[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
[phần bổ sung thông tin của người dịch, căn cứ theo tài liệu viết tay: Nhật Ký ở Bắc Hà từ 1787-1789 của Giáo sĩ Jean Davoust, Đức Giám mục, đại diện cho Tông Tòa Tây Đàng Ngoài (từ 18 tháng 7 năm 1780 đến 17 tháng 8 năm 1789). Nhan đề đầy đủ là: Ghi chép về những sự-kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra trong địa phận Giáo hội Bắc Hà về chính trị, dân sự và tôn giáo từ tháng 8-1787, cho tới trung tuần tháng 10-1788.

Ngoài ra, người dịch sẽ bổ sung một số thư từ khác được đăng trong trong Lettres Édifinates et Curieuses của Tòa Thánh Vatican, bộ Nouvelles lettres Édifinates của Hội Truyền giáo Paris, và A. Launay, Documen Tây Sơn historiques sur la mission de Cochinchine, M. E. P, 1925, hoặc trong các Tập san như: Bulletin des Amis du Vieux Hué, Bulletin de la Société des Études Indochi-noises, Bulletin de l’École francaise d’Éxtrême – Orient, Revue de l’Extrême –
Orient, T’oung Pao Revue Indochinoise…
1760408707550.png

Ảnh chụp trang đầu của tài liệu viết tay của giáo sĩ Jean Davoust


 

cairong_2011

Xe lăn
Biển số
OF-193288
Ngày cấp bằng
9/5/13
Số km
11,041
Động cơ
509,141 Mã lực
Cám ơn cụ Đốc. Khi dịch xong làm ơn cụ đóng quyển để anh em đọc liền mạch.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Roy gửi ông Blandin, viết ngày 6 tháng 12 năm 1786

Kẻ Vĩnh, Bắc Hà ngày 6 tháng 12 năm 1786

[Giáo sĩ Le Roy Jean-François, quê ở Vesoul, thuộc giáo phận Besançon, lên đường đi truyền giáo ngày 8 tháng 10 năm 1780. 24 ở Đàng Ngoài hầu như ông chỉ dành cho việc hướng dẫn và đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1805]

[Kẻ Vĩnh, nay thuộc Ninh Bình]

Ngày 11 tháng 7 [1786]. Vì bức thư này không được viết vào cùng một ngày, nên ngày nay mọi thứ đã thay đổi rất nhiều. “Giặc [để nguyên văn, chú thích của giáo sĩ là: “những kẻ nổi loạn”. Vào thời điểm đó, điều này có nghĩa là Tây Sơn. Xa hơn nữa, chúng ta sẽ thấy “giặc” Quảng, “những kẻ nổi loạn ở đất Quảng”], nghe nói là Côù Chính [Nguyễn Hữu Chỉnh, gọi là Cống Chỉnh] và [Nguyễn] Nhạc, v.v., được cho là đã chiếm lại Nam Hà và đánh đuổi người Bắc Hà. Hôm nay chúng tôi vừa được biết rằng những người giặc này đã đến “dưới cầu” [để nguyên văn, chú thích của người viết nghĩa là nơi giáo sĩ Le Roy đang ở, nằm ở hạ lưu Kẻ Vĩnh, nghĩa là con kênh hay cống dẫn nước] với 400 chi'èc [ chiếc, để nguyên văn, tác giả chú thích thêm là chiếc thuyền chiến có buồm], và họ muốn đến Ké-cho [ Kẻ Chợ, tức là Thăng Long]

Ở phần trên chúng ta cũng chỉ nói về những khó khăn. Chúng ta sẽ ra sao đây, ngài thân mến...?

Ngày 18 tháng 7, đêm 18 rạng ngày 19 tháng 7, quân “giặc” đánh chiếm Vị-hoàng [thủ phủ vùng Sơn Nam Hạ, tức là thuộc Nam Định] và đang ở Hiến-nam [thủ phủ của Sơn Nam Thượng, nay thuộc Hưng Yên] có trận đánh với quân Bắc Hà, kéo dài gần một đêm. Cuộc chiến đấu rất ác liệt giữa phe hoàng gia [nhà Lê-Trịnh] và phe Cống Chỉnh: chúng tôi đã nghe thấy ở Kẻ Vĩnh tất cả tiếng đại bác của họ. Quân Bắc Hà có chống cự, sau bại trận và bỏ chạy, nhưng không mất nhiều binh lính.

Ngày 20 [tháng 7 năm 1786], “giặc” Quảng tiến vào Kẻ-chợ [Thăng Long]. Các cánh cổng thành đã mở; Quan lại, binh lính và dân chúng đều sợ hãi đến nỗi bỏ chạy tán loạn. Chúa Trịnh [Khải] bỏ chạy, rồi vừa chạy vừa nghẹn ngào khóc. Vua Canh-hu'ng [Cảnh Hưng] cũng băng hà khoảng một tháng sau. Người Nam Hà cướp phá mọi thứ, vàng bạc, đại bác, súng trường, đồ đạc, voi, ngựa; chúng không để lại gì “phủ” [chúa Trịnh] rỗng hết ngoài xác các cung phi. Họ lấy “chùa” làm nơi nghỉ cho quan lại; họ chôn các thần tượng mà dường như họ không mấy gắn bó; họ không cúng tế ở đâu cả, đến cha Khiêm, cha xứ [phụ trách] kinh thành cũng bất lực. Còn bọn “các lái” [lái buôn] thì bỏ mặc những người nghèo chết đói, nằm dọc đường và trong các quảng trường ở chợ, chúng không làm gì để cứu vớt hay cho người dân nghèo một chút từ thiện nào, tuy nhiên, cũng phải xét cho công bằng là vì sao họ lại có sự vô nhân đạo đó, “các lái” [buôn] cũng đã mất tất cả: thuyền, thóc, tiền, sạch cả, họ vẫn rất mừng vì không mất mạng. Chúng tôi đã thấy họ [ gần như] trần truồng đi qua đây để trở về Xứ Thanh [Thanh Hóa]. [Nhưng khi họ] Về đến nhà, thật khốn nạn: bọn cướp đã đầy mặt đất như bầy châu chấu đói, trang bị vũ khí từ đầu đến chân như bọn cướp Ngày tận thế, chúng tụ tập hàng trăm tên, tay lăm lăm súng hỏa mai cướp bóc tất cả những thương nhân này, đốt nhà của họ. Gần Cửa Bạng [Thanh Hóa] có một hòn đảo có những người lái buôn này sinh sống, với số lượng gần 3.000 người, trong số đó có gần 6 đến 700 Cơ đốc nhân. Ông Lamothe [Giáo sĩ La Mothe Charles, quê giáo phận Sens, rời đi ngày 21 tháng 10 năm 1781, truyền giáo ở Đàng Ngoài, được bầu làm phó giám mục tông tòa Tây Đàng Ngoài và được tấn phong giám mục năm 1796. Qua đời ngày 22 tháng 5 năm 1816], người có mặt tại hiện trường, đã viết cho chúng tôi rằng có lẽ [số còn sống sót] không quá 30 người: mọi thứ đã bị cướp bóc, người thì bị giết hại, cả bởi bọn giang hồ lẫn bọn trộm cắp....

Trong vương quốc mọi thứ rối ren, đâu đâu cũng chỉ có giết người, phóng hỏa, trộm cướp, nên bọn “giặc Quảng” sai quân chạy rày đây mai đó để truy quét bọn đạo tặc. Những người Nam hà này đã thực hiện công lý rất khắc nghiệt. Trong lần xét xử hay buộc tội đầu tiên, không cần bất kỳ thủ tục dài dòng nào, họ đã chặt đầu những tên trộm hoặc những người bị buộc tội như vậy. Mọi người [lúc đầu] đều ca ngợi sự công bằng và vô tư của họ; vì họ không cướp bóc ai, và bằng lòng với việc chặt đầu. Điều này đã mang lại yên bình ở một số nơi, trong một thời gian: nhưng sau này, mới rõ là vì người Đàng Trong chỉ ra Đàng Ngoài để cướp bóc chứ không phải để trị vì ở đó, sau khi đã thu được nhiều chiến lợi phẩm nhất có thể và cướp bóc được ở phủ Yên Trường [nay thuộc các vùng Yên Định, Thiệu Hóa] cơ man là báu vật của “chúa” [Trịnh] ở Xứ Thanh, họ lên đường đem tất cả trở về nhà. “Vua Nhạc” đã đến Đàng Ngoài, đến tận Kẻ Chợ với khoảng 30 con voi và một số binh lính hùng hậu, sau hai hoặc ba ngày ở lại kinh đô, đã ra lệnh cho tất cả quân Nam Hà dọn sạch Đàng Ngoài. Nói sớm hơn làm: chúng rời đi, nhưng còn ồn ào hơn cả khi họ tiến vào. Binh lính của chúng, một phần gồm các sắc dân Mường, Man-di, và các dân tộc rợ khác từ Cao-miên, Chăm [Pa] Xiêm, v.v.), chúng cướp bóc hai bên bờ sông, bắt đàn bà con nít, và bỏ lại rất nhiều rác rưởi bốc mùi kinh tởm.

Về phần vua [Nguyễn] Nhạc, trước khi ra đi, đã làm phép “phụng truyền” [theo sắc lệnh nhà vua?] cho phá gần hết chùa, mỗi “tổng” [để nguyên văn, chỉ để lại một ngôi. Người ta nói rằng ông ấy muốn được tôn thờ một mình: đó là lý do tại sao những người lính của ông ấy gọi ông ấy là “vua trời”, vua của thiên đàng. Họ nói rằng ông vẫn còn ở Bố-chính.... [gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay].

