta và giá trị của nó tùy theo hàng hóa có thể mua được [Vào thế kỷ XVII, XVIII tiền tệ có thể dùng lẫn lộn tại nhiều nơi và lưu hành nhiều loại tiền cùng một lượt ở nước ta.] là nỗ lực của Thanh triều đẩy việc binh lương sang dân An Nam, trên danh nghĩa thì vẫn là mua thực phẩm nhưng thực ra họ không tốn phí gì bao nhiêu, đã không mất của lại chẳng tốn công chuyên chở từ Trung Hoa sang. Việc thúc bách đó Tôn Sĩ Nghị giao cho vua Chiêu Thống nên dân chúng chỉ nghĩ rằng vua Lê gom góp thóc lúa dâng cho giặc mà thực ra ông cũng chỉ là nạn nhân.

Theo như sử sách thì quân Thanh không điều động bát kỳ binh (tức quân Mãn Châu) mà chỉ dùng Hán quân (tức Lục doanh). Ngoài ra họ còn sử dụng một số lớn thổ binh tức là những cánh quân riêng trực thuộc những thổ ti, thổ hào, châu mục, tù trưởng … các dân tộc thiểu số ở khắp miền tây nam Trung Hoa (và một số ở miền bắc nước ta, biên giới Hoa Việt). Dẫu cho đoàn quân ngoại nhập này có được sự hưởng ứng và tiếp tay của quân binh nhà Lê cùng một số Hoa kiều đang sinh sống trên đất nước ta, tổng số binh sĩ chiến đấu dưới quyền Tôn Sĩ Nghị không quá 5 vạn người (mặc dầu số dân phu có thể thêm nhiều vạn người khác) trong số đó một phần được phân chia để giữ các trục lộ tiến quân và vận chuyển lương thảo nên con số vào được đến Thăng Long để chia ra trú đóng phải thấp hơn. Bỗng dưng có thêm hàng chục vạn người ở khắp nơi hẳn sinh hoạt bình thường của quần chúng bị xáo trộn và vì thế con số được thổi phồng hơn cả sự thực. [Trong bất cứ lần Nam chinh nào, Trung Hoa đều gặp phải những khó khăn tương tự và quân đội điều động tuy có lớn trên số lượng nhưng thành phần binh sĩ chiến đấu chỉ là 1/4, 3/4 còn lại là phu khuân vác thường là các sắc dân thiểu số vùng Vân – Quí và người dân tại hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây. Nếu với tỉ lệ tương ứng, quân Thanh tuy tiếng là 20 vạn nhưng thực ra chỉ độ 5 vạn quân chiến đấu, 15 vạn kia là phu phen. Những số liệu đó phù hợp với con số mà sổ sách binh nhu, chi phí của nhà Thanh trong chiến dịch và cũng phần nào giải thích được tại sao Nam sử lại chép một số lượng quá chênh lệch với số quân nhà Thanh điều động.]

Riêng tại kinh đô, quân Thanh được trải mỏng ra nhiều khu vực ngoại ô để bảo vệ cho chủ tướng. Ðó cũng là lý do tại sao nhiều tài liệu của Âu Châu cho thấy quân Thanh trông rất nhếch nhác, đi đâu mang cả nồi niêu vật dụng thật bệ rạc. Số lượng đông đảo như thế trú đóng ở một thành phố nhỏ bé như Thăng Long thời đó quả là một vấn đề, việc ăn ở sinh hoạt không đơn giản, dễ dàng gây ra bệnh truyền nhiễm, dịch tễ … còn nguy hiểm hơn cả chiến tranh. Các phủ đệ của vua Lê và chúa Trịnh khi ấy cũng đã bị phá tan hoang rồi nên quân Thanh phải đóng quân ở bên ngoài, thời tiết khắc nghiệt của năm ấy khiến cho họ lâm vào cảnh hết sức khốn khổ lúc nào cũng chỉ mong được trở về đoàn tụ với gia đình nhất là vào dịp cuối năm.

Hai đường xuất binh Quảng Tây, Vân Nam thì việc truyền tin của quân Thanh về triều đình cũng chia làm hai nhánh.

Cánh quân Quảng Tây theo đường đi từ Trực Lệ qua Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, các tỉnh phía trên Hồ Bắc thì từ Võ Xương xuống phía nam qua Nhạc Châu, Hồ Nam, Trường Sa, Hành Châu vào cảnh giới Toàn Châu, Quảng Tây, qua Quế Lâm, Liễu Châu, Thái Bình rồi trở lại Ninh Minh, đi qua Nam Quan, xuống Lạng Sơn tới Thăng Long. Từ Hồ Nam về bắc thì sử dụng các dịch trạm để truyền tin, không phải thêm đài trạm, còn tỉnh Quảng Tây vốn dĩ chưa thiết lập dịch trạm, từ Toàn Châu đến biên giới tới Nam Quan tổng cộng là hơn 1.800 dặm đã sắp xếp 35 chỗ chính trạm, yêu trạm (trạm phụ), tùy theo đường bằng phẳng hay khó đi, lộ trình xa hay gần mà mỗi trạm đặt từ 1 đến 20 con ngựa, dùng tất cả 580 con.

Từ Nam Quan đến Thăng Long, thiết lập 18 trạm thông tin, mỗi trạm đặt 20 con ngựa, tổng cộng 360 con, nhu cầu cả thảy 940 con ngựa, do những châu ở quan nội có sản xuất ngựa đem đến. Còn như đường từ Thăng Long xuống Thuận Hoá, phỏng chừng phải đặt hơn 50 trạm, tùy theo đường sá phẳng hay hiểm trở mà đặt 10 hay 12 con, tính ra khoảng 5 đến 600 con ngựa nữa, sẽ phải xuất tiền ra mua nhưng về sau Tôn Sĩ Nghị thua trận chạy về nên việc này bãi bỏ.

Còn về trong địa hạt tỉnh Quảng Tây các phủ Quế Lâm, Liễu Châu, Tư Ân, Nam Ninh, Thái Bình đường đi lắm cầu khỉ, hiểm trở khó dùng ngựa, đi bộ thuận tiện hơn. Các tấu chương hay văn báo và tin tức quan binh, dân phu, những nơi người ngựa khó qua lại thì phải tu sửa còn khe suối rãnh thì phải bắc cầu nổi để qua, từ Nam Quan trở xuống có ba con sông phải làm cầu bằng tre bắc ngang để dễ dàng cho việc truyền tin tức quân sự.

Cánh quân Vân Nam thì việc truyền tin phải đi qua các tỉnh Trực Lệ, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quí Châu, từ Bình Di平彝 vào địa giới Vân Nam thì từ tỉnh Vân Nam chuyển qua Khai Hóa, tới Mã Bạch Quan rồi ra khỏi biên cảnh đi tới Tuyên Quang của An Nam, cả thảy thiết lập 25 đài trạm, còn từ Tuyên Quang đến Thăng Long lập thêm 15 trạm, cả thảy 40 trạm để truyền tin tức quân sự. [nguồn: Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 314-5]

So sánh với những chiến dịch khác (trong 10 chiến dịch của nhà Thanh đời Càn Long) thì việc truyền tin của chiến dịch này dễ dàng hơn nhiều, giao tranh lại cũng ngắn ngủi, tổng đốc Tôn Sĩ Nghị chỉ phải sử dụng có 5 cái tráp (là loại hộp có khoá được niêm phong để truyền tin quân cơ từ chiến trường về triều và ngược lại), nhưng vua Càn Long cũng đã sắp xếp nếu như tin tức binh nhung truyền đạt không sai sót thì binh đinh các dịch trạm cũng được khen thưởng.]

----------------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại trước đó, hịch văn gửi cho nước An Nam đại lược viết rằng:

"Khôi phục nghiệp đã mất, nối lại dòng đã đứt [nguyên văn興滅繼絕 Hưng diệt Kế tuyệt), đó là điều nghĩa lẽ đương làm. Há bên ngoài man di mà đến nỗi nước ngập cứu hỏa, bất đắc dĩ mới dùng binh khí. Nay nghĩ nhà Lê ở An Nam, vốn là phiên thần cống nạp của Thiên triều, ba trăm năm có lẻ cầm đất dâng lễ, cung kính phục tùng, mười lăm lộ đều được ban đất phong ấp mà cai quản nước mình. Nay vào niên hiệu Càn Long, các quốc tù [trưởng] Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ v.v... xưng binh làm loạn, đánh phá La Thành (Thăng Long). Vua Lê trước đó lo sợ mà qua đời, cháu nối ngôi là Duy Kỳ phải lưu lạc bên ngoài. Cố thần Nguyễn Huy Túc阮輝宿 phụng dưỡng mẹ và vợ cháu nối ngôi (Chiêu Thống) chạy trốn vào nội địa, khẩn khoản xin viện binh. Sau khi tra xét Túc và những người khác, cháu nối ngôi hiện đang trú ngụ tại Bắc Lạng, thần dân vẫn còn nhớ cố chủ. Nguyễn Nhạc là bọn di địch chó dê, lại tàn độc như sói lang, đến đâu cướp bóc đến đó, khiến trăm họ oán hận thấu xương. Bọn biên dân khởi loạn, trái thường nghịch lý, trời đất không dung; dám hoành hành trong nội địa, tàn ngược dân chúng, vương pháp lẽ phải trừng trị. Đã tấu trình và được Đại Hoàng đế ban chiếu chỉ, thương xót sự mất mát của nhà Lê, không nỡ thấy Giao Châu bị họa nước sôi lửa bỏng, đặc biệt sai Tổng đốc, Tuần phủ mang ấn Chinh Man Đại tướng quân征蠻大將軍, điều năm mươi vạn binh mã, thẳng đến La Thành, làm rõ tội ác của Nguyễn Nhạc và bọn chúng, không cho chúng thoát khỏi sự trừng phạt của trời. Những người thuộc nước ấy, đời đời đội ơn nhà Lê, lâu nay được nuôi dưỡng, lòng biết ơn chưa mất, cảm động từ đáy lòng, không thể đánh mất lương tâm, quên vua theo giặc. Ai có thể trước tiên cất tiếng nghĩa, dựa vào Thiên triều làm chỗ viện trợ lớn, tập hợp những người cùng chí hướng, dốc sức diệt thù, nếu chiến thắng trở về, sẽ được ghi công vào sổ bộ quân trướng. Sẽ được ban đất phong hầu, khiến cho được hưởng phúc lộc cùng với nhà Lê, như câu chuyện Trịnh Đại Da鄭大爺 [một điển tích về sự ban thưởng hậu hĩnh]. Khi hịch văn đến nơi, quân lính phấn chấn, sửa sang vũ khí, thù ghét kẻ thù của vua, đồng lòng dốc sức, ắt sẽ lập được công lớn, được ban thưởng trong quân, vĩnh viễn cùng hưởng vinh hoa phú quý trong nước, xin hãy cố gắng!"

---------------------

[Khi biết rằng Lê Chiêu Thống không có trong đám tòng vong, tình hình trở nên phức tạp. Ngay cả tôn thất nhà Lê lưu lạc sang Quảng Tây, cũng không biết vua Lê đang ở đâu, còn sống hay đã chết. Nhà Thanh cũng phân vân không biết xử trí thế nào cho phải phép vì nếu chỉ ngang nhiên nghe một bề rồi đem quân sang nước ta chưa biết sẽ đi đến đâu và cũng không có chính nghĩa (dù chỉ là giả). Việc đầu tiên Tôn Sĩ Nghị phải làm là tìm ra tung tích vua Lê cho được danh chính ngôn thuận trước khi có thể xin vua Càn Long chấp thuận cho động binh. Các tòng vong nhà Lê cũng nóng ruột muốn vua Lê ra mặt để việc cầu viện nhà Thanh được danh chính ngôn thuận. Khi được đưa về phủ Nam Ninh, sáu người trong nhóm, đứng đầu là Nguyễn Huy Túc lập tức tình nguyện theo đường núi về nước kiếm Lê Duy Kỳ, trước là thông báo tin tức gia quyến đang bình an sống bên Trung Hoa cho nhà vua khỏi khắc khoải, mặt khác giúp vua Chiêu Thống tính chuyện khôi phục để còn đón thân nhân về.

Biên giới nước Trung Quốc lúc đó giáp với nước ta bao gồm địa phận của ba tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Ðông, chỗ nào cũng có quân Tây Sơn trấn giữ, đi một đường e có chuyện bất lợi. Các quan nhà Lê chia thành hai bên, Nguyễn Huy Túc, Hoàng Ích Hiểu, Phạm Ðình Quyền ở lại chăm sóc cho tôn thất, những người kia chia thành hai đường, Lê Quýnh theo đường thủy Quảng Ðông, Nguyễn Quốc Ðống, Nguyễn Ðình Mai theo đường Vân Nam. Nguyễn Quốc Ðống lên đường ngày mồng 10 tháng Tám năm Càn Long 53 [9-9-1788], đem theo vài bảng hịch văn của nhà Thanh. Lương thực, ngựa phu và vật dụng đều được quan nhà Thanh chu cấp. Tôn Vĩnh Thanh lại trích công khố phủ Nam Ninh 300 lượng bạc, chia cho mỗi người 100 lượng làm lộ phí nhưng không tìm được vua Lê.

Khi tờ hịch được nhóm phò Lê chuyển tới tay vua Chiêu Thống, ông vội vàng viết một tờ biểu sai Nguyễn Thời Ðĩnh đem sang Trung Hoa. Lá thư đầu tiên của Lê Duy Kỳ gửi Tôn Sĩ Nghị còn tàng trữ trong văn khố [nguồn: Cung Trung Ðáng, CCBVV. Giản văn Lê Duy Kỳ ngày 24 tháng Tám năm Càn Long 53 [23-9-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 356-7] dịch ra như sau:

“… Kỳ tôi [tức Lê Duy Kỳ tự xưng] vốn còn trẻ tuổi, gặp lúc nhà nhiều tai nạn. Tháng Sáu năm Bính Ngọ (1786), giặc Quảng Nam trong nước là Nguyễn Văn Nhạc lấy danh nghĩa đánh họ Trịnh, sai em là Nguyễn Văn Bình xua quân nhập khấu, nhân vì ông của thần đang bệnh nặng nên việc phòng ngự lỏng lẻo, phủ thành không giữ được, ông của Kỳ chẳng may lìa đời, y mới hiếp chế, may nhờ lòng người chưa quên, khắp nơi nổi dậy tấn công, y đành phải vơ vét đồ dùng khí dụng, luôn cả quốc ấn đem đi.

Người dân để cho Kỳ tôi nắm quyền chủ nước cho đến tháng Chạp năm Ðinh Mùi thì Nguyễn Văn Bình phản lại anh, chiếm lấy thành Thuận Hóa, rồi quay lại cướp bóc. Khi đó nước mới kiến tạo, tài lực hai đàng đều cạn kiệt, không thể bảo vệ cương vực, khiến y tiến thẳng đến kinh thành, rồi xưng thiên hoàng đế, kỷ nguyên Thái Ðức, sưu cao thuế nặng, thật là lầm than. Dân chúng vì sợ uy lệnh nên đành phải miễn cưỡng tuân theo, Kỳ tôi phải chạy ra ngoài, cùng thần dân tính chuyện khôi phục, nhưng đại thế đã mất, ít không chống được với đông người, đỡ đông chạy tây rồi cũng phải tan.

Ðến tháng Tư năm nay (Mậu Thân), thân mẫu của Kỳ tôi cùng quyến thuộc đem thân qua quí hạt, mong được đề tấu, may được hai vị đại nhân dung nạp, xem xét rõ sự tình, yết dụ cáo tri đại nghĩa, bản hịch tới tay, Kỳ tôi cùng văn võ quan viên đọc đi đọc lại, thực cảm kích không đâu cho hết, thâm kiến hai vị đại nhân trên thì tỏ lòng nhân đức trời cao, dưới biểu lộ chỗ tình cận kề, thương cho lòng thành của kẻ thế cô bị cướp mất cơ nghiệp, nên tỏ ra thành lời.

Người dân trong nước nghe được cũng bi phẫn đứng lên, ai nấy tự sắm sửa giáp binh, công phá thành ấp, ngày ngày mong đợi vương sư kéo đến, riêng Kỳ tôi nay chỉ còn chút hơi tàn, không tự mình nổi lên được, lòng chỉ muốn đem thây gửi nơi nội địa (chỉ Trung Quốc), dựa vào oai linh của thiên triều, nhưng vìđường sá gian nan trở ngại, mỗi cử động đều bị dòm ngó, quốc ấn lại luân lạc mất rồi, nên không dám mạo muội ra mặt, e thất lễ của kẻ bầy tôi, nghĩ lại tổ tông của Kỳ này, đời đời ở cõi Nam, luôn giữ phận triều cống, nay không giữ được nước để đến nỗi lang thang hèn hạ, trên thì mất chức phiên phong, dưới thìđắc tội với dân chúng, làm phiền nhiễu cả uy phong khiến cho vương sư mất công từ xa kéo đến, Kỳ tôi thực hết sức hoảng hốt, nay không còn đất để dung thân, chỉ mong thánh đức thể niệm cho nội ngoại ai chẳng là kẻ vương thần, cúi mong hai vị đại nhân nghĩ tình lúc trước mà đề đạt lên cho thiên tử, thương xót cho kẻ cô nguy nơi hoang viễn, sinh linh đồ thán, cứu kẻ đang ở nơi nước lửa, trải rộng đức chí nhân.

Cứ trộm nghĩ theo hình thế bản quốc, phía đông, phía nam là biển cả, phương tây phương bắc tiếp giáp nội địa (Trung Quốc), bọn giặc thắng thế quen mùi trở nên kiêu ngạo, phòng thủ lơ là, trong thành cùng ngoài các đạo cựu binh chưa đầy 6 vạn, quá nửa là quốc dân bị bức bách, không có lòng chiến đấu. Nay truyền cho nghe rằng quân thiên triều đã tới nơi, nếu như không biết hối tội, thì thế ắt sẽ mỗi người dân đều là một người lính, mọi nhà đều là chỗ cung cấp lương ăn, đem tính mạng ra chiến đấu, để thử xem mũi nhọn thế nào, chỉ trong sớm tối hai bề thuỷ lục cùng tiến, bốn mặt giáp công. Thế bên kia chia rẽ, sức yếu, không cứu ứng được nhau, thần dân bản quốc tình nguyện ứng nghĩa mà xông lên trước, tặc đồ không đánh cũng tan.

Kỳ tôi trốn ở nơi xa xôi hẻo lánh, thực trông mong hết sức, cảm ơn tái tạo của thiên hoàng đế, lại do hai vị đại nhân hết sức giúp đỡ, cũng may nhờ vào ân đức tổ tiên, không uổng công bôn tẩu nên được bề trên chấp thuận, Kỳ tôi cùng các bầy tôi văn võ, nguyện ghi khắc trong lòng, nên hôm nay cung kính dâng thư này
.”

Ngày 24 tháng Tám, Càn Long năm thứ 53 [23-9-1788]

Lá thư này có lẽ không tới kịp nên sau đó Lê Chiêu Thống lại viết một lá thư khác. Theo tài liệu nhà Thanh, phái đoàn Lê Quýnh đi từ Khâm Châu ngày mồng 4 tháng Tám [3-9-1788], theo đường thủy đến được Tứ Kỳ [Hải Dương] gặp vua Lê ngày mồng 8 tháng Chín năm Mậu Thân [6-10-1788].

Trước đó, vào tháng Tám năm Mậu Thân [1788], khi Lê Duy Ðản [Sinh năm 1743, người làng Hương La, huyện An Phong, tỉnh Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi (Cảnh Hưng 36, 1775).] còn đang ẩn trốn thì vua Lê sai Lan Trì Bá [không rõ tên] cho vời gặp, đồng thời ban cho 4 chữ ngự bút “Tiết Khí Khả Gia” 節氣可嘉 (khí tiết đáng khen). Ông đi cùng một người đầy tớ lội mưa gió lên gặp vua Lê ở thôn Ngọc Lâu 玉摟, Cẩm Giang 錦江 Hải Dương. Vua Chiêu Thống phong cho Lê Duy Ðản tước Hương Phái Bá香派伯 làm chánh sứ để cùng Ðịnh Nhạc Bá Trần Danh Án [người xã Bảo Triện, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, đỗ nhị giáp tiến sĩ khoa Ðinh Mùi (Chiêu Thống thứ 2, 1787).] cầm quốc thư sang Trung Hoa, có Lê Quýnh làm hướng đạo và liên lạc viên.

Theo thời biểu chúng ta thấy rằng khoảng tháng Bảy thì nhà Thanh phát hịch, đầu tháng Tám vua Lê biết tin nên một mặt cho người đi kiếm Lê Duy Ðản một mặt viết thư [ngày 24 tháng Tám] cho người đem sang Trung Hoa [lá thư thứ nhất]. Ðến mồng 8 tháng Chín [6-10-1788], Lê Quýnh về trình bày mọi việc, vua Lê thấy rằng một lá thư tay gửi Tôn Sĩ Nghị chưa đủ lễ nghi mà phải cử một phái bộ chính thức mang quốc thư sang cầu viện, nhất là không có quốc ấn [tức ấn An Nam quốc vương mà nhà Thanh ban cho họ Lê] nên càng cần những người có vai vế đem đi. Trần Danh Án vốn là cận thần ở cùng với vua Lê lâu nay, còn Lê Duy Ðản là đồng tộc, cả haiđều là tiến sĩ xuất thân, nên việc đi sứ cũng đồng thời đem tin nhà coi như bảo đảm rằng đây là người của vua Lê gửi sang thật.

Ngày 15 tháng Chín [13-10-1788] năm đó, hai sứ thần mang lá thư [thứ hai] của vua Chiêu Thống lên đường sang Trung Hoa. Lá thư đó dịch ra như sau: [nguồn: Quân Cơ Xứ, CCBVV. Tờ trình của Lê Duy Kỳ đề ngày 15 tháng Chín năm Càn Long 53 [13-10-1788] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 352.]

“Tự tôn nước An Nam là Lê Duy Kỳ kính cẩn trình lên trước đài của bộ đường đại nhân thiên triều Thái Tử Thái Bảo Binh Bộ Thượng Thư kiêm Ðô Sát Viện HữuÐô Ngự Sử thế tập Nhất Ðẳng Khinh Xa Ðô Uùy tổng đốc Quảng Ðông, Quảng Tây kiêm lo việc lương hướng, phục vụ đại hoàng đế đường bay rong ruổi, thành công đắc lực của bậc đế vương, lòng nhân rộng rãi, lượng rộng như trời đất cha mẹ, uy quyền thêm đầy đủ, đức không bến bờ:

Nhà Kỳ tôi tổ tông lâu đời làm chủ đất nước, vỗ về chăn dắt nhân dân, chẳng may mất nghiệp, bản thân mình phải trốn lánh nơi sơn cùng thủy tận, người thân phải tìm đường sống nơi đất thiên triều, hơn sáu mươi người già trẻ được giúp cho nơi ăn chốn ở.

Ðại hoàng đế trước nay thương xót đến cả những kẻ xa xôi, cả những kẻ chưa từng thần phục, nay giương cao tinh việt, điều động mấy chục vạn quân tinh nhuệ, tụ tập chiến thuyền, chuyển vận vài lộ ức vạn thiên tiền gạo, điểm binh lữ, vừa thuận thiên thời, lại lo đến Kỳ tôi đang lúc nguy cơ nên sai bồi thần vềkiếm tung tích, ơn bao la ấy phải ghi khắc trong tim, lại mang theo bằng chứng của mẫu thân về nước, nghĩ đến sự lo toan của thánh thượng mà rơi lệ, thấy bề trên không gì không nghĩ tới, biết rằng ngày giờ khôi phục đã đến nơi.

Bọn Nguyễn tặc ngu xuẩn kia chưa biết hối tội, đem hai trăm năm của bản quốc, vỏn vẹn cơ nghiệp Ðộng Hải, Phú Xuân, dăm sáu vạn quân man mọi, khoe vài cái thành con, mỗi nơi mai phục vài tên thảo mãng, dàn trận voi ở bờ sông, ngây ngô học đòi kháng cự binh thiên triều.

Thế nhưng bọ ngựa làm sao chống nổi xe, chim sẻ biết đâu lưới đã giăng tứ phía, chồn cáo không qua, bậc thánh nhân một khi nổi giận, ngọc đá đều tan, trảiđại nghĩa khắp thiên hạ, giữ mối giềng cho thuộc quốc. Kỳ may mắn còn chút hơi tàn, ẩn nơi lều cỏ, mong thánh đức ban xuống để cho mất rồi lại còn, đứt rồi lại nối, đợi khi binh thiên triều nhập cảnh, nguyện đích thân bầu nước giỏ cơm, dù có tan thây nát thịt cũng không đủ báo đáp cái ơn tái tạo của thiên triều.

Vì quốc ấn đã bị thất lạc, không dám trình lên thiên tử, cung kính mong đại nhân thay mặt chuyển tấu, khấu tạ hoàng ân, Kỳ không khỏi xúc động, run lẩy bẩy, kính cẩn trình lên.”


Ngày 15 tháng Chín, năm Càn Long thứ 53, [13-10-1788]

Khi chuyển lên ngoài tờ biểu của Lê Duy Kỳ, chính tay Lê Quýnh lại cũng viết thêm một tấu thư khác, dịch ra như sau: [nguồn: Quân Cơ Xứ, CCBVB. Tờ trình của Lê Quýnh ngày 15 tháng Chín năm Càn Long 53 [13-10-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 353]

“Từ khi An Nam lập quốc đến nay thì chỉ có họ Lê được nước một cách chính đáng, ân huệ đủ để lòng người hướng về, lễ nghĩa đủ cho sĩ phu đi theo.

Tuy ở giữa thời có họ Mạc tiếm vị hơn sáu mươi năm nhưng lòng người vẫn mến cũ không đổi. Sau đó lại trung hưng hơn hai trăm năm qua, có họ Trịnh phụ chính, là bầy tôi nắm quyền đời nọ sang đời kia. Vua nước tôi tuy làm chủ một nước nhưng phương nam thì có họ Nguyễn phụ chính trông coi đất đai, còn phương bắc thì họ Trịnh phụ chính, nắm giữ binh quyền cho đến tận ngày nay.

Cả họ Trịnh lẫn họ Nguyễn đều bị Nguyễn Nhạc đánh đuổi, khi đó lòng người nghĩ rằng y muốn trừ nạn cho nước nên không ai chống lại. Ðến khi tâm tích của giặc Nguyễn lộ ra, hết sức hung bạo. Ðầu tiên là cách đây một kỷ, Nguyễn tặc tự đặt niên hiệu là Thái Ðức. Nay y định chiếm nước phạm thượng thì cày bừa cũng thành gươm giáo, vì chưng họ Lê ân thấm đến người, ấy là vì nhân nên đạo nghĩa dân quay về, giặc Nguyễn tuy mạnh nhưng không thể cưỡng bức người ta theo được.

Nếu được thiên triều vì lòng nuôi kẻ nhỏ mà ngó xuống, giúp kẻ khốn cùng, đem binh đến sát với biên cảnh thì có thể thanh viện cho hạ quốc, dân trong nước nghe tin này ắt sẽ nổi lên chống lại, chẳng phải phiền binh lực thiên triều trợ giúp mà lập tức đầu Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ sẽ đến ngay.”


Qua bản văn trên chúng ta thấy nguyên thủy nhóm Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc chỉ chủ trương nhờ nhà Thanh thanh viện để can thiệp nếu không dọa cho quân Tây Sơn rút về Thuận Hóa thì bắt họ trả lại một phần đất ở giáp biên thùy tương tự như trước đây nhà Lê cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc. Việc nổi lên chống với Tây Sơn ở Bắc Hà vẫn do lực lượng trong nước đảm trách có lẽ vì cũng ngại rằng một khi quân Thanh sang nước ta, việc đánh đuổi họ còn khó khăn hơn. Trong khi đó vua Chiêu Thống lại muốn nhờ quân Thanh lấy lại toàn bộ miền bắc trả lại cho mình nên mới có việc Lê Quýnh gửi thêm một lá thư khác cho Tôn Sĩ Nghị mà nội dung không cùng một đường lối với Lê Chiêu Thống.]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760427601274.png

Thọ Xương Giang chi chiến đồ 壽昌江之戰, tranh vẽ của nhà Thanh miêu tả cảnh quân Thanh vượt sông Thọ Xương cuối năm 1788. Phía xa là quân Tây Sơn đang rút lui.

Thơ chữ Hán trên tranh:

Tam Giang ngang vắt chốn bờ môi,

Bến hiểm mấy vòng cố thủ thôi.

Yểm trại Định Phương nhờ chướng tỏa.

Dùng mưu Triệu Tiết đoạt dòng Lô.

Nhọn tan rắn vỡ bay hồn phách.

Trúc chặt bè đan tiện mảng trôi.

Tướng lĩnh tiền khu quân phấn chấn.

Hán nhân hai tướng khá khen ô
i!
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thế là, hai tướng Tây Sơn trấn giữ Lạng Sơn là Nguyễn Văn Diễm阮文艷 và Phan Khải Đức潘啟德, khi thấy hịch văn thì hoảng sợ, trong một ngày, số thổ binh tập hợp được đã bỏ trốn quá nửa. Khải Đức mật sai người mang thư sáp [thư viết trên sáp, thường dùng để giữ bí mật] đến cửa ải xin hàng trước. Văn Diễm tự xét mình đơn độc, quân lính mệt mỏi không thể chống đỡ, vả lại mình là người Quảng Nam, dù có hàng cũng chưa chắc được dung thứ, bèn tự thu quân, đêm đó bỏ trốn về Kinh Bắc, cùng với lưu thủ Nguyễn Văn Hòa阮文和 hợp lực giữ trấn thành, đồng thời sai kỵ binh phi ngựa về Thăng Long cáo cấp.

Nói về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, từ mùa hè năm đó, đã khởi giá về Thăng Long, giết tướng Tiết chế Vũ Văn Nhậm, sắp xếp lại quan quân một lượt, chỉnh đốn công việc triều chính, đặc biệt giao cho Đại Tư Mã大司馬 Ngô Văn Sở吳文楚, Nội Hầu內侯 Phan Văn Lân潘文璘, Chưởng Phủ掌府 Nguyễn Văn Dụng阮文用, Đô Đốc都督 Nguyễn Văn Tuyết阮文雪, Hộ Bộ Thị Lang戶部侍郎 Trần Thuận Ngôn陳順言, Lại Bộ Thị Lang吏部侍郎 Ngô Thì Nhậm吳任等 và những người khác cùng trấn giữ thành Thăng Long. Ông tổ chức tiệc lớn chiêu đãi và nói với họ rằng:

- Sở và Lân là vây cánh của ta, Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta, Tuyết là cháu ta, Nhậm là khách thần của ta. Hơn nữa, những người có học ở Bắc Hà rất thạo việc đời. Nay ta ủy thác toàn bộ thành trì và mười một trấn thuộc quyền quản hạt, mọi cơ mật quân quốc, đều cho phép các ngươi được tùy nghi xử lý. Tại đây, các ngươi hãy cùng nhau bàn bạc, đừng vì mới cũ mà có khoảng cách, hãy đồng lòng hợp sức, để đáp lại kỳ vọng của ta, hãy cố gắng lên!

Mọi người đều đứng dậy bái lạy vâng mệnh, rồi Nguyễn Huệ chọn ngày trở về phương Nam. Sau đó, những kẻ gây rối ở vùng sơn hải, chỉ cần sai một viên phó tướng đến là dẹp yên ngay lập tức. Những công văn từ phủ huyện đưa tới, ông đều xử lý xong xuôi mọi việc, không hề để tồn đọng. Thường ngày rảnh rỗi, ông thích cưỡi ngựa đi trên đường cái lớn làm thú vui, tự cho rằng ở Bắc Hà không còn việc gì khó khăn nữa.

Một hôm, đang ngồi ăn cơm ở Hiệp Hộ Đường協護堂, Ngô Văn Sở nói với Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết rằng:

- Chúa công giao thành lớn cho ta, chẳng khác nào sai ta dệt gấm mà chưa tin ta có thể cầm dao. Các ông xem thế nào? Dù có Tề Thánh từ trên trời xuống, Diêm Công từ dưới đất lên, ta cũng bắt gọn một mẻ. Huống hồ mấy kẻ các ông, chỉ phí công người ta thử kiếm có bén hay không thôi! Thì làm được gì?

Rồi quay sang nhìn Ngô Thì Nhậm và nói:

- Thị Lang quả thực giỏi văn tự, nhưng việc cung kiếm, đã từng quen thuộc chưa vậy?

Ngô Thì Nhậm đáp:

- Có việc văn tất phải có việc võ, đây không phải là hai con đường riêng biệt. Tuy nhiên, người xưa khi hành quân thì lâm sự mà sợ, sao lại coi việc binh đao như trò đùa mà khinh suất đến thế. Tôi trộm nghe những người nước ta chạy sang nhà Thanh, trong đó có nhiều kẻ làm môi giới, khơi mào đất đai, gây ra binh biến. Công nhận trách nhiệm ngoài biên ải, e rằng khó tránh khỏi một phen tóc bạc trắng, đến lúc này xin ngài hãy nhớ lời tôi nói.

Sở cười nói:

- Lần này chắc phải phiền ông làm một bài thơ để lui giặc, nếu không làm được, thì cất kiếm vào hòm, mang đao vào ủng, đó tự là việc của võ thần, hà tất phải lo lắng quá.

Không bao lâu sau, quả nhiên có tin báo từ biên giới. Sở cả kinh, lập tức triệu tập văn võ cố thần nhà Lê, lấy Sùng Nhượng Công崇讓公 Duy Cận giám quốc. Ông ta viết thư nhân danh Duy Cận, và giả mạo là các hào mục đề cử Duy Cận [làm] giám quốc. Sai các văn thần Nguyễn Quý Nha阮貴衙, Trần Bá Lãm陳伯覽, văn thuộc Vũ Huy Trân武輝瑨, võ thần Nguyễn Đình Khoan阮廷寬, Lê Duy Trữ黎維褚, võ thuộc Nguyễn Đăng Đàn阮登壇 và những người khác mang thư trình lên cửa quan để xin hoãn binh. Còn bên trong, Ngô Văn Sở cùng Phan Văn Lân và những người khác bàn bạc kế sách phòng thủ và chiến đấu.

Chưởng Phủ Dụng nói:

- Tôi trộm nghe cuối đời nhà Trần, người Minh xâm lược, Hoàng Phúc黃福, Trương Phụ張輔, Mộc Thạnh沐晟, Liễu Thăng柳升 đều là các dũng tướng của Trung Quốc. Lê Thái Tổ黎太祖 khởi nghĩa ở Lam Sơn藍山, thế lực không địch nổi. Tuy nhiên, binh hành quỷ đạo, không ghét quyền mưu, chỉ giỏi mai phục, thừa hư đánh úp địch binh, nên mới có thể lấy ít thắng nhiều. Đã làm khốn Vương Thông ở Đông Bộ Đầu東步頭, giết Liễu Thăng ở núi Mã Yên馬鞍嶺. Võ công kỳ tuyệt, ngàn đời còn ca ngợi. Nay người Thanh từ xa đến, vượt núi rừng gian nan, ta lấy nhàn đợi mệt, nên chuẩn bị mai phục ở những nơi hiểm yếu để đợi địch. Thực hiện kế này, sợ gì không thắng?

Ngô Thì Nhậm nói:

- Không phải thế, ông chỉ biết một mà không biết hai. Việc trong thiên hạ, tình thì giống nhau mà thế lại khác nhau, nên được mất cũng khác biệt. Xưa kia, nước ta thuộc về nhà Minh, người Minh thì tàn bạo, cả nước đều muốn đuổi họ đi. Bởi vậy, Lê Thái Tổ một tiếng hô, gần xa hưởng ứng, anh hùng tụ tập như mây. Mỗi khi giao chiến với địch, người trong nước chỉ sợ thua thiệt, một khi có tin thắng trận thì vui mừng khôn xiết. Lòng người như vậy, dù có chỗ mai phục, đều che giấu kín đáo mà địch không hề hay biết, nên mới giành được chiến thắng, đều là nhờ đó. Nay các bề tôi nhà Lê lưu lạc, ở đâu cũng có, nghe tin người Thanh đến viện trợ, đều mong ngóng chờ đợi, cả nước sĩ dân đều đổ xô ra đón. Quân ta mai phục ở đâu, địa hình hiểm trở hay dễ dàng, binh số nhiều hay ít, địch chưa biết, nhưng những kẻ nội ứng đều báo trước cho địch biết. Do đó, địch sẽ tùy kế mà hành động, bốn mặt bao vây bắt giữ. Cơ mật quân sự đã bị lộ, tự mất lợi thế, là tự mình đẩy mình vào chỗ chết. Lại còn có thể đánh úp được ai? Binh pháp nói: 'Người giỏi che giấu thì không ai không thắng; người sai lầm khi che giấu thì không ai không bại'. Sự phân chia thắng bại, xưa và nay đã khác rồi.

Sở hỏi:

- Vậy thì kế sách nào đây?