Côung-Chinh [Cống Chỉnh] ở quê nhà Xứ Nghệ cố thủ, chiêu binh lập đảng — Nhà Trịnh mới có một “chúa” mới, gọi là Ou Quận Quế [Ông Quận Quế]; ông ấy là chú của vị “chúa” vừa mất [tức Trịnh Sâm]. Các quan dường như thống nhất ủng hộ ông ta. Thống đốc đã được bổ nhiệm; tuy nhiên, họ vẫn không dám quay trở lại phủ của mình. Những “quân ba phủ” [tức là lính Tam Phủ, hay còn gọi là Kiêu Binh, là đám lính quê gốc Thanh Hóa đã làm cuộc binh biến lật đổ Trịnh Cán và đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa] bị sỉ nhục và chúng đáng phải chịu [như thế, ý nói quân kiêu binh bị Tây Sơn đánh cho tan tác] những “quân kiệu” [tức là quân triều đình nhà Lê] kiên quyết chống lại chúa tể vĩ đại [Nguyễn Nhạc] nhưng bị đánh bại và buộc phải chạy trốn, không có gì ngoài chiếc thắt lưng, và hầu như không thể kiếm được một nắm cơm để khỏi chết đói. Người ta nói rằng các quan không còn muốn sử dụng [quân Tam Phủ] nữa và người dân đã mệt mỏi với những điều phiền toái mà đám lính này gây ra. Tuy nhiên, sẽ khó thực hiện nếu không có…. [ quân lính].


[Lưu trữ M-E, 691, 767-771, phần khác của thư được lưu tại văn khố Hội thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Sérard gửi ông Blandin, ngày 31 tháng 7 năm 1786

Vụ mùa tháng 5 tuy người dân thu hoạch được ít nhưng đã làm giảm bớt nạn đói và những tệ nạn [xã hội] mà nó gây ra.

Nhưng chúng tôi vừa mới bắt đầu thở phào thì bỗng thấy một hạm đội ghê gớm của quân khởi nghĩa Nam Hà xuất hiện, do tên đào binh Bắc Hà tên là Cống-Chiếnh [tức Nguyễn Hữu Chỉnh, tác giả viết theo âm tiếng Nghệ An lúc ấy] xuất hiện. Các ngài nên biết rằng vị quan này, tức giận vì cuộc thảm sát mà quân Đàng Ngoài đã thực hiện bốn năm rưỡi trước, đối với viên quan lớn [tức là Hoàng Đình Bảo còn gọi là Quận Huy hay Huy Quận Công, bị kiêu binh giết], chủ nhân của ông ta, đã lui về phía dưới Nam Hà quyết tâm một ngày quay lại báo thù không thiếu một kẻ nào.

Vào cuối tháng 6, ông ta xuất hiện ở bờ biển Thượng Nam Hà, tự xưng làm chủ thủ phủ của vùng này và của cả tỉnh mà người Bắc Hà đã chiếm 12 năm trước. Ông ta nắm quyền kiểm soát toàn bộ khu vực đồn trú, binh lính, quan lại, tổng đốc, không ai được tha. Phó vương Co-Tao [tức là Phạm Ngô Cầu, trước là tổng đốc Sơn Nam, năm 1776 được Trịnh Sâm cử vào Thuận Hóa để quản lý vùng đất mà quân Trịnh chiếm lại được từ tay chúa Nguyễn], người nổi tiếng bức hại tôn giáo, cũng mất mạng ở đó.

Cuộc viễn chinh này [nhanh chóng] kết thúc, hạm đội [Tây Sơn] nhân thuận gió, dong buồm tiến về xứ Xứ Nghệ, dồn quan tổng đốc, quân của ông ta và tất cả các đồn nhỏ trấn giữ các cửa biển phải bỏ chạy tán loạn, [quân Lê-Trịnh] vừa trông thấy [quân Tây Sơn] đã khiếp sợ đến vỡ mật. Hạm đội Tây Sơn căng buồm đến bờ biển Xứ Nam [hay trấn Sơn Nam xưa, vùng đất của 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình] tiến vào sông lớn dẫn đến kinh thành. Người dân đồn thổi đến mức tin đồn lan truyền về nó giống như một giấc mơ hơn là sự thật.

Ngày [hạm đội quân Tây Sơn] vào cảng, họ đến Vị Hoàng từ sáng sớm: đó là ngày 1-7-1786. Quân Lê-Trịnh đóng đồn ở đây sợ quá tự bỏ chạy như bay, bỏ lại hết cả các kho thóc và vàng bạc cho kẻ thù. Sau khi phát gạo cho dân chúng gạo và đã chất đầy [gạo, của cải] lên thuyền, thuyền của Tây Sơn và các thuyền của [hải tặc] Trung Quốc cũng có mặt ở đó, vào ngày 17 cùng tháng, viên tướng quân, em trai của quân phản loạn Nhạc [tức là Nguyễn Huệ] đã tiến vào kinh thành cùng với phần còn lại của hạm đội với vẻ huy hoàng và một [lời hịch] của vua [tức là nêu khẩu hiệu “Phù Lê diệt Trịnh”].

Vào ngày 18, đội quân tiền phương lên đường theo hướng Hiến [Nam, tức là Hưng Yên bây giờ] về phía dinh tổng đốc. Vua [Lê] đã phái quân đội bằng đường bộ và đường thủy đến đối đầu với anh ta [Nguyễn Huệ].

Hai đội quân đụng độ từ khoảng sáu giờ tối cho đến sau nửa đêm. Những người lính dũng cảm của nhà Lê đã cố gắng mở cuộc tấn công vào cuối ngày, để có thể, trong trường hợp bất lợi, rút lui trong bóng tối. Quân Nam Hà dồn ép đến nỗi khiến quân nhà Lê phải tháo chạy và chiếm được doanh trại của tổng đốc.

Vài ngày sau, anh ta đến gần Kinh thành. Quân Đàng Ngoài tấn công lần thứ hai, nhưng không thành công như lần đầu. Trận chiến thậm chí còn đẫm máu hơn, tổn thất nặng nề hơn và chiến thắng trọn vẹn hơn cho kẻ thù [tức quân Tây Sơn].

Ngày 21, quân Tây Sơn đã tiến vào kinh đô, quân lính được tranh bị súng và kiếm, khắp nơi mọi thứ đều hỗn loạn. Với Nguyễn Huệ, mọi việc thật dễ dàng, thành lũy chẳng có gì ngoài hàng rào tre, binh lính và các nhà giàu có, nhà buôn đã chạy trốn và để ngỏ cửa. Phủ Chúa Trịnh [Trịnh Khải] chạy trốn vào núi, nơi đây ông đã tự sát. Người dân [Bắc Hà từ lâu đã] chán ngán với sự thống trị độc tài của gia đình ông, và càng mệt mỏi hơn với những phiền toái mà những người lính đã gây ra cho ông kể từ khi bắt đầu trị vì. Vì vậy, bây giờ họ đang trả thù bằng cách chờ đợi những người lính này trên đường và thậm chí lột quần áo của họ, cả vợ và con. Đây là cách Chúa Trời trừng phạt thói ngạo mạn của đám quân Ba phu [lính Tam Phủ] [những người lính từ hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An đã đi quá xa trong việc làm bốn năm qua]: họ là những người đầu tiên, tạo nên đội cận vệ của Nhà vua và gần như là những người duy nhất tiếp cận người của ông ta; [nhưng] hôm nay họ sẽ là người cuối cùng [bị trừng trị].

Đó là khởi đầu và kết thúc cuộc chiến giữa quân nổi loạn Nam Hà và Đàng Ngoài, thưa ngài và các cha thân mến. Cuộc chiến thực ra không dài và không gây trở ngại cho người dân; chỉ có một số lái buôn bị mất thuyền, địch bắt để làm nhẹ những chiếc thuyền quá tải người và đạn dược [ý nói quân Tây Sơn tịch thu thuyền để chở quân và vũ khí]. Quân Tây Sơn có xét xử [các vụ cướp bóc để] ngăn tội, tránh mọi việc rối ren. Các cơ và đạo của các đạo quân [cỡ 1.500 quân] được trang bị súng và vũ khí sắc bén chạy ngày đêm, cướp bóc, tàn sát và đốt phá tất cả làng mạc. ...

Hầu như không có một ngôi làng nào không có quân cướp. Đầu tiên, chúng cướp bóc của cải của chính nơi đó và sau đó đi tấn công những người hàng xóm của mình.... [đoạn này có lẽ mô tả bọn cướp tự phát ở các làng xã chứ không phải quân Tây Sơn]

Ngày 7 tháng 8. Mọi thứ vừa mới thay đổi. Những tên cướp đã đến lượt của chúng, mọi người đã đến lượt tính sổ với chúng. [Các giáo sĩ và người dân tự nổi dậy chống lại cướp]

Chúng tôi săn lùng bọn cướp theo cách tốt nhất. Hôm qua chúng tôi đã chặt đầu 11 tên ở đây; 4 ngày trước khi chúng tôi hạ gục hoặc loại bỏ một đám cướp khác. Các quan mới của Tây Sơn đến bằng đường tắt và không có bất kỳ hình thức xét xử nào; ngay khi một số nhân chứng làm chứng chống lại ai đó, tiền bạc, lời cầu nguyện, không gì [để họ] có thể nhúng tay vào [ý nói các viên quan mới đến không làm được gì].