Ngô Thì Nhậm nói:

- Đạo dùng binh, chỉ có chiến và thủ mà thôi. Nay tin tức về việc quân Thanh sắp đến rất lớn, người trong nước làm nội ứng, truyền đi nhiều tin đồn thất thiệt, để phô trương thế lực, làm lung lay lòng người. Quân ta có việc điều động, vừa ra khỏi thành là bị bắt giết ngay. Những kẻ thuộc binh tịch ở Bắc Hà có kẽ hở là bỏ trốn. Đem quân như vậy ra trận, chẳng khác nào dẫn bầy cừu đi đánh hổ dữ, sao mà không bại?. Còn về việc cố thủ thành trì, lòng quân không kiên cố, lo trong tất sinh. Dù có Tôn Ngô sống lại, cũng đành bó tay không thể tự liệu. Lại chẳng khác nào ném một con lươn vào giỏ tôm, xin hãy suy nghĩ kỹ. Đánh không thắng, giữ không vững, đều không phải là thượng sách. Chỉ còn một cách. Hãy sớm hạ lệnh cho thủy sư chở đầy thuyền lương, thừa gió căng buồm, thẳng ra cửa biển, đến Biện Sơn đóng trại. Bộ binh chỉnh đốn khí giới, nổi trống dong chiêng mà hành quân, rút về giữ ba ngọn Tam Điệp Sơn. Thủy bộ thông nhau, dựa vào hiểm yếu mà giữ. Sai người phi ngựa đưa thư, báo tin cho Chúa công. Hãy chờ xem sau khi quân Thanh đến thành, họ sẽ xử lý công việc của nhà Lê thế nào; và sau khi Chiêu Thống Đế phục quốc, binh mưu quốc kế sẽ được xử trí ra sao. Đợi Chúa công đến quyết chiến thì chưa muộn.

Sở nói:

- Chúa công đã về Nam, giao thành cho ta. Địch đến quyết chiến, ta phải sống chết cùng thành. Trên không hổ thẹn là bề tôi giữ đất, dưới không phụ trách nhiệm cầm quân. Nếu mà trông gió đã bỏ chạy, bỏ thành cho địch, không chỉ đắc tội với Chúa công, mà người Bắc Hà sẽ nói gì về ta?

Ngô Thì Nhậm nói:

- Các lương tướng ngày xưa, lượng địch rồi mới đánh, suy tính thắng lợi rồi mới đánh, tùy cơ ứng biến đặt kỳ chiêu như đánh cờ vậy. Trước thua một nước, sau thắng một nước. Không lấy nước sau làm nước trước, mới là cao thủ. Quân ta toàn vẹn trở về, không mất một mũi tên, cho phép địch đóng quân nghỉ ngơi một giấc, tùy lúc lại đánh đuổi chúng đi. Chẳng khác nào ngọc bích của nhà Tấn, rốt cuộc cũng không mất mát gì. Nếu vì điều này mà mắc tội, tôi dám trình bày rõ ràng với Chúa công, chắc chắn sẽ được xét rõ mà tha thứ, xin ngài chớ nghi ngờ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760427719588.png

Trận Tam Dị-Trụ Hữu, quân Thanh chặt tre kết bè làm cầu vượt sông Thọ Xương. Tổng binh Trương Triều Long cũng dẫn 1.500 quân theo đường mòn trên núi tràn xuống Tam Dị. Khi tiến đến ranh giới Tam Dị, Trụ Hữu thì đụng độ với quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn chia làm nhiều mặt, phân binh theo cờ đỏ, cờ trắng, cờ đen kéo đến tấn công. Quân Thanh cũng chia binh ba mặt nghênh chiến. Sau một hồi giao chiến, quân Tây Sơn rút lui. Trương Triều Long tranh thủ sai du kích Lưu Việt phục sẵn ở thung lũng. Ngày hôm sau (11/12/1788) 200 quân tây Sơn đến tấn công bị phục kích, phải bơi theo khe nước để lui về. Quân Thanh được thổ binh dẫn đường, đón đánh ở khu rừng hạ lưu sông Thương. Quân Tây Sơn tan vỡ, bị bắt sống 79 người.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sở bèn nghe theo, mật truyền cho các trấn giữ Kinh Bắc, Thái Lương, nói là sẽ hội quân đắp đồn đất ở sông Nguyệt Đức, nhưng thực chất là âm thầm rút quân về. Đồng thời, ông ta gửi công văn cho các trấn Hải Dương, Sơn Tây, ấn định ngày giờ các quan quân phải dẫn binh lính về hội tại thành Thăng Long. Trấn Sơn Nam cũng chỉnh đốn thuyền bè, đợi khi nước triều lên thì cùng xuất phát. Năm ngày sau, binh lính các đạo đều đã tập trung đông đủ, tiến hành đại duyệt ở bãi sông. Sở hạ lệnh cho bộ binh mỗi người tự chuẩn bị lương khô để đợi điều động, và giao cho Đặng Văn Chân鄧文真 đốc suất thủy quân đi về phía Đông trước, sau khi đã phân bổ xong. Vào lúc chạng vạng tối, Nguyễn Quý Nha阮貴衙, Nguyễn Đình Khoan阮廷寬 và những người khác từ cửa quan chạy về, nói rằng chuyến đi này đến cửa quan đã bị quan lại nhà Thanh ngăn cản, không thể tới nơi. Hiện nay, quân Thanh đã qua Nam Quan, tiền quân bộ binh và kỵ binh đã tiến vào đồn trú ở địa giới Phượng Nhãn rồi!
1760427817848.png

Tranh vẽ trận Phú Lương

Sông Phú Lương là cửa ngõ của Thăng Long (nguyên văn: Lê Thành). Quân Nguyễn (Tây Sơn) thấy quan binh sắp đến, đem thuyền lớn nhỏ thu từng chiếc đến bờ nam ở giữa dòng, dùng súng trường và đại bác bắn trả. Quân ta không tài nào mau chóng vượt sông được. Tôn Sĩ Nghị xét thấy quân Nguyễn (Tây Sơn) thế dần loạn vỡ, (bèn) lệnh cho tướng sĩ dùng thuyền con của nhà nông và bè trúc đánh giết binh chúng ở giữa sông vào ban ngày. Còn sang canh năm ngày hôm sau thì Hứa Thế Hanh đốc suất hơn 2 trăm quân thẳng tới bờ bên kia. Giữa lúc đêm tối mờ mịt, bọn ấy (Tây Sơn) chẳng bày bố được bao nhiêu binh, (nên) quẫn bách không thi thố được gì. Tiếp đó quân ta đánh chiếm mấy chiếc thuyền, thay phiên vượt sông đánh giết bồi vào cho thêm đau, đồng thời đốt chìm hơn chục chiếc tàu thuyền ngoài bến sông. Toàn quân vượt sông, bọn Tông tộc nhà Lê cùng trăm họ bèn mở cổng thành ra hàng; (ta) chẳng đánh mà thắng.


Chữ Hán:

Cửa ngõ thành Lê gọi Phú Lương.

Lũy đồn tuy chắc, chúng bàng hoàng.

Thuyền đơn lén nhập, xứng tài tráng.

Trí dũng vốn thừa, tiếc giỏi giang.

Về nước một vua đành bỏ đất.

Lập đền ba tướng mãi lưu hương.

Thưởng trung vỗ thuận, tôn vương đạo,

Khởi sự binh đao – điềm cát tường.


--------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760427894847.png

Tranh vẽ quân Thanh Giao chiến với quân Tây Sơn
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Văn Sở lập tức hội họp các tướng lĩnh bàn kế rút lui. Phan Văn Lân nói:

- Binh không cốt ở đông, nước không cốt ở lớn. Nay là tướng cầm binh ở ngoài, địch đến chưa từng giao chiến, chỉ vì hư danh hăm dọa mà vội vàng rút lui, như vậy sao gọi là tướng được? Xin lấy một ngàn tinh binh, thẳng đến sông Nguyệt Đức cùng hắn quyết chiến một trận, xem hắn có khí thế gì, người Nam và người Bắc ai mạnh hơn? Khiến hắn biết rõ ta cũng không sợ hãi, đó cũng là chiếm tiên cơ để giành phần thắng vậy.

Văn Sở cũng cho là phải. Văn Lân bèn dẫn binh vượt sông về phía bắc, đến canh ba đêm thì đến bờ nam sông Nguyệt Đức. Nghe tin quân của Tôn Tổng đốc đã đến núi Tam Tầng, gặp lúc trời rét buốt, Văn Lân vẫn thúc binh vượt sông khiêu chiến. Tướng sĩ vốn sợ uy của Văn Lân, bất chấp giá rét lội qua sóng nước. Đến giữa sông thì bị lạnh cóng, những người không thể vượt qua đều chết đuối; những người đến được bờ thì bị lính tuần tra của Thanh tiêu diệt.

Văn Lân liệu không thể chiến đấu, liền vẫy quân rút lui. Quân lính còn lại tan tác, chạy trốn vào dân gian, dân chúng đều bắt họ nộp cho quân Thanh. Văn Lân một mình một ngựa chạy về, Văn Sở cả kinh, giấu kín việc thất bại không cho người khác biết, ra lệnh cho các quân bộ đội hình nghiêm chỉnh hành quân. Đến giữa trưa khi đã qua Phúc Xuyên輻川 [nay là Phú Xuyên, Hà Nội], mọi người mới bắt đầu biết chuyện. Ngày hôm sau đến Yên Mô安謨, quân lính chia nhau đồn trú dọc theo chân núi Tam Điệp三疊山, cho đến bờ biển, liên kết thủy bộ để tự cố thủ.

----------------------

[Sau khi được lệnh, quân Thanh chia hai ngả kéo sang nước ta. Cánh quân Quảng Ðông vì điều động từ nhiều nơi nên mãi đến 20 tháng Mười trước sau mới tới được Nam Quan. Ðược cái vào mùa này thời tiết tương đối tạnh ráo nên việc di chuyển cũng không mấy khó khăn. Tôn Sĩ Nghị không đợi cho quân các nơi tới đủ, truyền lệnh cho đề đốc Hứa Thế Hanh tập trung cánh quân Quảng Tây ngày 28 tháng Mười, giờ Mão [25-11-1788] tế cờ mở cửa quan tiến qua.[Trang Cát Phát: TTVC (1982) tr. 363.]

Từ Nam Quan đến Lạng Sơn đường sá còn bằng phẳng dễ đi nên khi đến thị trấn rồi, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh cho quân nghỉ lại 2 ngày chờ quân ở sau đi tới rồi mới tiếp tục. Ngoài Lạng Sơn phải qua một con sông (sông Kỳ Cùng), hàng tướng nhà Tây Sơn là Phan Khải Ðức cho chặt tre làm bè kết thành cầu phao quân Thanh mới quađược.

Ngày mồng một tháng Một năm đó, Tôn Sĩ Nghị bàn với Hứa Thế Hanh chia quân thành hai ngả:

– Ðạo quân thứ nhất theo phía trái đường Mai Pha 枚坡 do tri huyện Lâm Tế Thanh dẫn xưởng dân (tức phu phen từ bên Tàu sang khai mỏ ở nước ta) và đám quân cần vương dẫn lộ. Ðường phía này vừa hẹp vừa hiểm trở nên chỉ có 1.000 quân Thanh đi theo.

– Ðường thứ hai theo Giang Hán江漢 ở cánh hữu tỉnh Lạng Sơn do Phan Khải Ðức tuyển thổ binh đưa lối,[nguồn: Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (quyển 9) (1976) ngự chế thi tập V, quyển 43, trang 34.] đi theo các ngả Nhân Lý仁里, Ðường Giáp唐甲, Mai Tiêu枚梢, Quang Lang 桄榔 … Phía này đường tương đối rộng rãi dễ đi, chính là đường mà xưa nay sứ thần nước ta vẫn dùng mỗi khi qua Tàu. Tuy nhiên vào thời kỳ này, vì tình hình loạn lạc nên trộm cướp nổi lên như rươi, không ai dám qua lại. Suốt đoạn đường này chỉ có hai chỗ tương đối khó đi là Núi Mẹ Con (Mẫu Tử Lãnh) và Úy Thiên Quan (tên thường gọi là Quỉ Môn Quan).[Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (Quốc Sử Quán triều Nguyễn) Phạm Trọng Ðiềm dịch (1997) thì cách châu Ôn 11 dặm về phía tây có núi Kháo gồm 2 ngọn, một cao một thấp gọi là “kháo mẹ, kháo con”, trên đỉnh có đường lớn cho sứ bộ đi, khách buôn bán cũng qua đường này. Phía nam châu Ôn thì có Quỉ Môn Quan, thuộc xã Chi Lăng, đường hẹp, khó đi, hiểm trở, nướcđộc, đá hình như đầu ma, đầu quỉ nên đặt như thế. Khi sứ bộ Trung Hoa sang sách phong cho vua Lê đổi tên thành Úy Thiên Quan. (quyển 4, tr. 377, 387)]

Tôn Sĩ Nghị tiến quân theo đường Lạng Sơn thấy nơi nơi nhà cửa tiêu điều, xóm làng tan nát vì chiến tranh lâu nay, nhiều nơi còn cả xương trắng lẫn xác người thối rữa. Ngày mồng 6 tháng Một, đốc tiêu quân tỉnh Quảng Ðông lại tăng viện thêm 1.000 người nữa.

Ðoàn quân đi theo hướng Mai Pha vì đường khó đi nên lại phải chia thành hai nhánh, một đội theo lối Ðài Cao苔高 và Cúc Thung 菊椿, một đội vẫn theo lối Mai Pha rồi gặp lại ở Gia Quan 嘉關. Quân Tây Sơn đóng ở Gia Quan nghe thanh thế quân Tàu quá lớn nên rút lui để bảo tồn lực lượng, giao binh khí, súng ống, thuốc nổ lại cho thổ quan Phan Khâm Doãn 潘欽允 thống lãnh dân chúng chống giữ nhưng khi quân Thanh tới vây đánh, Phan Khâm Doãn và Hoàng Ngọc Bá黃玉伯 liền ra hàng.

Quân Tây Sơn rút về giữ Tiên Lệ 先麗, Cần Dịch 芹驛, Ha Hộ 訶戶,[chữ Hộ nguyên có bộ ngôn 言 ở bên trái] Trụ Hữu 柱右, dựa vào thế đất hiểm trở để ngăn giặc. Vì quân Thanh còn đang tiếp tục tiến qua, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh cho đóng quân lại chờ cho đủ để cùng tiến.

Trong khi quân Tàu đưa quân tiếp viện, cả đường bộ lẫn đường thủy, một biến cố nhỏ đã xảy ra. Một số thuyền của quân Thanh từ Quảng Ðông theo đường biển (có lẽ là chở lương thực hoặc đi dò thám vì sử sách không đề cập đến việc Trung Hoa có đủ chiến thuyền để tổ chức thành một cánh quân đi theo hải đạo) bị bão thổi, một viên bả tổng tên là Hứa Xương Nghĩa 許昌義[theo tờ biểu của vua Quang Trung gửi lên vua Cao Tông thì bọn tuần dương binh ấy do Hắc Thiệu Tông cầm đầu, khi trả về cũng bị Tôn Sĩ Nghị giết cả. Hoa Bằng. Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792. (1958) tr. 214. Thực ra những người này một số được dùng vào đội thủy quân, một số trả về nguyên quán.] cùng 40 tên lính bị gió thổi dạt xuống Nghệ An, được quan An Nam đưa về Thăng Long, do giám quốc Lê Duy Cẩn đứng ra nuôi ăn, sau đó chia bọn Hứa Xương Nghĩa và 40 tên lính thành hai đội đưa trả về doanh trại cho Tôn Sĩ Nghị. Cứ theo lời bẩm của Hứa Xương Nghĩa thì viên Ðại Tư Mã và thủy binh Ðô Ðốc tại Thăng Long ngày ngày thao diễn thủy quân, lại đóng nhiều thuyền lớn trên sông Phú Lương, thuyền nào hai bên cũng có rất nhiều mái chèo, trong thuyền có để súng lớn, các viên đạn sắt mỗi viên ước chừng 2, 3 mươi cân.[Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 364]

Cho đến lúc này, bản thân Lê Chiêu Thống vẫn còn bị quân Tây Sơn săn bắt ráo riết nên tiếp tục trốn tránh, phần khác tình hình không lạc quan như các lời tâu của đám tòng vong cho rằng một khi quân Thanh tiến qua cửa ải ắt dân chúng sẽ nổi lên chống lại Nguyễn Huệ. Chính vì thế, Tôn Sĩ Nghị cũng hoang mang nên đã gọi những bầy tôi nhà Lê đến trách cứ về việc chưa thấy vua Lê ra mặt.

Nếu như Lê Chiêu Thống thất tung hay đã chết, nhà Thanh sẽ khó có thể nói cho xuôi được việc đem quân sang nước ta.[Vua Càn Long cũng đã đề cập đến việc ngay từ đầu Tôn Sĩ Nghị đã tâu rằng nhân cơ hội này lấy luôn nước Nam. (Nguyên văn: 孫士毅初奏安南內訌情形有乘此機會剿平後收其土地之意 … Tôn Sĩ Nghị sơ tấu An Nam nội hồng tình hình hữu thừa thử cơ hội tiễu bình hậu thu kỳ thổ địa chi ý …) Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (1976) Ngự Chế thi V, quyển 43, tr. 26. Chi tiết này hoàn toàn không thấy các sử gia Trung Hoa nhắc đến và cũng phù hợp với sử nước ta nói rằng khi bắt được một số văn thư mật, họ Tôn đã đề cập đến việc khai thác tình hình rối loạn của An Nam để trục lợi. Câu chúng tôi trích dẫn ở trên là chính lời nguyên chú của vua Cao Tông không phải của sử thần.] Tôn Sĩ Nghị vội vàng tính một đường khác, tâu lên xin cho hoàng đệ Lê Duy Chỉ tạm coi việc nước nhưng vua Càn Long gạt đi e rằng một khi Lê Duy Kỳ xuất hiện, hai anh em sẽ có tranh chấp, nếu không tìm thấy vua Lê thì khi tình hình yên ổn sẽ lập Lê Duy Thuyên là đích truyền của vua Hiển Tông [con của Lê Duy Kỳ đang ở với mẹ và bà nội tại Nam Ninh, Trung Hoa] lên làm vua.[Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (1976) Ngự Chế thi V, quyển 43, tr. 35]

Không phải chỉ dự trù việc phong vương, vua Càn Long lại phá lệ cho đúc sẵn ấn và sắc giao cho Tôn Sĩ Nghị mang theo để làm lễ trao lại. Chính vua Càn Long đã viết:

“Theo định lệ của bản triều đối với Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam nếu muốn xin phong vương thì trước hết người kế thừa ngôi vua phải tâu lên, triều đình sẽ sai chánh phó sứ thuộc bộ Lễ sang làm lễ sách phong, sau đó tự vương sẽ sai bồi thần mang biểu và lễ vật đến kinh sư tạ ân.

Tháng Mười năm ngoái, khi Tôn Sĩ Nghị tâu lên xin xuất quan, ta nghĩ rằng việc chinh thảo ắt sẽ lập lại nhà Lê theo cách cũ nên tuy không đúng thể chế (vẫnđịnh rằng) khi chiếm lại Lê thành liền sách phong cho Lê Duy Kỳ để thu phục nhân tâm…”[
Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (1976) Ngự Chế thi V, quyển 43, tr. 36]

Theo tài liệu nhà Thanh, việc tổng đốc đại thần của triều đình đích thân sang phong vương sẽ khiến cho nhà Lê có đủ uy tín trị nước, nhân dân tâm phục. Chiếu điển lệ, ấn phong vương cho phiên bang làm bằng bạc mạ vàng, núm ấn hình con lạc đà. Tuy nhiên vì ấn cũ thất lạc nên vua Cao Tông cho đúc ấn mới, chữ khắc có khác đi để nếu như tìm thấy ấn cũ thì không lẫn lộn.[Theo tấu thư của Tôn Sĩ Nghị khi còn ở Triều Châu được lệnh đúc ấn có dụ chỉ là ấn mới nên thêm hay bớt đi một chữ để phân biệt với ấn cũ, ngõ hầu biết cái nào thực, cái nào không thực. Tôn Sĩ Nghị đề nghị đem mẫu ấn cũ bỏ đi chữ chi 之)chỉ còn An Nam Quốc Vương Ấn 安南國王印. Ấn cũ dọc 11.6 phân, ngang 11.5 phân, trên khắc 6 chữ An Nam Quốc Vương Chi Ấn bằng chữ triện bằng cả hai thứ chữ Mãn Châu và Hán. Tuy nhiên việc này không thực vì theo con dấu mới đóng trên các tấu biểu của Lê Duy Kỳ vào ngày mồng 2 và 24 tháng Chạp năm đó (còn lưu tại văn khố Ðài Loan) thì ngang dọc cũng bằng ấn cũ, chỉ có chữ khắc mảnh mai hơn, và cũng vẫn thấy đủ 6 chữ An Nam Quốc Vương Chi Ấn, không bỏ chữ chi. Trang Cát Phát, TTVC (1982) chú thích 72 trang 411.] Ấn cũ khi đó sẽ trao lại cho nhà Thanh đem về kinh sư tiêu huỷ.

Sử nước ta gần như không đề cập gì đến việc quân ta chuẩn bị nghênh chiến, còn sử Trung Hoa thì chỉ miêu tả đường tiến quân của họ mà thôi. Tuy nhiên rải rác trong một số sử liệu, chúng ta cũng biết được quân Nam không chỉ triệt thoái mà thực tế cũng có sắp xếp với mục đích cầm chân địch để đại quân rút về Ninh Bình. Chính vì tiến quân khá dễ dàng Tôn Sĩ Nghị tưởng rằng quân Tây Sơn đã rút khỏi Bắc Hà trả lại cương thổ cho nhà Lê. Cuộc triệt binh đó êm thắm đến nỗi gần như không ai hay biết và quân Thanh không khỏi phóng đại lên một số chiến công để báo cáo về triều đình.

Bắc Hà thời kỳ đó đang lâm vào cảnh đói kém, một phần vì chiến tranh tàn phá trong nhiều năm, lại thêm thiên tai mất mùa. Theo lời của các quan nhà Lê, mấy năm trước trời hạn hạn lại thêm dịch tễ nên bị nạn đói, đến năm này (Mậu Thân, 1788) thì lại mưa dầm. Ở Thăng Long, Ngô Văn Sở cho xúc tiến việc xây đắp thành luỹ, trai tráng, đàn bà con trẻ đều phải tham gia các công tác lao dịch. Ðể có đủ chi phí, quân Tây Sơn thu thuế “mãi lộ”, ai muốn vào thành Thăng Long thì phải đóng tiền từ 20 đến 30 văn.

Việc tận dụng nhân lực và thu góp tài lực, lương thực đã tạo cho đối phương nhiều khó khăn và chính nhà Thanh cũng phải thú nhận rằng họ đã không tìm được đủ gạo thóc mà trái lại còn phải dùng gạo đem sang để nuôi đám quân nhà Lê.

… Ngoài số quân lương cung ứng cho quan binh, lần này ta còn phải phát cho người An Nam ở Lê thành về hàng 3, 4 vạn thạch, đến sau chỉ còn cho được vài trăm thạch còn bao nhiêu phát tiền. [nguồn: Cung Trung Ðáng, CCBVV, Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 259]

Theo sử nước ta thì vua tôi nhà Lê bị bắt phải cung ứng lương thực cho quân Thanh mà tình hình thê thảm như sau:

“… Bấy giờ luôn năm mất mùa, đói kém, nhất là năm này lại càng quá lắm. Quân lính nhà Thanh đóng ở kinh thành rông rỡ cướp bóc; dân chúng lại càng chán ghét. Triều đình đốc thúc lương quân, các châu và các huyện đều không cung ứng. Nhà vua (Lê Duy Kỳ) bèn sai các quan chia nhau làm việc này. Dân chúng có người đến nỗi phải khóc lóc mà dâng nộp. Ðường tiếp tế lương thực quân Thanh thì xa, nên bao nhiêu lương và tiền mà triều đình thu được của dân đều đem cung đốn cho họ hết sạch. Còn vài vạn người vừa nghĩa binh các đạo vừa ưu binh Thanh Nghệ thì đều lòng không dạ trống đi theo việc binh nhung. Lòng người do đấy lại càng chia rẽ tan tác.”[Cương Mục, Q. II (1998) tr. 843-4]

Khi nghe tin quân Thanh sắp sửa sang đánh, nội hầu Phan Văn Lân đem 1.000 quân lên chỉ huy các phòng tuyến chống giữ. Từ Lạng Sơn đến Thăng Long, đường nhiều núi non, rừng rú rất khó đi, Phan Văn Lân thiết lập nhiều đồn trại mà theo nhà Thanh miêu tả thì là cho nhiều toán quân phục kích sẵn để đón đánh giặc. Một số đồn luỹ bằng gỗ được dựng lên, ngoài đào hào, cắm chông theo lối bố trí của Ðàng Trong. Theo sử nhà Thanh còn để lại, quân ta mai phục sáu nơi, ít thì 1, 2 ngàn người, nhiều thì lên tới 3, 4 ngàn. Tuy nhiên đây chỉ là con số mà Tôn Sĩ Nghị tâu lên để cho chiến công thêm hiển hách, thực sự mỗi nơi quân ta chỉ đóng từ vài chục đến một, hai trăm ngoại trừ các vị trí hiểm yếu dựa vào ba con sông lớn.

Những luỹ đó giao cho thổ quan, thổ binh phòng ngự, chỉ có một số ít là quân sĩ từ Thăng Long lên yểm trợ. Ngoài ba vị trí chính yếu ở ba con sông, quân ta cũngđóng thêm ba vị trí phụ để cầm chân địch mà sử nhà Thanh ghi là Gia Quan – Ha Hộ, Tam Dị – Trụ Hữu, Thọ Xương, Thị Cầu và Phú Lương, dựa vào địa thế hiểm trở để ngăn địch và dùng nghi binh để làm chậm bước tiến quân Thanh. Một khi thấy không chống đỡ nổi, quân Tây Sơn liền rút lui để bảo toàn lực lượng còn thổ binh, thổ quan thấy quân Thanh thế mạnh thường đầu hàng.

Một trong những bất lợi của quân Nam là khu vực Lạng Sơn, vị trí yết hầu để chặn địch thì trấn thủ Phan Khải Ðức đã theo giặc, lại chủ động đóng vai tiên phong đưa quân đánh xuống.

Khi phái đoàn Lê Duy Ðản, Trần Danh Án, Lê Quýnh sang Quảng Tây mang theo tờ bẩm của Lê Chiêu Thống, họ đã xác quyết rằng một khi quân Thanh tiến qua khỏi cửa ải thì vua Lê sẽ tới ngay để cùng với Tôn Sĩ Nghị tiến xuống Thăng Long. Thế nhưng ra khỏi Nam Quan đã gần nửa tháng vẫn chưa thấy bóng dáng vua Lê đâu nên ngày 11 tháng Một năm Mậu Thân [8-12-1788], Tôn Sĩ Nghị sai Lê Quýnh đi tìm vua Chiêu Thống.

Ðến hôm sau, quân hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây đã đến đủ, Tôn Sĩ Nghị lập tức điều động 2.000 quân đóng dọc theo bờ sông phòng thủ, 8.000 quân còn lại tiếp tục tiến xuống nhưng khoa trương là dưới tay có đến 10 vạn quân.[Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 368.]

Trên đường dọc từ Lạng Sơn xuống Thăng Long, quân Tây Sơn đã xây dựng nhiều đồn luỹ bằng gỗ rất kiên cố, chung quanh đào hào cắm chông tre nhưng khi nghe quân Thanh tiến đến, các tướng trấn giữ liền rút lui để bảo toàn lực lượng. Tôn Sĩ Nghị tuyển vài trăm binh đi cùng với bồi thần nhà Lê là Nguyễn Ðĩnh阮挺 hợp cùng đám thổ binh ra hàng, nhân lúc trời tối theo các khu vực cây cối rậm rạp tiến lên nhưng không gặp phục binh vì quân Nam đã lui về dựa vào các sông lớn ở Thọ Xương 壽昌,[ tức sông Thương] Thị Cầu市球, Phú Lương富良 án ngữ chống giặc.

Ngày Tân Mùi 13 tháng Một năm Mậu Thân [10-12-1788], tổng binh Thượng Duy Thăng 尚維昇 và phó tướng Tôn Khánh Thành 孫慶成, tham tướng Vương Tuyên 王宣, du kích Tiêu Ứng Ðắc蕭應得, thủ bị Trương Vân張雲 dẫn 1.200 binh đến bờ sông Thọ Xương thì quân Tây Sơn đã chặt đứt cầu phao lui về giữ nam ngạn. Hôm đó trời sương dầy đặc, thiên tổng Liêu Phi Hồng 廖飛鴻 đem quân vừa bắn vừa đuổi theo, y không biết cầu đã đứt nên cùng với 20 binh sĩ rơi tõm xuống sông may sao níu bè tre trèo lên bờ được.

Quân Thanh vội chặt tre kết bè làm cầu qua sông Thọ Xương theo đường Gia Quan đánh vòng xuống. Tổng binh Trương Triều Long 張朝龍 cũng đem 1.500 quân theo đường mòn trên núi tràn xuống Tam Dị 三異. Khi Trương Triều Long đến ranh giới Tam Dị, Trụ Hữu 柱右thì đụng độ với quân Nam. Quân Tây Sơn chia làm nhiều mặt phân binh theo cờ đỏ, cờ trắng, cờ đen đánh trống tấn công, Trương Triều Long cũng chia binh ba mặt, do tham tướng Dương Hưng Long 楊興龍, du kích Minh Trụ明柱 và đô ti Phú Tang A富桑阿, thủ bị Lưu Quang Quốc 劉光國 nghênh chiến, quân ta phải rút lui.

Trương Triều Long lại sai du kích Lưu Việt劉越 mai phục ở thung lũng, sáng ngày 14 tháng Một [11-12-1788], khoảng 200 quân ta đến đây bị quân Thanh xông ra tấn công phải nhảy xuống khe nước bơi theo dòng trở về. Ngờ đâu quân Thanh do biện viên Trương Phan張璠 cùng đám xưởng dân (phu người Hoa sang khai thác mỏ ở nước ta) và một số thổ binh quen thuộc địa thế đã đón từ trước trong những khu rừng rậm ở hạ lưu sông Thương đổ ra vây đánh, quân Nam tan vỡ bị địch bắt sống 79 người.[Theo tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày 15 tháng Một năm Mậu Thân (Càn Long 53) [12-12-1788]. Cung Trung Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 368.]

Ngày 12 tháng Một [9-12-1788], quân Thanh do du kích Trương Thuần張純 và đô ti Châu Ðôn珠敦 đi theo đường Gia Quan, gặp một đầu mục đội khăn đỏ từ núi cao đổ xuống đánh [đây có lẽ là một cánh quân người Thượng từ trong nam ra] nhưng bị quân Thanh đẩy lui, mười người bị giết, 13 người bị bắt, người đầu mục bị trúng đạn từ trên ngựa ngã xuống tử trận. Quân ta lập tức lui binh, Trương Thuần đem quân đuổi từ Gia Quan, Vân Long đến Ha Hộ訶戶 gặp quân của Trương Triều Long từ Tam Dị, Trụ Hữu hai mặt đánh ập xuống, hơn một trăm người bị giết, 52 người bị địch bắt giải về chém đầu thị uy.

Trước đây khi Trần Danh Bính 陳名炳 đem quân tấn công Phan Khải Ðức thấy thế giặc to nên cũng đã bí mật ra hàng, đến khi nhận được thư của Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở phủ dụ thì quay về đái công chuộc tội, khi đó đóng ở Trụ Hữu đem quân nghinh chiến. Tôn Sĩ Nghị sai Tôn Khánh Thành, thủ bị Lê Chí Minh黎致明 đem 300 quân đánh úp, hiệp trấn Trần Danh Bính, chỉ huy Lê Ðình黎廷, nội vệ Lật Toàn栗全 đều bị bắt.[Ðại quân thẳng tới huyện Bảo Lộc, thuộc Giang Bắc. Ba lần đánh đều được. Bắt đô đốc Trần Danh Hoán, chém đi. (Có lẽ hai chữ bính 炳 và hoán 煥 vì mặt chữ khá giống nhau nên tam sao thất bản) Lê Quýnh, “Bắc Hành Tùng Ký“.La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (1998) tr. 879.] Trần Danh Bính bị xử tử.

Nghe tin quân ta thua ở sông Thương, nội hầu Phan Văn Lân 潘文璘 đem binh lên giữ Thị Cầu, đóng trên các sườn núi và chỗ hiểm yếu ở bờ sông phía nam, lại thiết lập nhiều đồn luỹ bằng tre, gỗ dọc theo bờ sông phòng ngự. Ngày 15 tháng Một năm Mậu Thân [12-12-1788], quân Thanh từ núi Tam Tằng [núi có ba tầng chồng lên nhau, ở xã Nam Ngạn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Ninh, cách huyện Việt Yên 9 dặm về phía đông.] tiến xuốngđóng ở bắc ngạn sông Thị Cầu. Phía bắc sông Thị Cầu đất thấp, Phan Văn Lân tập trung súng lớn bắn sang, quân Thanh chống đỡ không nổi cố gắng theo cầu phao vượt sông. Quân ta chặn cầu phao và dùng thuyền nhỏ đánh tới khiến quân Thanh tổn thất nặng nề, du kích Vu Tông Phạm于宗範 trúng đạn chết, du kích Trần Thượng Cao陳上高, thủ bị Trương Vân張雲 thiên tổng Trần Liên陳連 bị trọng thương, tổng binh Thượng Duy Thăng cũng bị thương ở ngón tay, Hứa Thế Hanh vội vàng sai quân đắp tường đất để ngăn đạn, hết sức chống giữ. Hai bên dàn đại pháo bên bờ sông bắn sang nhau từ giờ Tỵ (khoảng gần trưa) ngày 15 đến chiều tối ngày 16 tháng Một [13-12-1788].

Trận địa của quân ta vững chắc, lại có lợi thế từ cao bắn xuống khiến địch lâm vào thế bị động. Dòng sông ở đây ngoằn ngoèo, địa thế tối tăm nên đám tòng vong nhà Lê hiến kế vòng ra xa rồi quay lại tấn kích vào phía sau quân Tây Sơn.

Tôn Sĩ Nghị mừng rỡ một mặt sai dân quân dùng thuyền chở tre gỗ giả vờ như định làm cầu nổi để qua sông nhưng bí mật sai tổng binh Trương Triều Long đem 2.000 quân nhân lúc tối trời đi xuống 20 dặm dùng cầu phao và thuyền cướp được của thổ dân, mang theo lương khô len lén vượt qua. Trương Triều Long cho để lại 500 quân chặn giữ cửa sông, đem 1.500 quân tiến lên trước, sai các thổ dân dẫn đường. Tôn Sĩ Nghị lại sợ quân đi quá ít nên sai tổng binh Lý Hoá Long李化龍 đem 500 quân đi tiếp ứng.

Ðến giờ sửu ngày 17 tháng Một (khoảng 2, 3 giờ sáng) [14-12-1788] quân Thanh ôm ống tre làm phao, theo cầu nổi từ chính diện tiến sang, trong khi Trương Triều Long dẫn quân qua sườn núi tập hậu đánh bất ngờ vào đại doanh của Phan Văn Lân. Khi thấy lửa nổi bốn bề, quân Tây Sơn tan vỡ phải bỏ đồn chạy về Thăng Long. Theo báo cáo của quân Thanh, trận này quân ta chết hơn 1.000 người,[có thể không đến con số này nhưng quân Thanh phao lên để báo tiệp cho thêm vẻ vang.] hơn 500 bị bắt. Tôn Sĩ Nghị muốn thị uy nên ngoài một số dân công bị cắt tai cho về báo tin còn chém đầu 423 người, tịch thu 34 khẩu đại pháo.[ Minh Thanh sử liệu, thiên Canh, bản thứ 2, trang 101. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 368-9. Trận Thị Cầu mỗi sách chép một khác,

Việt Thanh chiến sử của Nguỵ Nguyên thì chép theo Thanh sử, tuy không rõ ràng nhưng cũng đầy vẻ ngoa ngôn:

… Ngày 15, tiến đến Thị Cầu (Nguyệt Ðức). Sông rộng. Vả bờ nam dựa vào núi, cao hơn bờ bắc. Giặc giữ chỗ hiểm dàn súng. Quân ta không thể kết bè. Các tướng nghĩ rằng hình thế sông cong queo, (khiến) giặc trông ra thấy không được xa. Bề ngoài, bèn chở tre gỗ, làm cầu phao để tỏ rằng thế nào cũng qua sông (chỗ ấy). Rồi giấu hai nghìn quân ở thượng du (cách đó hai mươi dặm), chỗ nước chảy chậm, lầy thuyền con đang đêm qua sông.

Ngày 17 (tháng Một) quân ta cưỡi bè áp bờ. Cầm cự với nhau đang sôi nổi, thì gặp khi quân từ thượng du đả vòng ra sau lưng giặc, nhân chỗ cao mà hét to, đánh xuống. Tiếng ran các hang núi. Giặc không biết vương sư từ đâu xuống, bèn tan rã chạy lùi. Nguỵ Nguyên, “Việt Thanh Chiến Sử”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II (1998) tr. 1342.

Riêng Lê Quýnh trong Bắc Hành Tùng Ký thì viết là mưu đánh tập hậu là do bồi thần nhà Lê hiến kế như sau:

… Quýnh và Lê Duy Ðản bàn với nhau rằng: “Từ khi (ta) ra cửa ải đến nay, quân địch thua luôn. Chắc chúng đặt nhiều quân ở núi Thị Cầu, (mong) có nước chặn, để cự lại. Nhưng chúng nó dùng binh chỉ biết nhìn phía trước, thường không ngoảnh về phía sau. Nên dùng kỳ binh chộp phía sau, thì chắc sẽ thắng. Quân ở doanh Thị Cầu (nếu) đã bại, thì khôi phục cố đô dễ như nhổ nước bọt vào tay”.

Ðến khi đại binh tiến đến núi Tam Tằng, cách địch con sông. Lê Duy Ðản nói (mưu ấy) với quan lớn Tôn. Quan lớn bèn nghe kế. Ngày 20, qua sông Thị Cầu, phá doanh giặc, tiến đến bờ bắc sông Phú Lương (muốn nói sông Nhị). Giặc Tây Sơn bỏ thành Thăng Long chạy về phương nam. Lê Quýnh, “Bắc Hành Tùng Ký”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II (1998) tr 880.] Phan Văn Lân rút quân về bảo vệ Thăng Long.