[tái bút: Sau một lá thư gửi cùng ngày, cho biết vào ngày 20 tháng 8 năm 1787, quân Tây Sơn trước khi rút lui, đã cướp bóc cả nước. Sau khi quay trở lại vài tháng sau, họ và những người ủng hộ họ lại cướp bóc đất nước này thêm nữa, và về cơ bản, chúng lấy đi khỏi tất cả các ngôi đền các tượng thần, chuông, tượng Phật và mọi thứ làm bằng đồng hoặc kim loại, vì thế An Nam còn lại rất ít các hiện vật kim loại có giá trị Lịch sử]


[ Lưu trữ M-E, 691, p.777-785, cùng lưu trữ khác tại văn khố hội Thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông La Bartette gửi ông Blandin, ngày 23 tháng 6 năm 1786. . .

Tôi không thể diễn tả cho ông biết tôi đã cảm động như thế nào khi nhớ lại những kỷ niệm cũ [ở An Nam], qua việc tôi nhận được bức thư thân mến của ông đề ngày 1 tháng 6 năm 1785 từ St Helena [Saint Helena đặt theo tên của Helena thành Constantinopolis, là đảo núi lửa nằm ở phía Nam Đại Tây Dương, lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Vùng đất này bao gồm đảo Saint Helena và thuộc địa Đảo Ascension và Tristan da Cunha trải dài trên diện tích 425 km².Saint Helena nổi tiếng bởi nơi đây từng là chốn lưu đày của hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte từ 1815 cho đến những năm tháng cuối đời (1821)]

Đức ông [Đây là ông Davoust Jean, quê giáo phận Le Mans, đến Đàng Ngoài năm 1753, tấn phong giám mục Céram và bổ nhiệm phó xứ Tây Đàng Ngoài năm 1771 [nơi khác 1772], phó sứ năm 1780, mất 17/8/1789, 63 tuổi] vừa mới viết thư cho tôi gần đây; Tôi cũng vừa trả lời ngài vài ngày trước. Nhưng chẳng may! Việc giao giảng [Đạo Thiên chúa] thân thương và cần cù của chúng tôi kéo dài 12 năm vừa mới bị gián đoạn và có lẽ còn rất lâu: vì bây giờ Nhạc vừa qua bên này với một đội quân hùng hậu, cả đi bộ lẫn đường thủy.

Người Bắc Hà, những người [trước đây] luôn chế giễu [quân Tây Sơn], chưa bao giờ thấy một ngày như vậy. Trong số tất cả những người ở đồn Phú Xuân, quan lớn hay binh lính, không ai trốn thoát được. Họ tàn phá ở mức mà tôi không thể kể hết với ông. Từ Phú Xuân đến Sông Gianh, trong 5 ngày, mọi thứ đã được vận chuyển đi. Người ta thậm chí còn tin rằng trong số tất cả những người Bắc Hà khác đang ở trong các pháo đài gần Bắc Hà hơn, sẽ chỉ có một số rất nhỏ có thể chạy trốn. Ngoài ra, đừng nghĩ rằng tôi đang nói với ông về những điều rất xa vời. Cuộc quyên góp ở Phú Xuân mới được thực hiện cách đây 5 ngày, còn của Dinh Cát [pháo đài Dinh Cát nằm cách thành Quảng trị 2 hoặc 3 cây số về phía bắc và xuôi dòng sông], nơi tôi ở, chỉ mới hôm qua. Người ta tin rằng [quân Tây Sơn sẽ vượt qua] Lũy Sầy [tức là Lũy Thầy] ngày hôm kia, và để làm vui lòng ông, tôi cho biết rằng Quan Đại [còn gọi là Quận Tạo, tức là Phạm Ngô Cầu] đã bị bắt chính xác vì ông ta đang bận làm tất cả những trò ma quỷ có thể ở đám chay??? [2 từ Quan Đại và đám chay để nguyên văn], v.v., trong ngôi chùa nổi tiếng nhất của tất ở Phú Xuân, để phục hồi sức khỏe vốn đã rất suy nhược của mình.

Nếu ông [còn] ở Bắc Hà thuyết giảng cho người các giáo dân, vì tôi biết rõ lòng sốt sắng của ông. Ông biết rõ những công việc mà Quan Đại đã cống hiến cho Tôn giáo Thánh của chúng ta khi ông ấy còn ở Bắc Kỳ, cũng như Chúa, luôn luôn công bằng và bình đẳng, đã ban cho ông ấy những gì ông ấy xứng đáng; Cầu mong ông ấy mãi mãi được ban phước! [Trong một lá thư của ông Le Breton, giáo sĩ ở Đàng Ngoài, gửi cho ông Blandin đề ngày 10-7-1787, có viết: “Vị quan Co-tao, phó vương Phú Xuân, nguyên tổng đốc Xứ Nam, bất cứ ở đâu nơi ông ta nhậm chức, ông có quan điểm đàn áp mạnh mẽ đàn áp tôn giáo]. Kể từ khi tôi đã ở đây, tôi nhận ra rằng những người Bắc Kỳ ở đây đang đàn áp người dân [Nam Hà] một cách rất bất xứng. Họ đã quá tự tin vào mình. Vị quan này để làm vui lòng Hoàng tử và hơn thế nữa để có tiền, chỉ riêng điều này đã gây hại cho tôn giáo nhiều hơn tất cả các quan lại cộng lại. Tôi nói rằng Co tao [Quận Tạo] đã thể hiện sự sùng kính rất lớn đối với đạo Phật và sự tôn trọng đối với các nhà sư. Ông đã tập hợp một số đông trong ngôi đền gọi là Thiên Mụ để tổ chức ăn chay, cầu nguyện và tế lễ trong 8 ngày. Chưa hết việc tế lễ, bỗng được tin giặc đã đến cửa thành; ông ta bị thương và được đưa đến hạ Nam Hà rồi chết. Một trong những người con trai của ông bị bắt khi chạy trốn đã bị nghiền nát dưới chân đàn voi]. Đó là lý do tại sao tôi không nghi ngờ gì rằng đây là sự trừng phạt của Chúa.

Chiến tranh đến đây bất ngờ, cha Chiêu không về được; ông ấy phải ở lại đây. Chúng tôi rất lo lắng cho số phận của ông; vì nếu ông bị phát hiện, chúng tôi sẽ không thể ra tay cứu, bởi không chỉ những kẻ nổi loạn, mà ngay cả những người ngoại đạo của vùng này ở đây đều có một lòng căm thù không nguôi đối với tất cả người Bắc Hà, không loại trừ ai. Nên trong bụng ông rất sợ, không phải vô cớ, từ trước đến nay những gì chúng tôi gặp được người Bắc Hà đều qua gươm giáo. Ngoài ra, tôi nghĩ rằng các quý ông Bắc Hà thân mến của chúng ta sẽ không tức giận với cuộc cách mạng này [khởi nghĩa Tây Sơn]: nó chỉ có thể rất có lợi cho tôn giáo; Vả lại, ở Xứ Nam gần một năm nay xảy ra nạn đói rất khốc liệt. Tôi không nghi ngờ gì rằng Đức Chúa Trời cho phép tất cả những điều này vì vinh quang lớn hơn của Ngài.

Đã có một cuộc đàn áp khủng khiếp trong năm nay ở vùng [do quân] Tây Sơn [quản lý]. Sắc lệnh là buộc giáo dân phải giẫm lên cây thập tự. Những người đã đến nói với chúng tôi rằng việc [đàn áp] đã chấm dứt; nhưng, vì chúng tôi vẫn chưa nhận được thư từ các giáo sĩ đang ở đó, nên tôi không thể nói với ông bất cứ điều gì chắc chắn. Tuy nhiên, có vẻ như trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ biết được điều gì đó. Chiến tranh, một mặt lấy đi của chúng ta niềm an ủi là được liên lạc với Bắc Hà, mặt khác lại mở ra cho chúng ta cơ hội được tiếp cận với xứ Quảng nơi chúng tôi đã đánh mất quá lâu.

Ngày 2 tháng 8. Kể từ khi những kẻ nổi loạn đến đây, chúng tôi đã gặp rất nhiều đau khổ. Họ làm phiền [mọi người] đến nỗi không ai tin rằng họ có thể sống được. Lũy Sầy nổi tiếng mới được khôi phục như dưới thời Chúa Nguyễn, thế là mất liên lạc [với Bắc Hà]; chúng tôi rất tiếc. Quân nổi dậy vừa đi qua Bắc Hà, họ đã lấy đồn Dinh Cầu [pháo đài này nằm ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh] ngày hôm qua, hôm nay nghe nói họ ở Xứ Nam; ông có thể sẽ có thể biết qua những bức thư từ Bắc Hà về kết qủa chiến dịch của [Tây Sơn]. Thật lạ, có thể nào mà Bắc Hà ngày nay, quốc gia này vốn rất đông quân [đặc biệt là so với Nam Hà] và rất hiếu chiến, lại phải nằm dưới chân của một nhóm quân với một số ít người từ [Đàng Trong] mà chủ yếu tập hợp từ những đám quân ô hợp. Nếu vậy, người Bắc Hà rất có thể nói có lý:

- Facti sumus opprobrium vicinis nostris, subsannatio et illusio his qui in circuitu nostro sunt. [Chúng ta đã trở thành nỗi sỉ nhục cho người thân cận, thành kẻ vu khống và ảo tưởng cho những người xung quanh] [ Ý câu tiếng Latin này nói về nỗi xấu hổ của người Bắc Hà khi bị quân Tây Sơn đánh bại, trước đây Bắc Hà vốn là cường quốc ở khu vực, so với Ai Lao, Xiêm, Java, Mã Lai…]

Nếu là quân Chúa Nguyễn thì tôi không nói gì, vì tôi biết rằng, ở Đàng Ngoài, còn rất nhiều người còn nhớ đến [các chúa Nguyễn]. Trong mọi trường hợp, tôi thực lòng muốn rằng những kẻ nổi loạn đã nắm [hầu hết chính quyền] trong tay họ; tôi thấy rằng không có gì tốt để mong đợi từ họ: họ đã phá hủy tất cả những nhà thờ đẹp nhất của chúng tôi ở đây. Họ phá hủy tất cả các ngôi chùa và buộc tất cả các nhà sư phải mang vũ khí và tham chiến, đây là điều tốt duy nhất họ sẽ làm ở Nam Hà. Tôi không tin là họ đẩy lòng kiêu hãnh của mình đi xa đến mức muốn chiếm cả Bắc Hà và cai trị ở đó. Tôi tin rằng họ vào đó chỉ để phô trương bản lĩnh và cố lấy một số vàng bạc mà người Đàng Ngoài đã lấy [được ở Phú Xuân] khi Chúa Nguyễn chạy trốn, vì vậy tôi nghĩ rằng vài ngày nữa họ sẽ trở lại vùng này và chắc chắn rằng sau đó họ sẽ tìm kiếm chúng tôi và tấn công chúng tôi. Xin hãy cầu nguyện cho chúng tôi.

Vả lại, Quan Đại từ lúc chưa chết, ta đã biết rõ, trong các quan ở Phú Xuân, chỉ có một mình ông là không bị giết, và bị giao nộp cho vua Nhạc. Người ta nói hôm nay ông ta ở Quy Nhơn, bị giảm gạo và muối [cho bữa ăn]: ông sẽ có nhiều thời gian để nhịn ăn.


[Lưu trữ M-E, 746, p.175-178, cùng lưu trữ khác tại văn khố hội Thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông La Bartette gửi ông Desourvières, một phần đề ngày 10 tháng 7, một phần đề ngày 1 tháng 8 năm 1786

[Descourvières Jean-Jacques, quê ở giáo phận Besançon, là nhà truyền giáo đầu tiên ở Loango, Châu Phi, ông đến Macao vào năm 1776. Bị tố cáo với các quan của ở Quảng Đông, ông buộc phải rời đi, và được phái đến Xiêm La. Ông qua đời tại Rome vào ngày 6 tháng 8 năm 1804]

Con tàu nhỏ từ Macao cũng đã cập bến an toàn. Chúng tôi trút hết đồ đạc, ngoại trừ 400 đồng mà thuyền trưởng vừa trao hàng cho Cô Năm [để nguyên văn], người sẵn sàng báo tin cho chúng tôi, thì một đạo quân phản loạn ghê gớm kéo đến bên này. [Ở đây thà thương tiếc cho số phận của con tàu tội nghiệp này còn hơn là kể lại nó]. Bọn phản loạn chiếm lấy con tàu cùng với tất cả những gì có trong đó; chúng đã phá hủy toàn bộ con tàu để làm cầu. Chúng bắt thuyền trưởng, một người lương thiện, cùng với ba sĩ quan của tàu; chúng đã giết họ ngay lập tức, tất cả các thủy thủ đều được phân bổ trên các tàu chiến của Bạo Chúa [không rõ tác giả nói đến ai? Có lẽ là Nguyễn Huệ???] để ra trận. Ngay khi chúng đến dinh Cô Năm [mà ở đây có nhiều] người Bắc Hà, chúng đã tàn sát họ mà tôi không dám nói rõ với ông.... Tất cả tài sản của Cô Năm đã bị cướp sạch; tất cả những ngôi nhà của cô đã bị phá hủy; người đàn bà tội nghiệp buộc phải chạy trốn, tôi không biết ở đâu, với hai bàn tay trắng.

Trong năm hay sáu ngày, quân Tây Sơn tự làm chủ phần [đất] này, đánh bại người Bắc Hà. Nhưng sự kiêu ngạo và tham lam của họ vẫn chưa thỏa mãn; họ vừa mang vũ khí đến tận Bắc Hà [thay vì khẩu hiệu mà họ vẫn rêu rao]. Tôi rất muốn bằng cả trái tim rằng Tây Sơn sẽ đem đến sự thay đổi, thực tế là không có gì tốt đẹp để mong đợi từ quân Tây Sơn, cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ không có một chút tình cảm nào của con người; họ xấu hơn [cả loài] hổ. Trong mọi trường hợp, chúng tôi vẫn không biết hết được hậu quả của cuộc chiến này....

Ông chắc chắn sẽ được báo về cuộc đàn áp lớn mà những kẻ nổi loạn đã kích động ở khu vực của xứ Quảng trong khoảng tám hoặc chín tháng. Chúng tôi được biết rằng có sắc lệnh là tất cả các Cơ đốc nhân, lớn và nhỏ, nam và nữ, phải giẫm lên hình ảnh của thập tự giá. Vì các giáo sĩ của chúng tôi ở đó đã không viết thư cho chúng tôi kể từ thời điểm ấy, chúng tôi không biết hậu quả sẽ ra sao....

Mọi thứ ở trên được viết vào ngày 10 tháng 7...

Ngày hôm qua, vua Nhạc đã tiến vào triều đình cũ của Nam Hà [Phú Xuân] với vẻ lộng lẫy nhất và cũng từ đây người Bắc Hà vừa bị trục xuất khỏi đó....


Nam Hà, ngày 1 tháng 8 năm 1786.

[Lưu trữ M-E, 746, p.181-182, cùng lưu trữ khác tại văn khố hội Thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Roy gửi cho Đức Veren và các giáo sĩ khác tại Nam Hà

Tại xứ Nam, chúng tôi nhận được thư của Đức Veren và ông Toussain mà một người lính tuỳ tùng của Tiếm vương Nhạc đã đưa lại cho một linh mục của chúng tôi ở xứ Nghệ An tên là Cha Tần, nhưng mãi lâu sau lúc Nhạc trở về [Quy Nhơn] cha người Bắc Kỳ ấy mới gửi thư lại cho ông Breton.