Theo tài liệu của Trung Hoa, ngày 19 tháng Một năm Mậu Thân [16-12-1788], lúc trời mờ mờ sáng, quân Thanh kéo đến phía bắc sông Nhị Hà, quân Nam dùng thuyền chở đại pháo ở trên sông bắn chặn quân địch. Quân Thanh cướp được một số thuyền của ngư dân và bè tre chở khoảng 100 binh vượt sông, hai bên đụng độ nhiều trận, cùng thiệt hại. Quân Tây Sơn bị bắt mất 17 người. Vì tre nứa dọc bên sông đã bị quân Tây Sơn đốn sạch để xây đồn luỹ, quân Thanh không kiếm đâu ra tre đểđóng bè vượt sông. Tờ mờ sáng ngày 20 tháng Một [17-12-1788], theo báo cáo của quân Thanh, Hứa Thế Hanh sai 200 quân cảm tử vượt sông cướp được ba chục chiếc thuyền nan, dùng những thuyền đó chở quân. Quân Thanh cũng huyên hoang là họ còn đánh thắng nhiều trận nhỏ khác, nhưng xem ra chỉ là những bịa đặt cốt để phóng đại chiến thắng và báo công.

Theo sử sách, kể cả những bút ký của nhiều người có mặt ở Thăng Long vào thời gian đó thì khi quân Thanh tới nơi, thành đã bỏ trống. Tài liệu của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Ba Lê có chép:

… ngày 13 tháng 11 [chi tiết này không chính xác, phải là tháng 12 mới đúng], hai người lính Bắc Kỳ, thuộc quân đội Tây Sơn chạy trốn đến nơi chúng tôi ở và kể lại rằng quân Nam Kỳ đã bị đánh tan trong sáu cuộc chiến; một số lớn tử trận, quân còn lại thì tẩu tán. Tin đồn đó được tiếp theo nhanh chóng bởi nhiều tin khác. Chiều ngày 15 và hôm 16 [tháng 12 tức 18/19 tháng Một, đúng như báo cáo của quân Thanh vào tiếp thu thành Thăng Long ngày 20], Ðại Tư Mã và các sĩquan Tây Sơn khác đã rời bỏ thủ đô và chạy trốn với đội ngũ, khí giới và hành lý họ. Nhưng không thấy ai bị bắt cả.[Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 216. Những ngày tháng mà các giáo sĩ nêu ra có lệch (trước) với tài liệu của nhà Thanh 3 ngày.]

Ngày 20 tháng Một [17-12-1788], quân Thanh tiến vào Thăng Long. Triều đình Lê Duy Cẩn lập tức ra hàng. Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị trong Khâm định An Nam kỷ lược thì:

Tông thất họ Lê và bách tính đều ra khỏi thành quì đón, Lê thành không tấn công mà tự phá. Thần và Hứa Thế Hanh chỉ đưa vài tướng lãnh mang đồ nhẹ cưỡi ngựa vào thành, đến các đường lớn ra cáo thị phủ dụ an dân xong, tức khắc ra khỏi thành về quân doanh. Binh đinh không một ai được vào trong thành.

Xem xét thấy chung quanh dùng đất đắp cao chừng 4 thước [Một thước đời Thanh nếu đo đất thì khoảng 34.5 cm, đo vải thì khoảng 35.5 cm. Bốn thước xem ra chỉ khoảng 1.4 m.] bên trên trồng tre rậm rạp, bên trong thành đất có hai thành bằng gạch không rộng lắm. Thần ra lệnh cho tông thất họ Lê bảo vệ cung thất của quốc vương, họ nói là hiện đã bị tàn phá không còn nguyên vẹn, các đồ vật đều mất cả rồi.[KDANKL, quyển IX, tr. 3]

Tôn Sĩ Nghị cũng miêu tả sinh hoạt ở Thăng Long trong thơ văn, sự tiêu điều của kinh thành, và hình ảnh những quan lại nhà Lê [nguyên văn “ông đồ” 翁荼 đọc như chữ Nôm] di chuyển bằng võng cùng việc dân chúng đem trầu cau ra đón tiếp.[ xem Viên Mai, Tùy Viên Thi Thoại [Trương Ðình Chi dịch] (2002) tr 839-41]

Sau khi Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh chiếm được thành rồi, quân Thanh ra tuyên cáo rồi chia quân ra đóng ở hai bên bờ sông, làm cầu nổi qua sông Nhĩ Hà để tiện qua lại. Một số quan lại nhà Lê xin theo quân Thanh lập công. Những đồn nhỏ lẻ tẻ của Tây Sơn ở các nơi chưa rút lui kịp bị quân Thanh và dư đảng nhà Lê tiếnđánh, lính trấn giữ bị bắt và bị giết. Một số làng ở miền Bắc đánh trống để hưởng ứng với đoàn quân viễn chinh.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760427993781.png

Tranh vẽ Trận Thị Cầu


Chữ Hán:

Gặp nguy khéo ứng đánh sau lưng.

Chưa tiếp dụ trên ý đã cùng.

Thống quân mưu kế xưa nay vẫn.

Dũng tướng hùng tài một mực ròng.

Đánh xuống từ trên hừng khí giặc,

Xuất kỳ chế thắng ta thành công.

Thành Lê gần sát quân giong trống,

Tướng sĩ một lòng đợi chiến công.


-----------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bấy giờ, vua [Lê Chiêu Thống] đang ẩn náu ở vùng Bắc Lạng [Lạng Sơn], nghe tin Tôn Tổng đốc đã chuyển quân về nước, ấn định ngày đến cửa ải, liền bí mật ra lệnh triệu tập nghĩa sĩ bốn phương. Các quan văn võ nghe tin, cũng đều thông báo cho các hào mục địa phương, chiêu mộ hương binh. Trước tiên, vua sai Lê Duy Đản黎惟亶 mang thư lên cửa ải chờ tổng đốc tại hành dinh để bẩm báo tình hình đất nước, đồng thời nói rằng vua [ý chỉ bản thân vua Lê Chiêu Thống] đang mắc bệnh cảm lạnh, không tiện đi đường, xin được đợi ở thành trấn Lạng Sơn.

Đến khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút lui, vua mới hạ chiếu cho các đạo buộc quân lính cùng đến hành tại. Vua chọn lấy một nghìn người dũng cảm để túc vệ cho ngự doanh, số còn lại thì mỗi người dẫn quân lính thuộc quyền, kết thành đội ngũ, phân phái đến các trấn. Vua lệnh cho Trần Quang Châu陳光珠 thống lĩnh trấn Kinh Bắc, Nguyễn Đạo阮道 thống lĩnh trấn Hải Dương, Hoàng Tố Nghĩa黃素義 thống lĩnh trấn Sơn Nam, Hoàng Phùng Tứ黃馮賜 thống lĩnh trấn Sơn Tây. Tất cả đều vâng mệnh đến nhậm chức. Chỉ có Châu [Trần Quang Châu] vẫn ở lại hành doanh hộ tống. Châu xin dời giá về Kinh Bắc để sửa sang thành lũy, dựng trại nhà tranh, chờ quân Thanh. Vua chấp thuận, lại sai Bình chương Phạm Đình Dư范廷璵, Tham tri Vũ Trinh武楨, v.v., mang thiếp thỉnh an đến Hòa Lạc, nói rõ rằng bốn trấn kinh thành hiện đã phái binh chia đường trù tính, lùng bắt những giặc cướp đang ẩn náu. Đồng thời, họ cũng mang theo sản vật địa phương khiêm tốn gồm mười con bò, một trăm vò rượu, dâng làm vật phẩm khao quân, kính mong được nhận thưởng. Vua cũng ra lệnh cho các bậc kỳ lão, dân xã ở các giới huyện dọc đường hãy đón rước vương sư.

-------------------------

[Những bồi thần nhà Lê khi sang Tàu đều cố gắng trình bày tình hình nước ta một các lạc quan mà tình hình giao tranh giữa các cựu thần và quân Tây Sơn xen kẽ như hình da beo. Theo lời thuật của một giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo Hải Ngoại thì mấy năm qua đất Bắc Hà chỗ nào cũng loạn lạc nhưng vì mỗi người một ý nên không kết hợp được thành một lực lượng. Vả lại việc nổi lên phần lớn vì “kiến cơ nhi tác” [thấy nhân cơ hội mà nổi dậy] chứ không phải vì ghét nhà Tây Sơn hay có dạ hoài Lê. Có nhóm tự xưng con cháu nhà Lý, lại có người tự nhận là con cháu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà sấm Trạng có đoán rằng y là chân long thiên tử. [xem Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 191] Khi nghe tin quân Thanh sắp sửa sang đánh nước ta, một số cựu thần nhà Lê toan đem quân đánh úp Thăng Long và tấn công quân Tây Sơn nhưng âm mưu bị bại lộ. [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 195]

Các nhóm “phò Lê” ở Bắc Hà có mặt ở khắp nơi nhưng chưa hẳn đã đồng tình với quân Thanh và cũng không chịu đặt dưới quyền của Lê Chiêu Thống hay một tôn thất nhà Lê mà phần lớn hoạt động như một sứ quân cát cứ. Tuy nhiên họ cũng cầm chân một số lớn quân Tây Sơn phải đóng ở các địa phương chung quanh thành Thăng Long bảo vệ cho đại quân rút lui. Khi quân Thanh tiến sang, những cánh quân Tây Sơn bị bỏ lại đó, phần thì bị thổ hào phản kích, phần thì bị dân chúng nhân cơ hội nổi lên tiêu diệt hay bắt giao lại cho giặc để lập công.

Về vua Lê, Lê Chiêu Thống vốn dĩ có ba anh em [có nơi viết là cùng cha khác mẹ], người lớn nhất là hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ [còn có tên là Khiêm, khi lên ngôi lấy niên hiệu Chiêu Thống], kế tiếp là Ðiền Quận Công Lê Duy Lứu佃郡公黎維鎦, sau nữa là Lạn Quận Công Lê Duy Chỉ蘭郡公黎維祗. [chữ Ðiền nguyên có bộ ngọc 玉, chữ Lạn cũng có bộ ngọc, chữ Lứu bộ kỳ 礻, có sách dịch là Trứu. Chữ Lứu một bên bộ kỳ (礻), một bên chữ do (由), các sách nhà Thanh như Thánh Vũ Ký, Thanh Ðại Thông Sử chép nhầm thành tụ 袖 (bộ y nghĩa là tay áo)] Trong khi Lê Duy Kỳ đang lẩn trốn, nay chỗ này, mai chỗ khác bên cạnh chỉ có một hai người thân tín thì hai người em khởi binh, Lê Duy Lứu nổi lên ở Tuyên Quang, Hưng Hoá, Lê Duy Chỉ nổi lên ở Thái Nguyên, Kinh Bắc. Khi thành Tuyên Quang bị thất thủ, quân Tây Sơn bắt được Lê Duy Lứu ở Ðô Long都龍 đem về Thăng Long chém đầu. Lê Duy Chỉ chạy lên Ba Phùng波篷 (hay Ba Bồng) bị thích khách chém trúng đùi nhưng may nhờ dân chúng bảo vệ nên chạy thoát.

Cứ theo sử nước ta, khi tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh được lệnh của vua Càn Long liền tung ra vài trăm tờ hịch để tuyên bố cho gần xa đều biết. [xem: KĐVSTGCM II, quyển XLVII (1998), tr. 837-8]

Tháng Bảy năm Mậu Thân, Càn Long 53 (1788) một viên thổ mục là Lục Văn Minh 陸文明 đem một nghìn người đến nói với quan canh cửa Quảng Tây là Biện Cụ Trình弁具呈 xin tình nguyện làm tiên phong. Ngày 21 tháng Bảy [22-8-1788], đốc trấn Cao Bằng Chu Văn Uyển朱文琬 nghe tin quân Thanh kéo sang nước ta, đêm hôm đó đem 300 quân chạy về Thăng Long, để đốc đồng Nguyễn Viễn Du 阮遠猷 và cai kỵ Chu Ðình Lý朱廷理 ở lại Mục Mã giữ thành. Ðến tháng Tám, thổ ti Mục Mã là Bế Nguyễn Luật, Bế Nguyễn Hào tập hợp mấy trăm lính đến bắt Nguyễn Viễn Du và Chu Ðình Lý đem sang nạp cho Tôn Sĩ Nghị lập công. [xem: Tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày 21 tháng Tám năm Càn Long 53 [20-9-1788]. Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Ðế thực lục, quyển 1312, trang 25. Những người này sau được trả lại khi vua Quang Trung traođổi tù binh ngoại trừ Nguyễn Viễn Du chết vì bệnh trong khi bị giam.] Bảy châu huyện ở Văn Uyên thấy thanh thế quân Thanh quá lớn nên cũng nguyện ý đầu hàng, lại vẽ địa đồ bảy châu dâng lên, nguyên văn tờ bẩm dịch ra như sau: [nguồn: Quân Cơ Xứ, CCBVV. Nguyên văn tờ bẩm của bảy châu nước An Nam ngày 29 tháng Bảy năm Càn Long 53 [30-8-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 355]

“Phiên thần thế tập giữ ải phủ Trường Khánh tỉnh Lạng Sơn là Nguyễn Ðình Liễn, châu Văn Uyên là Nguyễn Ðình Vượng, Nguyễn Ðình Tài, châu Thoát Lãng là Nguyễn Cung Ðỉnh, Nguyễn Ðình Dung, châu Thất Tuyền là Nguyễn Ðình Ðỉnh, Nguyễn Ðình Ðiền, Ôn Châu Nguyễn Ðình Tạo, Nguyễn Ðình Diễm, Văn Lan châu Hà Quốc Bằng, Nông Công Hảo Lộc, Bình châu Vi Phúc Quyền, Hoàng Ðình Xán, An Bác châu Vi Phúc Dao cùng toàn thể nhân dân bảy châu kính bẩm:

Nhân Quảng Nam nổi lên đuổi chúa chiếm lấy nước thật uất ức không chịu nổi, trộm nghĩ chúng tôi ăn lộc quốc dân thì phải nghĩ đến việc báo ơn vua, chẳng may tháng Tư năm nay, lại có bọn cường tặc họ Nguyễn hoành hành ngang dọc đuổi vua rồi chuyên quyền khiến cho mẹ và quyến thuộc chủ chúng tôi phải sangđầu thiên triều, đã được ơn tái tạo lại ban cho chỗ trú thân.

Nhớ đến khi xưa ngày còn Lê chủ, cỏ cây nơi nơi hớn hở, đến nay họ Nguyễn đương triều, vạn dân chỉ tay oán hận, quả là sài lang vô đạo, cướp bóc tài vật làm tổn thương nhân mạng, dân chúng tôi nguy nan trong sớm tối. Nay nghe thiên binh đã đến biên cảnh, chinh tiễu giặc Nguyễn, rạp mình mong ơn thương xót, cứu dân ra khỏi nơi nước lửa.

Chúng tôi nguyện thống suất nghĩa dũng bảy châu, ra sức đi trước. Kính cẩn dâng lên toàn đồ địa lý trong khu vực, nếu như Lê chủ phục vị rồi, thực cảm kíchđức lớn như trời của đại hoàng đế, rập đầu kính cẩn trình lên.”

Càn Long năm thứ 53, ngày 29 tháng Bảy. [30-8-1788]


Tờ hịch được lưu truyền đến các nơi khiến cho tình hình dao động, nhất là các quan nhà Lê làm việc với Tây Sơn vẫn hoài vọng nước cũ. Trấn thủ Lạng Sơn Phan Khải Ðức潘啓德 [vốn là học trò của Nguyễn Thiếp] khi đọc được hịch tiến quân của Tôn Sĩ Nghị, đã đem cả trấn thành đầu hàng [trên danh nghĩa thì là bỏ Lê Duy Cận quay trở về với Lê Duy Kỳ]. Ngày mồng 1 tháng Tám [31-8-1788] họ Phan gửi lên Tôn Sĩ Nghị tờ bẩm dịch ra sau đây: [nguồn: Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tờ bẩm này bên phải có gắn xi đóng dấu vàng, ghi rõ là “kèm theo nguyên văn của trấn thủ Lạng Sơn nước An Nam để cho hoàng đế ngự lãm, tra xét quả đúng là di quan nhưng không có đóng dấu, vì chưng con dấu cũ do vua Lê nước nam cấp cho đã bị họ Nguyễn thu mất rồi, nay chỉ có nguỵ ấn nên không dám dùng”. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 355-6]

“Trấn thủ Lạng Sơn nước An Nam là Phan Khải Ðức rập đầu trước ngọc chiếu tôn đài của thiên triều, nhận được hịch dụ, không khỏi sợ hãi, Lê triều bị quyền thần khống chế, người nước nam không ai không nghiến răng (căm hận). Tháng Tám năm Nhâm Dần (1782), bản quốc bị nạn kiêu binh, các tướng tự hại lẫn nhau khiến cho quyền thần Nguyễn Chỉnh đầu hàng Tây Sơn, cầu viện binh lực họ Nguyễn, thẳng đến Thăng Long, phù Lê diệt Trịnh, khoảng giữa Nguyễn Chỉnh có tự trị được một thời gian ngắn, đến khi binh Tây Sơn trở lại tấn công, vua nước tôi bỏ thành mà chạy.

Lúc đó văn thần võ tướng dưới quyền nhà vua, chẳng một ai có chí nối lại nghiệp cũ, phù kẻ suy. Bản chức vốn nhỏ bé nghèo nàn, sinh ở nơi thôn dã, thấy thời thế như vậy, cảm thán nhà Lê bồi dưỡng sĩ phu trên ba trăm qua, không có lấy một người có khả năng lo việc lớn, nên đành mượn thế để mưu tính việc khác, không phải là hùa theo đảng giặc.

Trộm nghĩ việc như hiện nay, dân nước tôi đã khổ vì loạn lạc, lại thiếu người chăn dắt, nếu như thiên triều động binh ắt sẽ giỏ cơm bầu nước, chỉ tiếc sao không đến cho mau mau, huống chi tôn đài đã theo lệnh của đại hoàng đế, lòng yêu phiên vương, khôi phục cho nghiệp bá của dòng họ Lê, truyền hịch khắp nơi ắt dù cây cỏ cũng thành binh lính, chỗ hiểm trở nào mà không tiêu diệt, chỗ kiên cố nào mà không tan vỡ, huống chi là một thằng mọi đen ở đất Tây Sơn?

Những kẻ sĩ có chí, thấy cơ hội này nghĩ có thể giải quyết được việc của nước An Nam chẳng mấy chốc mà xong, cho nên đã xin hạ chức nghinh đón quốc vương, chuẩn bị binh giáp trong trấn, ắt quốc vương vì việc này mà phục quốc, binh Tây Sơn nghe tiếng mà rút lui, bản chức không mất tiếng trung với họ Lê, không mất tiếng nghĩa với họ Nguyễn, thật quả là ơn đức không khác gì cha mẹ của tôn đài.”


Kính bẩm.