… Ngày 16-7, quân địch [Tây Sơn] được kẻ phản nghịch Coũ Chỉnh chỉ huy đã tới, bằng rất nhiều thuyền bè, cách trường của chúng tôi tại làng Kẻ Vinh một ngày đường. Chúng đi rất nhanh. Có vài người lính của một đại thần Bắc Hà đã bắn vào quân Nam Hà, nhưng sau đó quân này vẫn giữ trật tự khi tới thị trấn lớn tên là Vị Hoàng, nơi có một vựa gạo mới mang từ Nam Hà ra. Quan quân Bắc Hà đã bỏ trốn và địch liền chiếm cứ tất cả các đồn và kho của vương quốc nhưng họ không làm hại ai và vẫn trọng công lý khắp nơi. Dân chúng thấy họ cư xử nhân đạo như vậy chỉ chê cười quân “giặc” và không ai nghĩ tới cách ngăn chặn họ tiến tới Hiến Nam, nơi trấn thủ chúng tôi ngụ. Họ ra chợ che chở dân chúng khỏi bị quân ăn cắp quấy nhiễu và chặt đầu liền tại chỗ không cần làm thủ tục, những tên bị nộp cho họ. Muốn được lòng dân hơn, có khi họ xử trảm ngay cả lính của họ vì mấy người này đã quấy nhiễu dân chúng ở chợ. Cuối cùng ông ta [người gửi thư] còn cho biết chúa Nguyễn vài ngày nữa, sẽ ra Bắc. Chúng tôi còn nghĩ rằng người Anh và người Hà Lan sẽ đi theo ông vì người ta thường bàn tới tàu Âu châu, đại bác… và các khí giới khác được thông dụng tại Âu châu. Ít lâu sau người ta thấy một chiếc thuyền lớn của người em Nhạc [còn gọi là Đức Oũ, Đức Ông] long trọng tới. Dân chúng Bắc Hà dại khờ từ khắp nơi chạy tới coi các ông chúa và nghe nhạc của họ. Đêm 18-19 tháng 7, chúng tôi nghe thấy tiếng súng đại bác nổ cả đêm. Đó là một cuộc giao chiến giữa quân Bắc Hà và kẻ địch tại Hiến Nam, Trấn thủ cũ của chúng tôi cùng vệ binh và con ông chống cự hết sức, nhưng vì nỗi sợ hãi xâm chiếm, binh lính họ bỏ trốn một cách hèn nhát; và sau khi bị thiệt hại 200 người, quân Bắc Hà không dám đụng độ địch nữa. Quân [Tây Sơn] nhân lúc đang thắng thế, tiến thẳng ra kinh đô và ngày 20-7, chúng vào đó không gặp sự kháng cự nào. Thượng đế đã lấy mất trí suy đoán của quan binh chúng tôi vì ai nấy đều thi nhau trốn chạy toán loạn và mặc hết để cứu cái mạng sống của họ. Người ta kể rằng lính Bắc Hà chỉ bắn có 12 phát súng vào quân Nam Hà thôi, rồi họ bỏ chạy và đốt cháy vài toà nhà do đó 1 phần 4 thành phố bị thêu rụi. Địch có viết trên cờ họ chữ “Diệt Trịnh phù Lê” bởi vậy chỉ có chúa Trịnh và bộ hạ cùng binh lính ông chạy trốn thôi. Gia đình vua Lê ở lại kinh đô và 2 ngày sau khi chúng đến nơi, quan quân Nam Hà đến ra mắt vua Cảnh Hưng với đầy đủ lễ nghi. Người ta tưởng ngài đã băng hà nhưng ngài chỉ thác một tháng sau thôi. Trước khi mất đi, vị vua tuổi tác đó đã gã một công chúa cho Đức Oũ [ Đức Ông ở đây là Nguyễn Huệ]. Chạy được một, hai ngày thì chúa Trịnh bị chính thần dân ông bắt lại và định mang ông nộp cho quân Nam Hà nhưng ông không cho chúng thì giờ làm vậy vì ông đã tự thắt cổ chết. Thế là hết đời ông hoàng bạc phước, đã được quân đội đem ra khỏi tù đặt lên ngai vàng và đã cầm đầu chính quyền trong một thời kỳ đen tối, như quý ông đã biết. Quân địch đã cướp hết mọi thứ chúng chỉ để lạ những căn nhà trống không và các dinh thự thôi. Chúng vét sạch cả phủ Chúa và biến đền chùa thành nhà của quan. Chúng đem chôn các pho tượng và không thờ thần nào cả. Có người còn phao tin rằng hai Đức Oũ [Nhạc và Huệ] đều theo Công giáo và có rất nhiều giáo đồ trong quân đội. Có một vị quan Nam Hà, sau khi rửa tội tại nhà một linh mục chúng tôi, đã viết thư cho đức Céram [tức giáo sĩ Jean Davoust] nhờ đức ông cho ông biết voi (?) ở đâu để ông ta lĩnh phần. Các lái buôn xứ này làm giàu nhờ sự đói kém gần đây. Chúng không thương xót những kẻ chết đói đáng thương nằm dài dọc bên lề đường, lại còn đầu cơ gạo để bán với giá đắt hơn. Hình như Thượng đế đã có chủ tâm dẫn quân Nam Hà vào vương quốc này để trừng phạt những kẻ tàn bạo đó. Các lái buôn mất hết thuyền và vàng bạc thành thử mỗi ngày lại có kẻ âm thầm về nhà, thân thể bị lột trần chỉ còn một mảnh khố nhỏ, nhưng cũng may vì chưa bị giết. Lúc họ về tới nhà, họ còn gặp nhiều tai nạn nguy hiểm hơn nhiều. Đạo tặc lan tràn khắp nơi như kiến, và cắn hết mọi thứ như châu chấu của “Ngày tận thế”. Chúng nhảy xổ vào các lái buôn; cướp đốt nhà họ và giết khá nhiều người. Gần Cửa Bạng, có một hòn đảo danh tiếng tên là Biện Sơn [Biện Sơn, đảo ở phía ngoài cửa Bạng 7 dặm, chỗ tránh gió rất tốt cho thuyền bè đi biển], trước dân cư gồm toàn lái buôn độ 3.000 người, trong số đó có 6,700 giáo đồ. Những kẻ bất hạnh đó trước kia làm giàu trên xương máu người nghèo nhờ bất công và tham nhũng, lần này Thượng đế đã trừng phạt họ và trên nhiều người như thế chỉ còn 2, 30 người sống sót mà thôi. Năm nay thật là năm đen tối của Bắc Hà. Phủ Yên Trường ở xứ Thanh [nay thuộc Ninh Bình] là kho tàng của họ Trịnh nên đầy vàng bạc và chiến lợi phẩm thu được tại Nam Hà, đã bị quân Bắc Hà bỏ lại. Những quân cướp [thật chứ không phải quân Tây Sơn] đã ùa vào đấy lấy những gì có thể cướp được. Chúng đánh, giết và tranh giành nhau từng vật một. Sau đó quân Nam Hà tới và cướp sạch hết. Ai cũng tin rằng quân Nam Hà sẽ thay thế nhà Trịnh. Chúng công bố vài sắc lệnh mà ai khinh thường. Sau chót, sau khi đã thu nhặt hết chiến phẩm, Đức Oũ sửa soạn để ra đi, nói rằng mục đích ra Bắc của ông là đánh đuổi quân Trịnh đang áp bức nhà Lê, nay nhiệm vụ đã xong ông xin trở về. Đang lúc đó, lại có tin khác: đó là tin vua trời với 30 con voi và một vạn quân đã qua xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Nam và đã tới Kẻ Chợ trong một thời gian ngắn. Người đó chính là Nhạc. Ông lưu lại tại Kẻ Chợ có 2, 3 ngày, rồi ông lại hấp tấp trở về [Nam Hà] qua xứ Nghệ và Bố Chính, tất cả đội ngũ Nam Hà về theo ông, kẻ theo đường biển, người đường bộ. Không ai ngờ tới chuyện này cả nên được tin, nhiều kẻ bạo nhất cũng phải xanh mặt. Hết vua, hết quan, hết bạc, hết gạo, cả vương quốc bị bỏ rơi cho lũ đạo tặc… Chúng tôi tưởng chừng sắp khốn đến nơi, và thật vậy, nên Thượng đế để hàng triệu quân tâm ác nảy nở ở Bắc Hà, chúng tôi sẽ không còn trên thế gian này nữa. Lũ giặc [Tây Sơn] lúc ra Bắc thì hiền lành, nhưng lúc về Nam thì ngược lại: chúng đã cướp bóc dân chúng hai bên sông. Giữa sự hỗn loạn này nhiều sự phạm thượng [thần thánh] đã xảy ra. Nhiều linh mục của chúng tôi đã mất bình dầu thánh, hoặc tế phục, thánh tước, sách vở. Quân đạo tặc còn xé tế phục để may quân phục. Người ta có thấy nhiều đứa chết trong bộ áo lễ trắng…

… Sau khi địch đi, các quan lập chú [hay bác, nguyên văn oncle] của tiên chúa trược gọi là “Oũ Quận Quế [ông Quận Quế, tức Côn Quận công Trịnh Bồng. con Trịnh Giang, vào hàng bác của Trịnh Khải. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc, Bồng chạy lên làng Quế Ổ, trấn kinh Bắc, liên kết với bọn người ở Quế Ổ chống lại Chỉnh. Phải chăng vì có liên hệ với Quế Ổ nên được gọi là Quận Quế?] lên ngôi chúa. Nhưng có người cạnh tranh ngôi chúa với ông. Quan quân đang chia rẽ. Nhiều xứ không có trấn thủ hay trấn thủ lại đi cướp bóc. Tại vài nơi, các làng họp nhau lại để hỗ trợ nhau trong công cuộc bắt kẻ gian. Lúc nào người ta cũng dọa chúng tôi là Coũ Chỉnh và phe ông ta càng ngày càng mạnh. Quân Nam kỳ không cho phép ông vào Nam và đã ngược đãi ông. Dù sao, ông đang lập một đảng mới và nếu dân chúng không chịu nộp những sắc thuế mà quân đội ông có quyền thu ở Bắc Hà, giặc [Tây Sơn] chắc sẽ thắng và chúng tôi sẽ còn bị áp bức lâu hơn nữa.

Quân Trung Hoa??? bị mất hết tàu bè của họ mà quân Tây Sơn tịch thu để chở khí giới, chiến lợi phẩm về xứ chúng. Các phu trạm [người đưa thư] của chúng tôi không đi được vì thế tôi không biết thư của chúng tôi có được người Trung Hoa mang đến Áo Môn như chúng tôi hy vọng không.

Mùa màng tháng 10 rất tươi tốt, nếu mất mùa chúng tôi đã nguy rồi.


Kẻ Vinh ngày 6 tháng 10 năm 1786.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Longer gửi ông Blandin, một phần đề ngày 26 tháng 7 năm 1786, một phần đề ngày 3 tháng 5 năm 1787

Tin tức rất gần đây. Chiều ngày 13 tháng này, thủy quân, hay nói chính xác hơn là thuyền của Tây Sơn, tiến vào cảng dẫn đến dinh phó vương Đàng Ngoài ở Phú Xuân, nếu không thì nói chính xác là Huế.

Vào ngày 15, họ tự cho mình là chủ nhân của tất cả những gì [mà] người Bắc Hà [đã từng] sở hữu trong tỉnh này, và tàn sát tất cả, ngoại trừ viên trấn thủ [trong nguyên gốc thư viết thêm chữ Đại đằng trước trấn thủ, có thể hiểu là viên quan lớn đứng đầu 1 tỉnh hay 1 vùng] mà họ đã đánh trọng thương và chết trên đường khi ông bị tấn công, đến tỉnh Qui-nhơn, nơi ở [của] Bạo chúa [nguyên văn là Tyran, có lẽ tác giả muốn nói đến Nguyễn Huệ hoặc Nguyễn Nhạc] trú ngụ. [Thay vì câu mở đầu bằng “bị thương” và kết thúc bằng “nơi ở”, tác giả đã viết một câu khác mà ông đã xóa: dấu ấn chiến thắng của họ. Chắc hẳn sau đó tác giả đã biết về cái chết của viên quan Bắc Hà, và đã gạch bỏ những gì ông đã viết trước đó, ông đã đề cập đến cái chết này].

Vào ngày 18, họ đến Dinh Cát, tỉnh nơi có trường tiểu chủng viện nhỏ của chúng tôi, và hiện tại các cha Mgr La Bartette và M. Girard [Girard, François-Joseph, quê ở giáo phận Besançon, đến Nam Hà ngày 12 tháng 3 năm 1785, mất tháng 12 năm 1812] đang ở đó. Cách chỗ tôi nửa dặm, họ giết một người Đàng Ngoài tội nghiệp [đã] cải trang thành [người] Nam Hà để trốn thoát, nhưng không may bị nhận ra.

Tôi rất lo sợ cho người đầu bếp của mình, người mà ông Le Breton [Le Breton, Louis-François, quê thuộc giáo phận Avranches, rời Tây Đàng Ngoài năm 1774, làm đại diện cho phần phía nam của phái bộ truyền giáo, qua đời tại Nghệ An ngày 27 tháng 8 năm 1789] đã giao cho ông Doussain [Doussain, Jean-André, quê thuộc giáo phận Angers, đi truyền đạo Nam Hà ngày 21 tháng 10 năm 1781, được bổ nhiệm làm giám mục Adran tức là ngang hàng với giám mục Bá Đa Lộc, người mang cùng tước hiệu giám mục, năm 1808 , mất ngày 14 tháng 12 năm 1809], và đức cha thân yêu này lại gửi nhờ tôi [che chở]. Bởi vì người Bắc Hà đã áp bức người dân [Nam Hà] trong hơn 12 năm đến mức họ đã chiếm giữ các tỉnh phía bắc của [Nam Hà], đến nỗi [dân Nam Hà cứ bắt được người Bắc Hà] là hành quyết, và chỉ có tôn giáo mới có thể vượt qua được. Vì vậy, tôi không sợ bất cứ điều gì ngoài việc lo cho các Kitô hữu; nhưng những người ngoại bang? xung quanh chúng tôi ghét người Bắc Hà đến chết, và hơn nữa, vì biết rằng phần thưởng hứa hẹn cho những người tố cáo [người Bắc Hà] sẽ có thể bao gồm người đầu bếp tội nghiệp của tôi trong mối hận chung [như vậy có thể thấy là đầu bếp của tác giả là người Bắc Hà]. Do đó, tôi đã giấu anh ta, và tôi hy vọng trong vòng một hoặc hai ngày nữa sẽ gửi anh ta cho những Cơ đốc nhân tốt bụng ở trên núi.

Trở lại lời kể của tôi: quan đại thần Dinh Cát thấy giặc [Tây Sơn] tiến đến đồn mình ở, thấy rõ không chờ được viện binh, binh lực [2 bên] quá không cân sức; nên ông ta đã bỏ trốn, nhưng có lẽ quá muộn. Tôi mới biết ông bị bắt, và dù có tư cách là con rể Chúa Trịnh, ông vẫn bị voi giày dưới chân. Các viên quan khác hầu hết đều bị giết chết một cách đáng tiếc, ngoại trừ một người cai quản các tỉnh phía bắc, và người có lẽ là người tốt nhất. Tôi thấy thật tội nghiệp những người Bắc Hà, ngay cả tôn giáo thiêng liêng hay các Kito hữu cũng chịu đựng quá nhiều từ khi [ đất này] đổi chủ [từ Bắc Hà sang Tây Sơn], nhà thờ cũng bị biến thành chuồng voi.

Trường chủng viện nhỏ của chúng tôi buộc phải giải tán vì tất cả mọi người đã bị buộc phải tham gia chiến tranh [mọi nam giới] từ 15 tuổi trở lên. Các cụ già, các bà góa bụa, các trẻ em gái còn phải sửa cầu, sửa đường, tỉa lúa, v.v. Những cô gái tội nghiệp thậm chí còn bị đe dọa sẽ bị giật khỏi tay cha mẹ, để trở thành món tiền của một băng cướp vô liêm sỉ.

Viết tại Nam Hà, ngày 22 tháng 7 năm 1786.

Tôi quên nói với ông rằng quân nổi dậy đã dìm chết một thuyền trưởng người Bồ Đào Nha và anh trai của ông ta, sau khi thắt cổ họ lại với nhau. Họ cũng giết chết hai thành viên thủy thủ đoàn khác, đốt cháy con tàu đang ở ngoài khơi và buộc những người còn lại phải gia nhập lực lượng quân đội của họ
. . ..
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Thieband gửi ông Letondal.

Xứ gần giáp giới Nam Hà này, nơi ông Le Breton và tôi ở, thuộc quyền cai trị của Nam Hà. Họ đặt những đội quân đồn trú tại nhiều nơi, Họ có mộ nhiều binh lính tại đây và dân còn phải cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Quân trộm cướp không dám hành nghề…

Kẻ Blầu [Kẻ Trầu, Nghệ An), ngày 23 tháng 7 nă
m 1787
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ghi chép về những sự kiện đáng nhớ nhất trong Sứ mệnh Bắc Hà, từ tháng 7 năm 1786 đến cuối tháng 7 năm 1787 của giáo sĩ Jean Davoust

[Giáo sĩ Jean Davoust, sinh ngày 5 thánh 10 năm 1728 tại Mayenne, Pháp, ông gia nhập Hội truyền bá Đức tin Paris, ông đến Đàng Ngoài năm 1753, Đến năm 1759, đi Vaticant và Paris, nhưng tới năm 1782 lại trở sang Ma Cao và 1783, trở lại Đàng Ngoài, ông sống ở Thăng Long, có đi lại giữa Thăng Long và Nam Định (hồi ấy gọi là Kẻ Vinh) đúng gia ông là Đức Giám mục, đại diện cho Tông Tòa Tây Đàng Ngoài, từ 18 tháng 7 năm 1780 đến 17 tháng 8 năm 1789].

Năm nay, vì tình trạng không may hiện tại của chúng tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ Macao. Những cuộc nổi loạn ở Bắc Hà vẫn chưa được bình định, và chúng tôi e rằng bọn chúng sẽ cản trở chúng tôi khi tàu Trung Quốc quay trở lại giống như năm ngoái. Chúng tôi cũng biết được rằng các vị [giáo sĩ] ở thượng Nam Hà không thể liên lạc được với Macao, một con tàu từ thành phố này đã bị bắt, tàu trưởng và vài sĩ quan đều bị giết; đây là tình huống nguy cấp và đáng quan ngại. Hai Giáo phận này cần phải kết hợp với Giáo phận ở Trung Quốc và Âu châu, nếu bị gián đoạn sẽ gây hại cho đạo [Thiên Chúa]. Tất cả hãy tin vào Chúa, ngài sẽ không bỏ rơi những linh hồn đã đặt niềm tin và hi vọng vào ngài. Trong lúc đó, tôi sẽ viết tiếp đến ngày hôm nay cuốn nhật ký mà tôi bắt đầu từ tháng 6 năm 1786.

Ngày 3 tháng 7 năm 1786, tôi nhận được thư từ ông le Breton, phó linh mục của tôi ở một vùng của Bắc Hà, giáp ranh với Nam Hà. Ông cho tôi biết rằng:

1. Bọn Tai-son [Tây Sơn] còn gọi giặc Nam Hà, đã xuất hiện tại bờ biển Phu xuan [Phú Xuân], với nhiều tàu và thuyền.

2. Chúng đã đánh bại vài đồn binh của quân Bắc Hà.

3. Chúng hạ trại ở biên giới hai nước và chặn tất cả các ngả đường

[Ông thêm vào tái bút rằng chúng tuyên bố chúng là Chúa của vùng đất đã bị người Bắc Hà xâm lược và chiếm đóng và rồi chúng gây ra một cuộc thảm sát lớn. (về vụ thảm sát này Nghệ An ký cũng có ghi nhận)]

Ngày 13 tháng 7, tôi nhận được 2 bức thư khác từ ông: trong thư thứ nhất, ông xác nhận Phu Xuân bị chiếm và toàn bộ tàn quân của Bắc Hà đến vào ngày 16 tháng 6. Trong thư thứ hai, ông cho tôi biết rằng Tướng quân Coung chinh [Cống Chỉnh, tức Nguyễn Hữu Chỉnh], quan Bắc Hà, lánh nạn ở Nam Hà, được Tay-son hậu thuẫn, đã xâm nhập đất Bắc Hà, trong khi thủy quân của ông ta đang đi quanh bờ biển Xu nghé [Xứ Nghệ, tức Nghệ An]; rồi trấn thủ của trấn này đã bỏ trốn, sau khi đốt cháy kho thuốc súng. Ngày 24 tháng 6 quân địch xâm nhập vào vương quốc: không ai kháng cự, chúng nhanh chóng vượt qua hai trấn Nghe an & Xu thang [Xứ Thanh, tức Thanh Hóa trấn]. Khi chúng đến Hien [Phố Hiến], nơi trấn thủ ở và nơi đây giống như là đại lộ tới kinh đô, chúng gặp phải một cuộc tấn công yếu và một trận pháo dài nhưng không nguy hiểm lắm trước khi chiếm được nơi đó, chuyện này xảy ra ngày 18 tháng 7.

Cuối cùng, vào ngày 21, sau một hay hai trận chiến nhỏ, Coung Chinh nhập kinh vào giữa ngày. Chua [chúa, tức Trịnh Tông], hay phụ chính của vương quốc, không nhận ra kế hoạch của kẻ địch muốn lập lại Vua [vua Lê], hay vị vua hợp pháp, vẫn đang ở trong phủ thoải mái của mình, trong tường thành và ra lệnh ngăn không cho chúng vào; nhưng ngay khi ông nhận ra, ông trèo lên voi và bỏ trốn. Hai ngày sau, ông bị bắt bởi bề tôi của ông và tự sát. Thi thể ông được mang về kinh và phơi ở cổng. Cổ ông bị đâm vài nhát. Và thế là vị vương trẻ tuổi đã mất, chỉ mới nắm quyền gần đây, bởi cuộc tấn công của một đội quân. Em trai [Nguyễn Huệ] của bạo quân Nhac [Nhạc, tức Nguyễn Nhạc], người đi cùng Coung chinh, nhanh chóng chiếm lấy phủ Chua và triều kiến vua Canhung [vua Cảnh Hưng], vị vua duy nhất của Bắc Hà, để tỏ sự biết ơn, ngài đã gả đi một người con gái [Ngọc Hân]. Nhưng vị vua này, tuổi đã thất thập và đã tại vị 47 năm, không sống được lâu hơn Chua, đối thủ của ông. Ông băng hà ngày 10 tháng 8. Cháu của ông Hoang-ton [Hoàng tôn] kế vị với tên Chieu thoung [Chiêu Thống], Cha của Chua toung [Chúa Tông, tức Trịnh Tông], một vị vương tàn nhẫn và là kẻ thù lớn của đạo, đã giết chết cha của Chieu thoung [tức là Trịnh Sâm giết thái tử Duy Vỹ, cha của Lê Chiêu Thống].