Càn Long năm thứ 53, ngày mồng một tháng Tám. [31-8-1788]

Họ Phan đinh ninh rằng lòng người vẫn còn lưu luyến chúa cũ, quân Thanh nếu tiến qua dân chúng ắt sẽ “giỏ cơm bầu nước” (đan thực hồ tương) chạy ra nghinh đón. Khi đó Tôn Sĩ Nghị đang ở tại Long Châu, Phan Khải Ðức xin với viên quan nhà Thanh giữ ải để được qua yết kiến quan tổng đốc. Ngày mồng 6 tháng Tám [5-9-1788] năm đó, họ Phan cùng ba đầu mục và 6 người tuỳ tòng đi qua Nam Quan. Tôn Sĩ Nghị cho vào gặp nhưng cũng sợ không biết có thực sự là đúng không, e ngại thông ngôn dịch sai nên cầm tờ bẩm lật qua lật lại tra vấn, họ Phan tâu rằng “vốn dĩ là dân nhà Lê lầm đường theo họ Nguyễn, nay được đọc tờ hịch của thiên triều, vừa hối hận vừa hổ thẹn nên tình nguyện đón chủ cũ để chuộc tội”. [ Theo tờ trình của Tôn Sĩ Nghị. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 356]

Ngoài ra, các đầu mục xã Hoa Sơn, châu Thất Tuyền là Nguyễn Trọng Khoa阮仲科 và Nguyễn Trọng Ðặng 阮仲鄧 cả thảy năm người cũng đến Nam Quan tình nguyện đem 700 dân quân đi theo đánh Nguyễn Huệ. [Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 356] Nhiều khu vực biên giới cũng chấn động, không ít châu huyện tự nguyện đầu phục quân Thanh.]

---------------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đại quân [Thanh] tiến về phía nam, đi đường thuận lợi, đến Tam Tầng Sơn thì đóng quân. Đêm đó, dù Văn Lân muốn chống cự [nguyên văn: 其夜文璘雖欲肆惡 muốn làm điều ác], nhưng lại bị cái lạnh làm hại, chưa đánh đã tự tan rã. Văn Sở cũng rút quân trốn đi trong đêm từ lâu, không ai dám ngăn trở. Nghị lúc bấy giờ hoàn toàn không còn đề phòng, lộ vẻ kiêu căng. Vừa gặp Vũ Trinh đã hỏi rằng:

- Khi đại quân ra cửa ải, trước hết đã ban hịch cáo khắp nơi, quân giặc kinh hoàng, ôm đầu chạy trốn. Thiết nghĩ quần thần và dân chúng nước các ngươi, ai mà không tự gắng sức hăng hái, dựa vào thiên uy, mưu diệt giặc nước, chẳng mấy chốc sẽ lập công. Cớ sao lại một mực yếu hèn, để cho chúng được thong dong đi lại? Nay đại quân đã đến biên giới nước các ngươi, mà lại không có ai báo đáp công lao, thì nước các ngươi còn có người hay sao!

Trinh đáp:

- Nước nhỏ không thể tự mưu tính, mới phải đến cửa ải cầu viện. Nếu có sức chế ngự được, thì còn dám phiền đến đại quân sao? Nay lại bị cho là có tội vì điều này, thì biết nói gì đây? Xin hãy nói về tình hình quân địch. Nguyễn Nhạc lớn lên ở Tây Sơn, dựa vào sào huyệt của mình. Nguyễn Huệ là người lão luyện trên chiến trường, sở hữu binh lực mạnh mẽ. Từ khi trở về miền nam, anh em họ đánh lẫn nhau. Nhạc ở Tây Sơn, Huệ chiếm Thuận Hóa, mỗi người tự xưng hùng, tự xưng đế vương. Những kẻ ở kinh thành nước chúng tôi, bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, v.v., tai nghe thiên binh đến, chưa biết hư thực ra sao, tạm thời tập hợp quân chúng để tránh né. Nhưng nghe nói chúng đóng quân ở Tam Điệp sơn từ Trường An trở về nam, mong muốn lại tiến ra bắc. Một tên tiểu tướng còn hung hãn, huống chi là tên thủ lĩnh lớn? Nếu không dùng đại binh lực một phen, làm sao có thể bắt sống được hắn? Nước nhỏ sau khi mất nước, binh tướng đều yếu ớt, e rằng không dễ phân biệt. Chỉ mong thượng cấp [quân Thanh] uy danh lẫm liệt, dẹp yên man di, đó là điều nước nhỏ chúng tôi mong mỏi.

Nghị cười nói:

- Nước các ngươi bị tàn phá đã lâu, tinh thần suy sụp, cho nên cứ dùng hổ lang để dọa nhau. Đối với ta mà nói, chúng chẳng khác gì chó dê. Cứ sai người dùng dây thừng buộc cổ mà kéo đi, chắc chắn không khó gì. Đợi quân ta đến La Thành, sẽ dễ dàng phân biệt ngay, ngươi cứ xem đó mà biết.

Đến trấn Kinh Bắc, vua [Lê Chiêu Thống] đích thân dẫn quần thần đến yết kiến. Nghị an ủi rằng:

- Con cháu nhà ngươi [ý chỉ vua Lê] nhiều năm gặp đại nạn, được Đại Hoàng đế [Càn Long] thương xót, ra lệnh cho tổng đốc ta dẫn binh hộ tống mẹ con ngươi về nước. Lần này đến đây để xử lý công việc, trước hết phải tận diệt bọn giặc, sau đó sẽ chỉnh đốn quy mô để tính kế lâu dài, vạn sự ổn thỏa rồi mới rút quân về, đừng lo lắng về việc nước nữa.

Vua đáp:

- Kính mong Đại Hoàng đế có đức lớn như trời, không thể nói hết lời. Kính mong thượng cấp [Tôn Sĩ Nghị] hạ cố đến, để nước nhỏ chúng tôi được vinh dự đeo tang, đáp lại lòng ngưỡng mộ lớn lao. Tình cảm vui mừng và cảm kích là vô bờ bến!

Do đó, vua mời Nghị vào doanh trại đóng quân. Nghị nói:

- Từ đây đến kinh thành không xa, nên đi ngay, không nên chần chừ.

Liền ra lệnh phát chín tiếng hiệu lệnh, chỉnh tề đội ngũ mà đi. Chiều tối đến bờ bắc sông Nhị Hà, vua xin được vượt sông vào thành trước, sai người chuẩn bị màn trướng ở trước điện Kính Thiên, mời tổng đốc ở đó. Nghị không chấp thuận, nói:

- Đây không phải là hành doanh của đại tướng, việc quân sự có nhiều bất tiện.

Bèn chia quân đóng tại bãi cát rộng lớn ở hai bờ bắc nam sông, sai người bắc cầu phao qua sông để tiện đi lại. Đó là ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1788). Ngày hôm sau, vua đích thân đến chỗ Nghị chờ đợi. Nghị ra lệnh bày nghi trượng long trọng tại điện Kính Thiên, chiếu cho trăm quan cùng hầu. Vua mặc áo cừu đội mũ miện, quỳ ở sân. Nghị dẫn theo thuộc hạ phụng tuyên sắc thư của vua Thanh, phong vua [Lê Chiêu Thống] làm An Nam Quốc vương. Nội dung sắc văn đại ý rằng:

"Mở rộng mười ba đạo đất phong, vốn không phải vì lợi dụng đất đai của họ. Truy ngược lại hơn ba trăm năm cống nạp, há lại không nhớ đến tổ tông."

Lễ nhận phong hoàn tất, vua theo lệ sửa biểu tạ ơn, vọng về cửa khuyết [tức cửa cung vua Thanh] vái lạy từ xa, xin Nghị chuyển đi. Nghị chấp thuận.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Dù vua đã được phong, nhưng các văn bản ban hành đều dùng niên hiệu Càn Long乾隆年號. Vì có Nghị ở đó, vua không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống để kỷ nguyên昭統紀元. Trong lúc rảnh rỗi sau buổi chầu, vua thường đến doanh trại của Nghị để nghe các công việc quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa theo sau, lính hộ vệ chỉ có mấy chục người. Dân thành có người không biết đó là vua, hoặc có người biết thì thì thầm với nhau rằng:

"Từ khi nước Nam ta có đế vương đến nay, chưa từng thấy ai hèn hạ đến thế. Danh xưng tuy là vua nhưng niên hiệu lại dùng Càn Long, mọi việc đều phải qua Tổng đốc, thì có khác gì nước nội thuộc?"

1760428206909.png

Minh họa vua Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của nhà Thanh
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
------------------------------

[Việc vua Chiêu Thống xuất hiện đón quân Thanh có nhiều điểm có thể gây ngộ nhận. Cương Mục, Liệt Truyện và HLNTC đều chép là vua Chiêu Thống gặp quân Thanh ở Kinh Bắc, [CM còn viết là đem theo trâu bò, rượu để khao thưởng] rồi cùng đi với họ vào thành Thăng Long.

Tuy nhiên những chi tiết trên đều không phải chính người trong cuộc mà do đời sau viết, rất có thể từ một nguồn chép lại lẫn nhau nên người đi trước sai lầm thì người sử dụng cũng sai theo. Do đó, chúng tôi xin dẫn ba tài liệu có tính nhân chứng:1/ của Lê Quýnh [người đi tìm vua Chiêu Thống và đưa vua Lê về gặp Tôn Sĩ Nghị], 2/ của Lê Duy Ðản [người đi theo quân Thanh từ Quảng Tây về đến Thăng Long có tham dự trong lễ phong vương cho Lê Duy Kỳ] và 3/ của chính Tôn Sĩ Nghị [trong tấu thư gửi lên vua Càn Long].

1. Theo lời kể của Lê Quýnh trong Bắc Hành Tùng Ký thì:

… Tháng Mười (Mậu Thân 1788), yết kiến tổng-đốc Tôn (Sĩ Nghị) ở phủ Thái Bình [thuộc Quảng Tây, Trung Hoa]. Bấy giờ đại binh đã nhóm. Ngày 24 tháng ấy, (đại binh) khởi hành. Ngày sóc tháng Một, ra cửa Trấn nam quan, lấy thành Lạng-sơn… Ðại quân thẳng tới huyện Bảo-lộc thuộc Giang-bắc. Ba lần đánh đều được. Bắt đô–đốc Trần Danh-Hoán [thực ra là Bính, viết nhầm].

Quan lớn Tôn bảo người hỏi rằng: “Bộ-đường ta ra khỏi cửa ải đã hơn tám trăm dặm. Vì cớ gì chưa thấy Quốc-vương động tĩnh ra sao? Quýnh trả lời rằng vìđường-sá cách-trở, và xin một mình cưỡi ngựa đi tìm chủ. Ngài bằng-lòng.

… Ngày 20 [tháng Một], qua sông Thị-cầu, phá doanh giặc, tiến đến bờ bắc sông Phú-lương (muốn nói sông Nhị). Giặc Tây-sơn bỏ thành Thăng-long, chạy vềphương nam.

Ngày 21, vua yết-kiến quan lớn Tôn ở bờ Bắc sông. [La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II (1998) tr. 879-880. Có lẽ Lê Quýnh viết chệch đi một ngày để khỏi tiết lộ việc hai thầy trò vào gặp Tôn Sĩ Nghị vào đêm hôm trước có vẻ không được đắc thể.]

2. Theo Sứ Diêu Hành Trạng là tập thơ Lê Duy Ðản ghi lại chuyến đi sứ sang Trung Hoa cầu viện [Hai sứ thần Trần Danh Án và Lê Duy Ðản phải ăn mặc rách rưới để len lỏi núi rừng sang Trung Hoa.] thì khi quân Thanh đến bờ phía bắc sông Phú Lương,quân Tây Sơn đã bỏ đi nên vào thu phục kinh thành, [Lê Duy Ðản] theo hầu nhà vua đến điện Vạn Thọ làm lễ sách phong”.[Nguyên văn 天兵下寨富辰江北賊渠衆宵遁進復京城奉駕御萬夀殿行册封禮 (thiên binh hạ trại Phú Thần giang bắc, tặc cừ tất chúng tiêu độn, tiến phục kinh thành, phụng giá ngự Vạn Thọ điện hành sách phong lễ). Lê Duy Ðản: Sứ Diêu Hành Trạng (YHVH), quyển VI (2010) tr. 180] Ông không nói rõ vua Lê đến lúc nào nhưng ngay trước đó khi quân Thanh qua sông Thị Cầu thì chưa nói tới tự hoàng nên chúng ta có thể biết được vua Lê gặp Tôn Sĩ Nghị khi quân Thanh đã lấy được Thăng Long đúng như lời kể của Lê Quýnh.

3. Lời tâu của Tôn Sĩ Nghị trong Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược [KDANKL] có nhiều chi tiết hơn về việc vua Lê đến gặp quân Thanh. Khi tiến xuống Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị rất nóng ruột vì nếu không tìm thấy vua Chiêu Thống hay ông đã bị giết thì việc đem quân sang nước ta sẽ không còn chính nghĩa, biến thành một cuộc tiến binh xâm lấn gây bất lợi cho uy tín của Thanh triều.

Theo tấu thư của Tôn Sĩ Nghị [KDANKL, quyển IX, trang 10] thì khi quân Thanh đã vào thành Thăng Long, canh hai (khoảng 9-11 giờ đêm) ngày 20 tháng Một [17-12-1788] Lê Duy Kỳ mới đến gặp Tôn Sĩ Nghị:

“Ngày 20 tháng Một thần thống lãnh quan binh khắc phục Lê thành. Canh hai đêm hôm đó, An Nam tự tôn Lê Duy Kỳ đến quân doanh, cùng thần gặp mặt, vọng về hướng bắc khấu đầu tạ ơn hoàng thượng tái tạo. Y dãi bày rằng nước nhà đã bị nghiêng đổ, không ngờ lại được ân điển của đại hoàng đế. Y phục xuống đất khóc lóc, không sao dứt được.” [KDANKL, quyển IX, tr. 10-11]

Cũng nên nhắc lại, ngày 20 tháng Một [17-12-1788] Tôn Sĩ Nghị chỉ đem theo vài ba người vào thành Thăng Long để nhận đầu hàng của triều đình Lê Duy Cẩn. Việc đóng quân trong một tòa thành trống trải, đổ nát thực là bất tiện nên sau khi xem xét Tôn Sĩ Nghị đã quay ra đóng quân ở hai bên bờ sông. Tối hôm đó, Lê Duy Kỳ mới về kịp.

Khi vua Lê xuất hiện Tôn Sĩ Nghị rất vui mừng nên lập tức tổ chức sách phong Lê Duy Kỳ làm An Nam quốc vương. Như vậy, việc vua Lê đem bò rượu ra đón Tôn Sĩ Nghị là sai sự thật, mặc dầu theo lời tường thuật của Lê Duy Ðản [đi cùng với quân Thanh sang nước ta] thì sau khi ra khỏi Nam Quan, một số hào mục Lạng Sơn có đem trâu bò, rượu thịt đến khao quân nhưng không phải theo lệnh vua Chiêu Thống. Lê Quýnh và Lê Duy Ðản không nhắc đến những chi tiết khi vua Lê gặp tổng đốc Lưỡng Quảng có lẽ vì việc ra mắt ấy không lấy gì làm vinh quang, chỉ có hai thầy trò vào hành doanh quân Thanh lúc đêm khuya một cách không minh bạch.

Ngày 22 tháng Một năm Mậu Thân [19-12-1788], Tôn Sĩ Nghị vào thành làm lễ phong vương cho Lê Duy Kỳ, tuyên đọc sắc phong sau đây:

Nguyên văn:

奉天承運皇帝制曰:

朕惟撫馭中外,綏靖邇遐,義莫大於治亂持危,道莫隆於興滅繼絕,其有夙共朝命,久列世封,遘家國之多難,屬臣民之不靖,則必去其蟊賊,拯厥顛際,俾還鍾簴之觀,以肅屏藩之制。

爾安南國嗣孫黎維祁,化沐炎陬,序承家嗣,當爾祖奄逝之日,正阮逆搆亂之時,肇釁蕭牆,失守符印,孑身播越,闔室遷移,棄彼故都,依於上國。

溯百五十年之職貢,能不念其祖宗,披一十六道之輿圖,原非利其土地,且柔遠人所以大無外,討亂賊所以儆不虔,是用輯爾室家,克完居處,勵爾臣庶,共復仇讐。

特敕大吏以濯征,爰董王師而迅剿,先聲所讋,巨憝奚逃,內難斯寧,群情更附,釋其瑣尾流離之困,加以生死骨肉之恩,舊服式循,新綸允賁,玆封爾為安南國王,錫之新印。

王其慎修綱紀,祗奉威靈,戢和民人,保守彊土,勿怠荒而廢事,勿懷安以敗名。

庶荷天朝再造之仁,益迓國祚重延之福。

欽哉!

毋替朕命。

[nguồn: Thượng Dụ Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC, tr. 370-1]

Phiên âm:

Phụng thiên thừa vận hoàng đế chiếu viết:

Trẫm duy phủ ngự trung ngoại, tuy tĩnh nhĩ hà, nghĩa mạc đại ư trị loạn trì nguy, đạo mạc long ư hưng diệt kế tuyệt, kỳ hữu túc cộng triều mệnh, cửu liệt thế phong, cấu gia quốc chi đa nạn, thuộc thần dân chi bất tĩnh, tắc tất khứ kỳ mâu tặc, chửng quyết điên tế, tỉ hoàn chung cự chi quan, dĩ túc bình phiên chi chế.

Nhĩ An Nam quốc tự tôn Lê Duy Kỳ, hoá mộc viêm tưu, tự thừa gia tự, đương nhĩ tổ yêm thệ chi nhật, chính Nguyễn nghịch cấu loạn chi thời, triệu hấn tiêu tường, thất thủ phù ấn, kiết thân bá việt, hạp thất thiên di, khí bỉ cố đô, y ư thượng quốc.

Tố bách ngũ thập niên chi chức cống, năng bất niệm kỳ tổ tông, phi nhất thập lục đạo chi dư đồ, nguyên phi lợi kỳ thổ địa, thả nhu viễn nhân sở dĩ đại vô ngoại, thảo loạn tặc sở dĩ cảnh bất kiền, thị dụng tập nhĩ thất gia, khắc hoàn cư xứ, lệ nhĩ thần thứ, cộng phục cừu thù.

Ðặc sắc đại lại dĩ trạc chinh, viên đổng vương sư nhi tấn tiễu, tiên thanh sở triếp, cự đỗi hề đào, nội nan tư ninh, quần tình cánh phụ. Thích kỳ toả vĩ lưu ly chi khốn, gia dĩ sinh tử cốt nhục chi ân, cựu phục thức tuần, tân luân doãn bí, tư phong nhĩ vi An Nam quốc vương, tích chi tân ấn.

Vương kỳ thận tu cương kỷ, chi phụng uy linh, tập hoà dân nhân, bảo thủ cương thổ, vật đãi hoang nhi phế sự, vật hoài an dĩ bại danh.

Thứ hà thiên triều tái tạo chi nhân, ích nhạ quốc tộ trùng diên chi phúc.

Khâm tai!

Vô thế trẫm mệnh.