Mọi người cho rằng vị vua mới sẽ cai trị không gặp trở ngại nào và sẽ rực rỡ hơn người ông Canh hung, người chỉ có hư vị trước khi Tay-son đến. Mọi quyền lực đều thuộc về tay Chua, vị vương mà ban đầu giống như là nguyên soái của chúng tôi và cuối cùng, trở thành giống như là quản cung điện của chúng tôi. Nhưng ảo tưởng đó không kéo dài lâu. Sau khi cướp bóc và tàn phá phủ Chúa, lấy đi cả pháo, đạn pháo, súng, mọi binh khí, kể cả thuốc súng và vét sạch kho thóc, quân địch tiếp tục quay về Nam Hà vào cuối tháng 8. Bạo quân Nhạc, với vô số những kẻ vô lại và một trăm con voi, tự thân đến trước khi vụ cướp [xảy ra]: ông ta ở lại kinh đô khoảng ba hay bốn ngày, rồi rời đi cùng với em trai và toàn bộ quân đội. Chỉ có độ 20.000 người, nhưng người ta nói là 200.000: người Viễn Đông rất giỏi phóng đại và dối trá. Và vì đó, trái ngược với ý định của tướng quân Cống Chỉnh, chiến dịch của Tây Sơn này chỉ là một vụ cướp không hơn. Coung ching, vì có một vài lí do nên không thể rời bỏ chúng, đã trốn và đi theo bọn chúng đến biên giới Đàng Trong: ông cảm ơn bạo quân Nhạc và vương đệ, người đã đưa ông về nghỉ ở quê nhà ông, cũng không xa lắm. Nhưng ông không ngồi yên tại đó. Khi biết được một thế lực hùng mạnh, vào ngày 12 tháng 9 đã bắt Vua công nhận Chúa mới, và trong một tờ chiếu của vị vương này ngày 13 đã bạc đãi ông, ông chỉ nghĩ đến việc tự lập đảng để bắt đối thủ của mình phải run sợ. Ông không thể dựa vào số lượng hay tình cảm của những đồng bào mình. Và dù ông đã đánh bại trấn thủ và đội quân kỷ luật kém của ông ta, ông sợ rằng mình sẽ bị thất bại dưới sự hợp lực của tất cả những người ghét ông. Một lần nữa ông lại cầu viện Tây sơn. Em trai bạo quân Nhạc, trước gọi là Duc oung [Đức Ông] và giờ là Chua phu xuan [Chúa Phú Xuân], có nghĩa là chúa của Phu xuan, một người đây tham vọng và thèm muốn mở mang vùng đất nhỏ bẻ của mình bằng việc chiếm lấy Đàng Ngoài, đưa trở lại vương quốc 5 tới 6.000 quân, vài cận thần và đệ nhất quan của ông ta, không phải là để cứu Coung chinh, người mà có sức mạnh ông ta vốn sợ, mà là để thực hiện cuộc xâm lược mà ông ta âm mưu, điều mà công chúa Bắc Hà, con gái vua Canh hung, vợ đầu của ông rất khuyến khích.

Theo bức thư nhận tôi được 5 tháng trước, từ vùng thượng Nam Hà, vương [Nguyễn Huệ] quay lại đây với 50.000 quân, hay đúng hơn là 50 nghìn nông dân nổi loạn, được huấn luyện vội vã; lính cũ của ông đã bỏ hắn đi vì ông bỏ đói họ đến chết; nhưng bất hòa xảy ra giữa bạo quân Nhac và Huệ, vì mục tiêu chiếm Bắc Hà và việc li khai thượng Nam Hà, không cho phép Huệ thực hiện kế hoạch của mình. Theo một bức thư từ ông la Barrette, viết ngày 1 tháng 5 và nhận ở Bắc Hà ngày 26, Duc oung vây hãm Qui phu [Quy phủ, tức Quy Nhơn], quốc đô của bạo quân Nhac và nhốt hắn tại đó. Dù sao, hắn tự hài lòng về việc nuôi dưỡng ở Xu nghê và biên giới hai nước một vài đồn binh Tay son mà vì lý do chính trị Chieu toung và Coung chinh không thể đuổi đi được.

Ngay sau khi Coung chinh nhìn xuyên thấu được kế hoạch của Duc oung, bèn trả lại viện quân cho hắn; đi kèm tiền và một món quà bằng vàng hay bạc. Chỉ huy của đám lính này, sợ không dám trái lại mệnh lệnh bí mật của chủ, từ chối quà của tướng quân Bắc Hà. Rồi, tướng lĩnh hai trấn Thanh và Nghe, vốn là vệ binh của Chúa và kinh đô, căm giận vì thấy quê hương đang bị ngoại bang giày xéo và sợ Coung chinh trừng phạt thói kiêu căng cũ của họ, đã xin đi đánh giặc: Coung chinh không đồng ý. Tuy nhiên, bọn Tây-sơn không phải không biết chúng đang bị người Bắc Hà căm ghét thế nào và quân số của chúng ít đến đâu, vì vậy nên chúng không lơi là phòng thủ khỏi bất ngờ và tăng cường ở những vị trí chúng chiếm đóng tại Bo chinh [Bố Chính], Nghe an, Xu thanh và Xu nam [Xứ Nam, tức Trấn Sơn Nam]. Bọn chúng cũng dùng đến một mưu mẹo: chúng chào đón trộm, cướp, những kẻ không dám làm cướp nữa, và cấp cho chúng gạo, tiền, gỗ, rơm, v.v. những cái mà chúng cần. Với một người Nam Hà, đôi khi có 20 đến 30 tên cướp Bắc Hà, không hài lòng với phần thưởng, dùng tên tuổi và tiếng tăm mà chúng đã reo rắc vào người dân trước kia để trấn lột một số tiền đáng kể.

Khi người Nam Hà đã thu được rất nhiều tiền, chúng bí mật chuyển tiền đến trại chung ở Xu thanh; sự thối tha và bạo lực của chúng kéo dài đến giữa tháng ba, rồi chúng tiếp tục quay về Phu xuan, chất đầy của cải, để trả cho Duc oung, đền bù cho số đã bị bạo quân Nhac cướp năm ngoái. Hơn nữa, việc chúng rời đi cũng không phải là tự nguyện, mà do Duc oung ra lệnh vì vua Chieu thoung yêu cầu; tuy nhiên vẫn còn một vài tên ở Xu nghé, một số có vẻ muốn ở lại và phá luật ở đây.

Coung chinh rời Xu nghe, với lực lượng đáng kể, gồm người Bắc Hà, sau khi trấn thủ đó bị đánh bại, đi qua Xu thanh. Ông ở lại đó đủ lâu để tăng quân số, chỉnh đốn đội ngũ và thăm dò tình hình trấn Xu nam. Lúc đó một viên quan trẻ xin với Chua quê [Chúa Quế, tức Trịnh Bồng], cho đi đánh Coung chinh, hứa sẽ báo cáo về; được chuẩn y và được cho chỉ huy một số lính; họ nhanh chóng bị trừng phạt vì sự điên rồ của mình; hai chỉ huy bị giết và còn lại bỏ trốn.