Dịch nghĩa

Phụng mệnh trời, tuân theo vận nước, hoàng đế xuống chiếu rằng:

Trẫm chỉ vỗ về để dẫn dắt trong ngoài, khiến cho nơi xa xôi cũng phục, dùng nghĩa lớn để trị việc loạn giúp kẻ nguy, đạo được lớn để hưng diệt kế tuyệt. Những người trước nay theo phò, đời đời phong tước, một khi quốc gia gặp nạn, thần dân không yên, phải làm sao đưổi được giặc, cứu vớt kẻ lao đao, đem lại mối rường cho nước, tỏ lộ cái lòng che chở cho phiên thuộc.

Ngươi tự tôn nước An Nam Lê Duy Kỳ, ở nơi phương nam nóng nực, kế thừa dòng dõi. Gặp lúc ông ngươi vừa mất, nhân thời giặc Nguyễn dấy loạn, trong triều gặp chuyện rối ren, mất cả ấn tín, gia đình tan tác phải bỏ kinh đô mà chạy tứ phương, nương tựa vào thượng quốc.

Trong một trăm rưởi năm qua không quên triều cống, nên trẫm phải nghĩ đến tổ tông, còn đối với dư đồ mười sáu đạo kia, trẫm không màng đến việc lấy đất, đạo nhu viễn không ngoài như thế. Trừ loạn tặc sở dĩ cũng là để răn đe, cốt lấy lại cho gia tộc ngươi trở về nơi cũ, khuyến khích cho dân chúng bầy tôi, cùng trả được mối thù.

Nay ta đặc biệt sai kẻ đại lại cất binh chinh phạt, đem vương sư chinh tiễu, trước lên tiếng doạ cho chúng sợ tội mà chạy đi, để đem các ngươi về cho mối giềng trở lại, người ly tán nay đoàn viên ấy là cái ơn chết đi sống lại, cốt nhục nối liền. Y phục cũ nay trở lại, giây thao mới nay rực rỡ, phong cho ngươi làm An Nam quốc vương, ban cho ấn mới.

Hãy cố gắng mà tu sửa kỷ cương, vâng mệnh uy linh, hoà thuận với nhân dân, giữ gìn cương thổ, chớ có bê trễ mà bỏ phế việc, đừng cầu an mà mang tiếng. Hãy nhớ đến cái đức nhân tái tạo của thiên triều, hãy nghĩ đến cái phúc vận nước được nối dài trở lại.


Kính thay!

Chớ bỏ qua lệnh của trẫm.

Về diễn tiến phong vương ở điện Vạn Thọ, tài liệu nhà Thanh viết như sau:

Thần nhận được sắc ấn An Nam bổ cấp [thay cho ấn cũ bị mất] nên lập tức ra lệnh cho Lê Duy Kỳ kính cẩn sửa soạn chăng đèn kết hoa, đầy đủ nghi trượng. Thần đích thân tiến thành, Lê Duy Kỳ dẫn quan dân trong nước, quì ở bên đường đón vào căn nhà chính của quốc vương, vọng về cung khuyết hành lễ tam quỳ cửu khấu, làm lễ nhận lãnh xong, kính cẩn dâng biểu văn, giao đến tận nơi thần ở, cung tạ thánh ân, tình cảnh cảm kích vui sướng thật tràn ra khắp phố phường… [臣親送進城。黎維祁率該國官民。跪伏道旁。迎至該國王正屋。望闕三跪九叩衹領訖。並敬具表文。交到臣處 … (thần thân tống tiến thành. Lê Duy Kỳ suất cai quốc quan dân. Quỵ phục đạo bàng. Nghinh chí cai quốc vương chính ốc. Vọng khuyết tam quỵ cửu khấu kỳ lãnh cật. Tịnh kính cụ biểu văn. Giao đáo thần xứ) KDANKL, quyển 10, tr. 14]

Ngày hôm sau 23 tháng Một năm Mậu Thân [20-12-1788], Lê Duy Kỳ dâng biểu tạ ơn, dịch ra sau đây: [Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 371-2.]

“Thần là Lê Duy Kỳ mới được phong làm An Nam quốc vương tâu lên cảm tạ thiên ân. Thần nhà gặp tai nạn, mất cả ngôi báu, một thân chạy trốn, quyến thuộc phải chạy sang nội địa, mong được đại hoàng đế lòng nhân rộng rãi, lượng như cha mẹ, phủ khắp trong ngoài, vỗ về, thương xót cho việc tồn vong, sai bồi thần xuất quan thăm hỏi, không đợi nghe lời trần tình đã tính chuyện nguyên nhung, không chỉ binh quan mà thôi, còn cả phu phen mấy tỉnh.

Nhớ năm xưa binh Tần xuất cảnh, đem lòng thương xót đến sứ thần nước láng giềng, [nhắc lại tích Thân Bao Tư cầu viện nước Tần đem quân đánh nước Ngô để cứu nước Sở thời Xuân Thu. Tạ Mẫn Hoa – Uông Hiển Huy (chủ biên), Trung Hoa thành ngữ điển cố đại toàn. (2003) tr. 930.] đất nước đã mất nay nhờ thiên vương đất bắc tái tạo, ánh mặt trời soi xuống khiến kẻ cuồng khấu kia phải tiêu tan ra mây khói, đến ngày hai mươi tháng Mười một đã dẹp sạch bọn sói lang, lấy lại quốc thành. Thần vốn thế cô, đang khi nguy khốn, sức khó có thể tự đứng lên, được bệ hạ truyền chỉ Lưỡng Quảng đốc thần giúp cho nên mới được như thế, lại vun đắp thêm, đoái thương kẻ dưới nên ban chức, kẻ ngoại phiên chưa ai từng được như vậy, quả là sử sách hiếm khi nghe thấy.

Thần nguyện hết sức làm phên giậu ở biên cương để báo đáp sự đoái hoài của thánh chúa, nếm mật để phúc được lâu dài, không dám thờ ơ ngồi trên đống lửađể cầu an, từ nay nghiền xương nát thịt, cũng không trả được cái ơn kế tuyệt phù nguy, khi thức lúc ngủ, mãi mãi kết cỏ ngậm vành trong dạ.

Thần còn trẻ tuổi, gặp ách nguy nan, nay lại thấy được lăng miếu, được tế tổ tiên, ơn ấy ngày ngày mong được báo đáp, xin đại hoàng đế cho thần được tới nơi kinh khuyết để chiêm ngưỡng thánh nhan để tỏ chút lòng thành, quì nghe lời dậy, thần thật không khỏi bồi hồi mong mỏi.


Kính cẩn tâu lên.

Càn Long năm thứ năm mươi ba, ngày hai mươi ba tháng Một. [20-12-1788]

Trong biểu tạ ơn này Lê Chiêu Thống xin được sang Trung Quốc đến Bắc Kinh triều kiến vua Càn Long nhà Thanh, lời văn hết sức khiêm tốn, hạ mình. Tôn Sĩ Nghị lập tức tâu ngay lên vua Càn Long kèm theo tờ biểu tạ ân của vua Chiêu Thống, coi như công tác tái lập Lê triều đã thành công mỹ mãn. Xem ngày giờ xít xao chỉ trong ba ngày mà tiếp thu Thăng Long, phong vương, tạ ân đủ biết nhà Thanh hết sức đắc ý về việc khôi phục kinh thành và đưa vua Lê lên ngôi trở lại.

Ðược tin Tôn Sĩ Nghị chưa đầy một tháng đã chiếm được Thăng Long, vua Cao Tông mừng rỡ lập tức giáng chỉ thăng cho Tôn Sĩ Nghị lên Nhất Ðẳng Mưu Dũng Công一等謀勇公, thưởng cho mũ có gắn hồng bảo thạch, còn Hứa Thế Hanh thì thăng lên Nhất Ðẳng Tử Tước 一等子爵, các quan văn võ khác ai cũng được ban thưởng.

Ngày mồng 2 tháng Chạp [28-12-1788], Lê Duy Kỳ cũng viết một tấu thư khác, lần đầu tiên dùng ấn An Nam quốc vương để giao thiệp với Trung Hoa, dịch ra như sau:

“Thần là Lê Duy Kỳ mới nhận chức An Nam quốc vương hoảng hốt rập đầu mà tâu rằng:

Tổ tiên nhà thần đời đời kế nhau được phong làm phiên, luôn luôn triều cống. Thế nhưng vì vận nước gặp phải tai ương, kẻ cuồng man xâm chiếm, thần một thân bôn đào, quyến thuộc chạy sang nội địa, may được phúc nhân của đại hoàng đế, lượng rộng mà bao biện cho, lập tức phái binh mã mấy tỉnh, tiễu trừ kẻ hung đồ xấu xa, mau chóng lấy lại quốc thành.

Thần lâu nay bôn ba rong ruổi, sức khó có thể tự đứng lên, chẳng dám cầu phong, nay được ban cho tước vương, lại thêm ấn sắc mới. Cái ân sủng đặc biệt vỗ về người trong nước đến kẻ xa xôi, cho chí kẻ phiên bang, cái đức tài bồi ấy xưa nay hiếm có. Từ nay trở đi, đời đời con cháu thần, mãi mãi là kẻ tôi đòi của thánh triều, bảo vệ bờ cõi, kính cẩn dâng biểu tạ ơn.

Ðược mặt trời sáng chói chiếu rọi, ân đức cao cả biết nhường nào, mùa xuân nay lại quay trở lại, cỏ cây nay lại tốt tươi, che chở xa dày, nguyện xin kết cỏ ngậm vành.

Kính duy hoàng đế bệ hạ đức như vua Thuấn ngày xưa, đem cái văn hoá nhà Chu trải ra bốn phía, pháp độ rõ ràng, người người hoà thuận, bao phủ cả đến bên ngoài, [ở đây biểu văn dùng rất nhiều điển như vua Thuấn, nhà Chu, quẻ Càn, Ðại Ðồng, Khôn … đều là nói về thời thịnh trị] xa gần thảy đều cảm phục, ánh sáng toả như cha mẹ khiến cho hạ quốc đều hướng về. Nghĩ đến thần nhiều đời lòng thành cung thuận, thương xót cho kẻ gặp lúc nguy nan, không đợi đến thần phải kêu cứu, sớm sai nguyên nhung, chỉnh đốn lại cho làm phên giậu, cho mặc lại áo cũ, cái đức kế tuyệt hưng suy quả là hết sức, ơn cao dày xưa nay hiếm thấy ít nghe.

Thần gặp lúc nguy nan, may sao nay lại được phú quí, không biết làm thế nào để báo đáp, trong lòng mong mỏi được triều yết, mở miệng nói lời đội ơn.



Quay về đá ở Nam sơn mà ghi khắc, ngẩng lên Bắc khuyết để nhớ ơn, nguyện sẽ học tiếng Trung Thổ, không phải phiền người dịch lại, mãi mãi giữ mối cháu con để được hưởng phúc lâu dài, mãi mãi được trời cao soi rọi.”


Kính cẩn dâng lên biểu tạ ơn này.

Càn Long năm thứ năm mươi ba, ngày mồng hai tháng Chạp. [nguồn: Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 372.]

Lê Chiêu Thống cũng nhờ Tôn Sĩ Nghị và Tôn Vĩnh Thanh đệ trình lên vua Cao Tông xin năm tới (tức năm Kỷ Dậu, Càn Long 54) sẽ sai hoàng đệ Lê Duy Chỉ đưa một phái đoàn sang tiến cống theo lệ hai năm một lần để thay mặt quốc vương khấu đầu tạ ơn. Bản thân Lê Duy Kỳ xin được đích thân qua chúc thọ vua Cao Tông vào năm Canh Tuất [1790] là năm bát tuần đại khánh để tỏ lòng thành. [nguồn: Quân Cơ Xứ, CCBVV, tờ trình của Lê Duy Kỳ đề ngày 24 tháng Chạp năm Càn Long thứ 53. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 372-3.]

Vua Chiêu Thống cũng cho anh vợ là Nguyễn Quốc Ðống sang Trung Hoa để đón gia quyến, thân nhân. Theo KDANKL, thái hậu, vương phi, nguyên tử … về đến Thăng Long đúng vào tối ba mươi Tết, chỉ vài ngày trước khi xuất bôn một lần nữa:

Lê Chiêu Thống sau khi tập phong lập tức sai bồi thần tiến quan, đón mẹ và quyến thuộc về nước được tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh sai tri phủ Nam Ninh Cố Quì trênđường lo liệu mọi việc. Ngày trừ tịch tháng Chạp đến Lê thành, nghe nói mẹ con tại bờ sông gặp nhau, cảm kích thiên ân của hoàng thượng, tình hình vừa buồn vừa vui, những người chứng kiến, ai cũng cảm động. [KDANKL, quyển 12 tr. 23-4]

----------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nghị cũng tự cao tự đại, khi vua đến yết kiến, có khi không gặp, chỉ sai người truyền lời dưới gác chuông rằng không có việc quân quốc gì, bảo vua hãy về cung nghỉ ngơi. Cách tiếp đãi [của Nghị với vua Lê] vô cùng sơ sài. [Tôn Sĩ Nghị] lại thường thả lỏng quân sĩ tha hồ làm điều phi pháp. Trước đây, những người Bắc [người Thanh] cư trú tại phường Hà Khẩu河口坊 trong kinh thành, cùng với những người ở Thiểm Xá Dung陝舍庸 thuộc Kinh Bắc京北, Hiến Doanh憲營 thuộc Sơn Nam, tổng cộng hơn vạn người. Đến lúc này, tất cả đều đến theo quân đóng trại, hoặc tự lập quán trọ. Những kẻ này thông thạo tiếng Việt, am hiểu phong tục địa phương, nên thừa thế dùng đủ mọi cách để vu khống người lương thiện, cướp đoạt nhà giàu, thậm chí ngay giữa chợ búa, đường phố cũng cướp của, giật sắc, không hề kiêng nể. Dân chúng xung quanh kinh đô thường xuyên phải chịu khổ vì điều này. Dù vua biết rõ tệ nạn này, nhưng vì đã mời họ đến, chỉ sợ vì thế mà làm phật ý, khó lòng lên tiếng. Nghị không phải không biết tình hình, nhưng cũng mặc kệ cho họ làm, không hề ngăn cản chút nào.

Lại nói, sau khi Hoàng đế [Lê Chiêu Thống] trở về kinh đô, các quan văn võ đã phải lưu lạc nay lần lượt tề tựu đến bái kiến và chúc mừng. Để thưởng công những người đã theo phò tá khi lâm nạn, Hoàng đế đã phong cho:

• Phạm Đình Dư范廷璵 làm Lại bộ Thượng thư吏部尚書, Bình chương sự平章事.

• Nguyễn Huy Túc阮輝宿 làm Đồng bình chương sự同平章事.

• Lê Duy Đản黎惟亶, Vũ Trinh武楨 làm Tham tri chính sự參知政事.

• Nguyễn Đình Giản阮廷簡 làm Binh bộ Thượng thư兵部尚書 kiêm Tri xu mật viện sự樞密院事 (chức quan phụ trách cơ mật quân sự).

• Nguyễn Duy Hợp阮惟洽, Chu Doãn Lệ朱允勵 làm Đồng tri xu mật viện sự 樞密院事.

• Trần Danh Án陳名案 làm Phó Đô Ngự sử副都御史.

• Lê Huy Chân黎輝瑨, Phạm Quý Thích范貴適 làm Hộ bộ Biện chi戶部變支.

• Lê Xuân Hiệp黎春洽, Ngô Vi Quý吳為貴làm Đồng tri Binh chính同知兵政.

• Lê Quýnh黎 亻冏làm Quân trung úy đốc軍中尉督, được ban tước Quận công郡公. Ông này sẽ chỉ huy quân của các đạo "Lặc Vương"勒王 (quân của các vương tôn, quan lại cũ trung thành với Lê) và theo phụ tá ở phủ tổng đốc Tôn Sĩ Nghị để xử lý các việc quân sự.

Các quan lại trong và ngoài triều đình khác đều trở về nha môn cũ làm việc như thường lệ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La

[Sau khi trở lại kinh đô, vua Chiêu Thống lập tức tổ chức lại triều chính, bổ nhiệm quan lại, thăng thưởng và trừng phạt theo từng trường hợp. [… Nhà vua đã khôi phục được nước, bèn hạ lệnh thăng chức cho bầy tôi đi hộ giá:

– Phạm Ðình Dữ lên bình chương sự, thượng thư bộ Lại.

– Lê Duy Ðản và Vũ Trinh lên tham tri chính sự.

– Nguyễn Ðình Giản lên thượng thư bộ Binh, tri-Xu mật viện sự.

– Trần Danh Án, lên phó đô ngự sử.

– Lê Quýnh lên Trung quân đô đốc, tước Trường phái hầu. Ngoài ra đều được thăng chức có cao thấp khác nhau.

Liền đó nhà vua sai trị tội những người hàng giặc:

– Ngô (Thì) Nhậm và Phan Huy Ích đều truất về làm dân.

– Nguyễn Hoãn bị bãi mất tước Quận công.

– Phan Lê Phiên bị giáng xuống Ðông Các học sĩ.

– Mai Thế Uông bị giáng xuống Tư huấn.

CM II (1998) [quyển XLVII] tr. 839-42] Tôn Sĩ Nghị cũng yêu cầu vua Lê thu góp binh lương, mộ lính, đóng thuyền để chuẩn bị tiến xuống Thuận Hóa.

Tôn Sĩ Nghị cũng bố cáo cho dân chúng biết về thắng lợi của quân Thanh, và khẳng định sẽ xử tử bất cứ ai tơ hào cành cây ngọn cỏ đồng thời hăm dọa không được chứa chấp hay ẩn lậu quân Tây Sơn [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 202] để yêu cầu dân chúng bắt nộp cho họ:

“Các ngươi bị tặc phỉ làm hại đã lâu, nay đại binh tiến tiễu, ngoài số bị giết khi lâm trận, chạy trốn chắc là đông. Nếu ta ra lệnh cho quan binh đến các làng xóm tìm bắt, không khỏi gây chuyện phiền nhiễu. Chi bằng các thôn trại tự tra xét trói chúng đem trình ra, vừa để các ngươi hả lòng phẫn hận, vừa được miễn tội bao che, dấu diếm.” [KDANKL, quyển IX, tr. 6]

Theo báo cáo của nhà Thanh, mỗi ngày dân chúng lùng bắt vài chục người giao lại để lập công. Những người đó đều bị chém đầu, tính ra phải đến vài trăm. Quân Thanh lại nhân cớ phòng gian bảo mật, bắt bớ những người dân nghèo làm nghề buôn bán lẻ, cắt tóc, bán thuốc hút … vu cho tội do thám rồi đem ra giết. [Trần Nguyên Nhiếp, An NamQuân Doanh Kỷ Lược. Bản chép tay thư viện Harvard-Yenching [Tạp Sử, 2404]]

Vì vua Chiêu Thống không có quân đội, Tôn Sĩ Nghị đã điều một nửa số “nghĩa dũng” tức là thành phần dân thiểu số do các châu, huyện đi theo quân Thanh sang đặt dưới quyền của Lê Duy Chỉ [em vua Lê mới đi theo Sầm Nghi Ðống trở về] làm túc vệ cho thêm thanh thế. Theo báo cáo của Tôn Sĩ Nghị, ông ta cũng đem những súng ống lấy được của Tây Sơn giao cho Lê Duy Kỳ để sử dụng. [KDANKL, quyển XII, tr. 22-3]

Ðể đáp lại, vua Lê cũng bốn lần mang bò gạo heo dê đến để Tôn Sĩ Nghị khao quân. Tôn Sĩ Nghị không nhận nhưng làm ngơ để cho các xưởng dân, Hoa kiều qua lại với triều đình An Nam một cách bán chính thức. [KDANKL, quyển XI, tr. 28] Ngoài ra, Lê Duy Kỳ còn sai Nguyễn Ðình Mai, Lê Duy Tông và Lê Xuân Kinh đem lễ vật và quà cáp lên tạ ơn tổng đốc Phú Cương ở An Biên. [KDANKL, quyển XII, tr. 28]

Về việc tập trung vật liệu, thuê mướn công nhân để đóng 40 chiếc đại thuyền chuẩn bị đem quân vào đánh Quảng Nam thì vua Lê thoái thác vì không có phương tiện nên nhà Thanh phải bỏ kế hoạch dùng đường thủy.

Với cách thức đối xử rất kẻ cả, Tôn Sĩ Nghị luôn luôn coi triều đình vua Chiêu Thống như một đám người vô năng, nhút nhát. Các kế hoạch hành quân được giữ bí mật khiến người ngoài chỉ thấy tướng lãnh Trung Hoa “bỏ qua những lời kêu than và vô tình trước những đại bại, chĩ biết kêu gọi Tư mã và quân Nam Kỳ đầu hàng hay ra giao chiến thử tài”. [Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 205.] Người ta thường hay nhắc đến hình ảnh quân Thanh chỉ lo chè chén, vui chơi nhân dịp Tết Nguyên Ðán và những giáo sĩ Tây phương cũng miêu tả quân Thanh “chỉ thao diễn hay vận động quân sự để phô trương”.

Sau này, ông tiến sĩ đầu triều là Lê Duy Ðản cũng cho rằng Tôn Sĩ Nghị đã nghe lời sàm nịnh của kẻ dưới, vua Lê thì trúng kế ly gián của Phan Khải Ðức, tướng sĩ kiêu ngạo là nguyên nhân của việc thua trận. Thực ra, chính sự cồng kềnh của tổ chức đưa đến những khó khăn mà quân Thanh không thể giải quyết được.

Lúc ban đầu vua Càn Long đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị thừa thắng đánh xuống phương Nam “đảo huyệt cầm cừ” [đánh vào sào huyệt bắt đầu sỏ] để “nhất lao vĩnh dật” [công khó một lần mà mãi mãi thong thả]. Việc tiến quân quá dễ dàng khiến cho Thanh triều tưởng rằng chỉ cố thêm một chút thì sẽ đạt được toàn thắng. Có lẽ vua Thanh mong mỏi sẽ bắt được Nguyễn Huệ để tổ chức một đại lễ “hiến phù” như trước đây đã làm đối với các đầu mục Tân Cương. Tính toán sơ khởi cho thấy chuyện mở một đường tiến quân dài đến hơn 3,000 dặm, thêm 50 kho gạo và trạm truyền tin sẽ rất khó khăn tốn kém, nhất là thời tiết sắp vào mùa mưa, bệnh tật, lam chướng sẽ gây rất nhiều khó khăn cho đoàn quân viễn chinh.

Nếu kế hoạch thứ nhất không thực hiện được, Tôn Sĩ Nghị sẽ kêu gọi Nguyễn Huệ ra hàng rồi sau đó có thể công nhận cả hai nước: An Nam của nhà Lê và Quảng Nam của nhà Nguyễn [Tây Sơn]. Chính sách chia để trị, lấy nước này khống chế nước khác vốn dĩ là chủ trương lâu đời của Trung Hoa, lúc nào cũng muốn đóng vai trung tâm của thiên hạ [dưới vòm trời], các nước nhỏ quây quần chung quanh quay về như các vì sao chầu sao Bắc Thần.

Tuy nhiên, nếu có chiếm làm nội thuộc thì thuế má thu được cũng không đủ để chi phí cho tổ chức hành chánh, quân sự. Vả lại, vua Càn Long đã công khai nói rõ “không vì lợi đất đai hay dân chúng” nên vua Thanh đổi ý ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị lập tức triệt binh lấy lý do là mục tiêu “hưng diệt kế tuyệt, tự tiểu tồn vong” xem như đã xong.

Thoạt tiên, Tôn Sĩ Nghị cũng sai Tôn Vĩnh Thanh điều động 3,000 quân thủy từ Quảng Ðông xuống biên giới và chuẩn bị phu phen để lo việc thiết lập đài trạm, dịch trạm tiến xuống Thuận Hóa. Ðể diệu võ dương oai, ngày ngày quân Thanh duyệt binh, tập luyện nhưng thực ra họ cũng không còn bụng dạ nào để chiến đấu mà chỉ trông ngóng sớm trở về quê hương bản quán.

Khi tính toán binh lương, Tôn Sĩ Nghị thấy rằng số lượng gạo dành cho quân đội thực tế chỉ chưa đầy 1/5 số gạo dành cho phu phen, chưa kể tiền muối rau thành phí tổn quá cao nếu muốn duy trì một trục lộ dài 3000 dặm. [KDANKL, quyển XI, tr. 25] Việc đưa quân vào Thuận Hóa nay trở thành một nạn đề nhưng ông ta không dám đề nghị ban sư khi công việc chưa hoàn tất.

Dẫu thế, Tôn Sĩ Nghị biết rằng một khi rút về, Nguyễn Huệ đem binh quay lại thì vua Lê sẽ không thể nào đương cự nổi và mọi sự đâu lại hoàn đấy. Nhà Thanh dù rộng rãi thế nào chăng nữa cũng không thể đem quân sang một lần nữa, công của ông ta hóa ra “xôi hỏng bỏng không”. Chính vì lo ngại tình hình sẽ xấu đi một khi quân Thanh rút về nên Tôn Sĩ Nghị đã nấn ná chờ Nguyễn Huệ xin thần phục. Do đó, Tôn Sĩ Nghị xin vua Càn Long được ở thêm một tháng để giúp vua Chiêu Thống ổn định tình hình, thu phục những nơi chưa hoàn toàn ổn định cốt kéo dài thời giờ để mong rằng Thanh triều sẽ có kế hoạch khác ổn thỏa hơn.

Sau khi đọc những báo cáo từ mặt trận gửi về, vua Càn Long và triều đình cũng thấy việc “đánh vào sào huyệt địch bắt đầu sỏ” đem về kinh như khi đánh Tân Cương không thể thực hiện được. Dù tự hào là kho đầy, nước thịnh nhưng nếu sa vào một cuộc chiến kéo dài ở phương nam, công việc tổ chức một đại lễ Bát Tuần Khánh Thọ huy hoàng có thể trở ngại nên vua Càn Long hạ chỉ ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị giả vờ như đem quân đi tuần tra biên giới rồi nhân đó rút về nước:

“Trước đây Tôn Sĩ Nghị tâu lên Quảng Nam đường sá xa xôi hiểm trở, đại binh hành quân vào sâu khó khăn nên trẫm đã giáng chỉ dụ lệnh cho Tôn Sĩ Nghị, giả vờ làm như tiến quân, tìm cách vời lại, nếu như Nguyễn Huệ sợ hãi, ra mặt cam kết, nhận tội xin hàng thì có thể coi như việc đã hoàn thành.

Lại dụ cho Tôn Vĩnh Thanh thám thính tin tức triệt binh của Tôn Sĩ Nghị để theo đó mà việc nhân phu, ngựa kéo cũng ngừng lại. Hôm nay xem lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh về việc quân doanh lương đài, số phu cần dùng đến hơn 10 vạn người, bản tỉnh khó mà lo được nên cần phải có tỉnh Quảng Ðông hiệp trợ, xem tình hình như thế, từ Lê thành đến Quảng Nam đường sá xa xôi việc biện lý thật là trở ngại, không cần phải mọi nơi ùn ùn trưng điều người khiến cho hao tốn, mệt nhọc.

Vậy truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị nhận được chỉ này nếu như đã từ Lê thành tiến quân rồi thì giả vờ tuần tra biên giới tìm cách triệt binh. Nếu như nhân phu lương hướng chưa đến đủ thì đừng tiến binh, tổng đốc hãy dụ lệnh cho quốc vương chấn tác tự cường, liệu sắp xếp cho ổn thỏa, phòng bị biên giới cho nghiêm mật rồi lập tức triệt binh về Việt [Quảng Tây], một mặt thông tri cho quan binh cánh quân tỉnh Ðiền cũng đồng thời rút về. Sốn nhân phu tỉnh Quảng Ðông giúp cho hãy truyền dụ cho Tôn Vĩnh Thanh, Ðồ Tát Bố không cần phải lo nữa.”
[KDANKL, quyển X, tr. 27]

Sự thay đổi liên tục ba kế hoạch khác nhau, lúc đầu thì muốn “đảo huyệt cầm cừ, nhất lao vĩnh dật”, sau đó lại tính chuyện chiêu hàng rồi cuối cùng là rút quân một cách bí mật cho thấy việc đem quân sang nước ta không phải là một kế hoạch được Quân Cơ Xứ Thanh triều trù liệu chu đáo mà chỉ là cảm hứng nhất thời của vua Cao Tông do gợi ý của Tôn Sĩ Nghị. Vì thế vua Càn Long chỉ xử phạt Tôn Sĩ Nghị rất nhẹ và tìm đủ mọi cách để đạt được một thắng lợi ngoại giao ngõ hầu có thể tự hào là “thắng mà không cần dụng binh”.

------------------
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngô Tương Đảo吳蔣燾, vị Hiến phó của trấn Kinh Bắc京北憲副, cáo bệnh từ chối không nhận chức. Ông dâng sớ tấu rằng:

"Trời đang sắp đặt cuộc biến loạn, nhưng nay lại có dấu hiệu phục hưng cho xã tắc. Thần trộm nghĩ binh quý thần tốc [quân sự cần nhanh gọn lẹ], có cơ hội thì phải nắm bắt. Việc gì phải giao phó hoàn toàn cho quân ngoại bang, để chậm trễ cả chục ngày. Hiện nay, các đạo quân Lặc Vương, ai mà chẳng muốn cống hiến sức lực nhỏ bé của mình? Quân địch vừa rút lui, ta liền dùng đại binh truy kích, nhanh như sấm sét không kịp bịt tai, kẻ địch hung hãn không kịp mưu tính. Khi Thanh Nghệ [chỉ hai xứ Thanh Hóa và Nghệ An] nghe tin, cũng sẽ hưởng ứng. Nguyễn Huệ bị ngăn cách ở phía Nam Hoành Sơn, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân là cánh quân đơn độc ở đây, thế lực bị cô lập, không thể liên lạc với nhau. Chưa đầy mười ngày là có thể hoàn thành việc bắt sống chúng. Cánh của chúng một khi đã bị chặt đứt, thì hang ổ của chúng cũng có thể lần lượt bị san bằng! Thần ngu muội cho rằng, cơ hội trung hưng đang ở ngay đây, không thể bỏ lỡ!".

Tờ sớ được dâng lên, Hoàng đế cho các quan trong Xu mật viện như Đình Giản xem. Ai nấy đều cho là phải. Chỉ riêng Lê Duy Cận phản đối và nói rằng:

- Lực lượng của chúng ta không địch lại. Về việc cầu viện, thì tổng đốc đang đóng quân, mọi việc không cần phải bẩm báo trước mà cứ tự tiện hành động. Nếu thành công thì thôi, vạn nhất có sai sót, e rằng sẽ đổ lỗi cho ta làm sai cơ hội quân sự, rồi họ sẽ rút quân về cửa ải, ngồi nhìn chúng ta làm gì thì làm, như vậy thì đại sự sẽ hỏng mất!". Ông nói tiếp: "Thần xin được bẩm báo trước, tự nhận chỉ đạo phương lược của họ, để họ cùng làm việc với ta, như vậy sẽ vẹn cả đôi đường".

Hoàng đế cho là phải, bèn đến chỗ Tôn Sĩ Nghị nói chuyện. Tôn Sĩ Nghị nói:

- Có việc gì mà vội vàng thế? Việc này dễ như thò tay vào túi lấy đồ vật vậy thôi! Đến sớm thì lấy sớm, đến muộn thì lấy muộn. Năm nay sắp hết rồi, đại quân từ xa đến, chính là lúc có thể nhàn hạ, không nên vội vàng giao chiến. Địch gầy ta béo, chúng tự đến nộp thịt thôi! Nước ông đã thỉnh cầu thì nên ước lượng từ kinh đô về phía Nam, khoảng sáu mươi dặm, chia ra ba nơi để đóng quân. Đây cũng là để đặt đồn trạm tiền tiêu xa, phòng những điều không ngờ tới. Đợi đến sang năm mới tiến binh đánh lấy cũng chưa muộn.

Thế là Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cho xây ba đồn lũy đất tại bờ Bắc sông Nguyệt Quyết月厥江 ở Thanh Liêm青廉, Nhật Tảo日早 ở Duy Tiên維先, và Ngọc Hồi玉洄 ở Thanh Trì青池, rồi phái binh canh giữ. Từ đó trở đi, Hoàng đế chỉ trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị, và không còn một vị quan nào dám nói đến việc xuất quân báo thù nữa.

Lê Quýnh hàng ngày sa đà vào rượu chè, sắc dục, ai ban ơn hay gây oán với ông, ông đều trả lại cả. Ông dâng lời tâu lên Hoàng đế rằng:

- Trước kia khi xa giá phải lưu lạc, nhiều hoàng thân và triều thần đã hả hê vui mừng trước tai họa, cam tâm đầu hàng địch, tình nguyện làm tay sai cho chúng để mưu cầu giàu sang phú quý. Việc đi ngược đạo lý, phản bội nghĩa lớn, không gì bằng việc này. Thần xin hãy minh chính tội trạng của họ, để thiên hạ đều rõ, cùng biết rằng danh phận cương thường không thể bị rối loạn. Đây cũng là việc cấp bách cần làm ngay, không thể khoan dung bỏ qua, để thiện ác không phân biệt.

Hoàng đế cho là phải, bèn hạ chiếu xuống triều đình bàn bạc. Tất cả đều tấu rằng:

“Trần Công Xán, Thượng thư Hình bộ kiêm Bình chương sự năm trước, vì đi sứ không chịu khuất phục mà bị giặc hại, thật đáng thương tiếc. Xin cử quan đến tế lễ tại nhà ông và thăm hỏi các con trai ông. Bài tế văn có đoạn viết rằng: "Tiết lớn lật đổ lời lẽ sai trái, phá tan núi non hiểm trở, cùng sương thu nắng gắt tranh vẻ nghiêm nghị. Lòng trung quân yêu nước nhỏ bé, gặp lúc gập ghềnh lại càng hiển rõ".

Đây là những chữ do đích thân Hoàng đế ngự bút.

Lại bàn về tội phản quốc theo giặc:

• Khi Hoàng đế phải lánh nạn, Phạm Như Toại范如璲, trấn thủ Tuyên Quang宣光鎮守, đã bắt và nộp Hoàng đệ Duy Tụ維袖 cho giặc.

• Phò mã úy駙馬尉 Nguyễn Bành阮彭 đã dẫn quân giặc truy tìm nơi ở của Hoàng đế. Theo luật, cả hai đều phải chém đầu.

• Ngô Thì Nhậm吳任, Phan Huy Ích潘輝益 đã đầu thân theo giặc, nhận chức tước. Cả hai đều bị bãi chức làm dân thường, phải về quê chịu sự sai phái.

• Nguyễn Hoàn阮俒, Phan Duy Phiên潘惟藩 đã quỳ gối trước triều đình giặc. Trương Đăng Quỹ張登揆 dù theo xa giá nhưng không thành. Cả ba đều bị biếm làm Tư huấn司訓.

• Nguyễn Quý Nha阮貴衙, Trần Bá Lãm陳伯覽, Vũ Huy Tấn武輝瑨 và những người khác đã viết thư nhân danh Sùng Nhượng công giám quốc, cầu xin giặc hoãn binh. Tất cả đều bị tống giam vào ngục.

• Riêng Nguyễn Bá Khoan阮伯寬, vì là võ quan già nua, ít hiểu biết, nên được miễn tội.

Lê Quýnh nghe nói Nguyễn Quý Nha từ Cao Bằng trở về, mang theo đầy vàng bạc. Ông sai người đến đòi hai mươi lạng vàng, và nói rõ với Hoàng đế. Hoàng đế cười nói:

- Lấy của nhiều bù cho của ít, ngươi cứ làm theo ý mình, không sao cả.

Lại có ba vị Hoàng thúc đã thông đồng với giặc, lại gả con gái cho giặc. Hoàng đế bí mật sai người chặt chân của họ và ném xuống giếng trong cung. Đúng lúc đó, Hoàng thái hậu từ Cao Bằng trở về kinh. Thấy Hoàng đế thích gây thù chuốc oán, làm những việc quá đáng, rất tức giận nói:

- Ta vất vả lặn lội, xin được binh mã về. Quốc gia có thể chịu đựng được mấy lần gây thù chuốc oán mà tự phá hoại như thế này? Cứ theo cách này mà làm thì làm sao có thể trị thiên hạ? Bà lão này lại sắp trở thành người vong quốc rồi!

Rồi khóc lóc không chịu vào cung. Hoàng đế bí mật sai Nguyễn Huy Túc đến khuyên giải. Túc vào tâu với Hoàng thái hậu rằng:

- Kính mong Thánh từ có đức hiếu sinh, cùng trời đất vậy, cố nhiên là việc này đáng khiến người ta ngạc nhiên. Nhưng hình phạt là điển lễ lớn của quốc gia. Xưa Chu [Công] đã xử tử Quản, Thái, Lỗ [Trang Công] đã giết Thúc Nha, người xưa cũng không vì tình thân mà bỏ qua phép nước. Mong Thái hậu rộng lòng khoan thứ. Để Hoàng thượng có thể lo liệu việc nước, đó thực là vạn phúc.

[Chu Công xử tử Quản, Thái, là hai người em trai của Chu Công (Chu Văn Vương). Khi Vũ Vương mất, Chu Công phụ chính Thành Vương Quản, Thái phản loạn, Chu Công phải đích thân dẫn quân truy kích và xử tử họ. Thể hiện nguyên tắc "pháp bất vị thân" - pháp không vì thân mà uốn nắn.

Thúc Nha là đệ đệ của Lỗ Trang Công. Thúc Nha có âm mưu tranh ngôi, nên Lỗ Trang Công buộc phải bức tử (cho uống thuốc độc
)]

Thái hậu vì Túc có công lớn khi theo phò tá lúc hoạn nạn, khó mà trái lời ông, tuy miễn cưỡng nghe theo nhưng lòng bà thực sự không cho là phải. Thế rồi bà vào cung.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top