Coung chinh tới Xu nam, trấn phía Nam, vào cuối tháng 1, xem xét luật lệ các nơi và phục hồi lại an ninh công cộng. Ông gặp một tay bất hảo, trước kia là tướng cướp, mà Chua đã nuôi để trở thành một quan lớn và ông có quen biết anh em của hắn ta, và cho hắn trở thành chỉ huy bọn cướp, bỗng nhiên trở thành những chiến binh vệ quốc. Nhưng tên vô lại khoác lác này không dám nhìn Coung chinh, hắn bỏ trốn cùng người của mình: vương, bằng hữu của hắn, trở về kinh, khóc lóc vì giận dữ và nhục nhã. Còn Suat te [tên của tay bất hảo] thì nhanh chóng bị tìm ra và đưa đến trại Coung chinh, ra lệnh chém đầu và tịch thu tài sản của hắn. Tên cướp này là hàng xóm của chúng tôi và làm chúng tôi phải sợ nhiều hơn một lần. Chua đã biết được thất bại này, nên thấy cần phải ngăn chặn Coung chinh và rời kinh đô ngày 28. Vua Chieu thoung muốn ông ở lại, nhưng thấy ông đã chạy mất, vua ra lệnh đốt cháy phủ Chua. Một khu lớn, cụ thể là nơi những vị vương từng ở, bị thiêu thành tro. Vài dinh thự khác cũng bị lửa thiêu rụi. Coung chinh lúc đó đến nơi, dập lửa, viện trợ cho thành phố và tháo dỡ tất cả tượng thờ, hình ảnh, chuông, v.v. làm bằng đồng. Ông đúc tiền, pháo và các vũ khí các. Rồi ông chiêu mộ những kẻ chống đối, bằng sự ân cần hoặc bằng vũ lực. Lúc đầu người ta tin rằng Chua sẽ chấp nhận lời mời của vua về kinh, hai vị quan chủ chốt gắn liền với lợi ích của ông, giả vờ tuân lệnh. Nhưng chúng tôi sớm đã nhầm: ngọn lửa nội chiến đột nhiên bùng lên dữ dội hơn trước. Coung chinh vì đó đã gửi vài đạo quân vây thành nơi Chua đóng, nó bị chiếm vào 6 tháng 3, nhưng Chua đã bỏ trốn. Một tướng hải tặc đến gặp ông, với vài chiếc thuyền, và đưa ông đến các trấn miền Đông, tới trại của Han nhoung [??? Nhưỡng, tức Đinh Tích Nhưỡng, tên của viên quan, người mà ở đầu tháng 9 năm ngoái dẫn vị vương này và cầm đầu một đội quân lớn, tới ép vua, hay Vua chieu toung phải công nhận Chua]. Cuộc chinh phạt thứ nhất được tiếp nối bởi cuộc thứ hai, quan trọng hơn nhiều, tại Xu doai [Xứ Đoài, tức Sơn Tây]. Một đại quan, tên Quan thec [Quận Thạc, tức Hoàng Phùng Cơ], một chiến binh, chỉ huy 80.000 quân uy hiếp kinh thành. Ngay lập tức ông đã bao vây một đồn quan trọng và đánh bại đồn binh, khi Coung chinh đến với 30.000 quân, đã bắt ông làm tù binh và ra lệnh xé xác con gái ông; nàng như là một chiến binh Amazon??? ngồi trên lưng ngựa, đứng hàng trước; nàng quấn khăn quanh ngực và một mảnh vải đỏ trên đầu, quấn thành nhiều vòng, ở một bên tay nàng cầm một thanh gươm, khua liên tục; ở tay kia là một chiếc rìu lớn, tựa vào vai. Coung chinh tiếp tục trở về kinh với tù nhân, người chết vài hôm sau vì thuốc độc. Những người ủng hộ Chua phải dùng mưu kế. Họ lập ra một âm mưu đe dọa tính mạng vua Chieu thounh và Coung chinh, bị phát giác vào ngày 31 tháng 5, một ngày trước khi tiến hành. Vài tên đầu sỏ bị chém, nhưng trấn thủ thành được tha, dù nhà vua đã gửi hắn thuốc độc. Coung chinh đã xin tha cho hắn, để trả ơn những việc tốt hắn đã làm cho mẹ ông khi còn là trấn thủ Nghe an, quê hương của Coung chinh.

Trong khi những việc đó đang diễn ra ở kinh đô, trấn thủ hiện tại của trấn phía Nam, tên là Doc chien [Đốc chiến, tức Hoàng Viết Tuyển], một người đầy tài năng và can đảm, chỗ dựa của tướng quân Coung chinh, tấn công thủy quân của Chua que [chúa Quế?], được chỉ huy bởi Han nhuong và Thiem sen [chưa rõ ai], đánh tan và chiếm được 5 đến 600 tàu thuyền. Thất bại cuối cùng này đã làm hỏng việc của Que vương. Xem ra ông không thể nào phục hồi được, và đây là tín hiệu của sự thanh bình yên tĩnh: chúng tôi không còn thấy giặc cướp nữa.

Cuộc nổi loạn đó diễn ra tại Bắc Hà một năm trước, liệu đạo có thể thắng không? Không chắc. Nhưng dù sao, tình hình khá khả quan. Coung chinh không phải kẻ thù của người theo Thiên Chúa, ông chỉ biết ít về đức tin của họ. Còn về các tôn giáo khác thờ tượng, ở đây gọi là Dao but [Đạo Bụt] hay Phat [Phật], ông không theo phái đó, ngược lại, ông ghét nó. Cách đây không lâu, nghe các sư sãi than vãn về việc dỡ bỏ các ảnh tượng bằng đồng, ông trả lời rằng họ than vãn là sai, rằng But nhìn thấy chiến tranh nổi lên khắp tứ phương của vương quốc nên đã trốn về quê hương Ấn Độ và bỏ chùa cùng tượng lại cho người Bắc Hà muốn làm gì thì làm, v.v.

Tôi hiện đang để trước mặt hai bức thư từ Cha xứ của kinh đô. Ông ca ngợi tướng quân Coung chinh hết lời; ông có cuộc gặp vào ngày 27 tháng 2. Coung chinh biết được từ một người theo Thiên Chúa, đang là thư lại và y sĩ của ông, rằng linh mục đã học ở Xiêm, lập tức ngồi xuống khi bước vào phòng và hỏi về những nơi ông đã đi qua. Nghe đến tên dinh Doung nai [Đồng Nai], ông hỏi có nhiều người theo Thiên Chúa ở Doung nai không. Viên giáo sĩ đã trả lời rằng, trong thời gian ông ở đó, chỉ có rất ít người [theo đạo]. Coung chinh đáp lại:

- Hiện nay đã có số lượng lớn, gần như cả dinh đó đều là người theo đạo Cơ đốc và dân chúng rất mong muốn tôi đến gia nhập với họ.

Ông cũng hỏi về những việc liên quan đến cuộc chiến giữa Tay son và Chua nghuien [Chúa Nguyễn, tức Nguyễn Ánh], tức vị vua hợp pháp của Nam Hà và cho lui rất lịch sự.

Cha xứ của kinh thành, sau khi báo cáo vài đặc điểm, để cho biết tính cách và quan niệm đạo đức của Coung chinh, kết thúc bằng đoạn văn này:

- Một sĩ quan quân đội, thuộc cấp của Coung chinh, đã bắt một quý nhân, người đó đã gửi đơn khiếu nại tới tướng quân. Lập tức, Coung chinh giận dữ, rút gươm và gọi tất cả mọi người trong nhà ra: Thanh gươm này, ông nói, không nể ai cả: lớn hay nhỏ, quen hay lạ, dù là cha hay mẹ, quý nhân hay thường dân, không ai là ngoại lệ. Ai có đầu, hãy bảo hắn cẩn thận rơi đầu, như người này, đã bắt giữ chỉ huy của mình mà không có lệnh. Ta không tiếc quãng thời gian cùng với hắn từ thuở nhỏ, lôi ra đồng chém đầu. Và rồi họ chém đầu hắn.

Tôi muốn nói tới các ông Thiébaud và la Mothe, ghi chép của những gì họ đã trải qua và những mất mát của họ; họ bị cướp vài lần bởi bọn Tây-sơn, bởi lũ trộm cướp Bắc Hà. Những linh mục quốc gia và những người Âu châu cũng không được đối xử tốt hơn. Không thể kể được bao nhiêu bình và đồ trang trí linh thiêng đã làm mồi cho bọn cướp, những quý ông đáng kính của chúng ta ở Nam Hà có thể làm chứng về những nỗi khó khăn của họ.

Trong lúc loạn lạc vô chính phủ này, mọi liên lạc giữa các linh mục và con chiên bị gián đoạn, không chỉ những người tham gia Thánh lễ càng ít đi, mà nhiều người theo Thiên Chúa nghèo đói bắt chước hoặc bị đe dọa bởi người ngoại đạo, cũng tham gia vào các hành vi trộm cướp như chúng. Giữa nhiều việc đau đớn đắng cay như vậy, chúng tôi không thể không an ủi.

Từ khi tướng Nguyễn Hữu Chỉnh (nguyên văn: Coũ Chỉnh, tức là Cống Chỉnh, do ông thi đỗ Hương Cống nên mới gọi thế) trở về thủ đô Bắc Hà vào cuối tháng 1 năm 1787, và từ lúc tân Chúa hay kẻ thống trị Quế [Trịnh Bồng, là con của Trịnh Giang, sinh năm 1740, anh họ củaTrịnh Sâm và là bác họ của Trịnh Khải. Khi cha con Trịnh Sâm cầm quyền, ông được phong là Côn Quận Công, là vị Chúa cuối cùng của họ Trịnh] tự tử theo lời đồn vài tháng sau khi thấy quân của mình bị tiêu diệt và sự-nghiệp của mình bị phá hủy hoàn toàn, quyền-lực của nhà vua trẻ tuổi Chiêu Thống [nguyên văn: Chiêu Thoung] hình như đã khôi-phục được sự vẻ-vang xưa và mỗi ngày một củng-cố trong khi các vua Lê trước như Cảnh Hưng, như chúng tôi đã từng nói, chỉ là những vị vua trên danh-nghĩa và tượng-trưng mà thôi.

Các vụ tấn công trước đây do quân nổi loạn Tây Sơn gây nên chỉ còn rất hiếm trong nội địa Bắc Hà; phần đông binh lính Tây Sơn đã rút vào Nam và chỉ còn một ít đóng tại xứ Nghệ An và vùng Bô Chinh giáp giới miền Trung [nguyên văn là Huaute Cochinchine, dịch chính xác là Thượng Nam Hà].Nhưng than ôi, sự yên-ổn đó chẳng được lâu dài.Tướng Nguyễn Hữu Chỉnh thấy hối-hận cho lòng tin-cậy và sự khinh-suất của ông, hay sự nể nang quá đáng đối với một kẻ thù nguy hiểm [tức là Tây Sơn] vì ông dường như nhường cho họ miếng đất Bắc Hà để họ cai trị, có chỗ vùng vẫy và lối vào để đánh chiếm vương quốc khi cơ hội thuận tiện. Vả lại, đáng lẽ tướng Chỉnh phải thận-trọng và hiểu rằng tình trạng hòa bình mà Bắc Hà đang hưởng từ 9, 10 tháng nay, là do sự ân-cần và tính dũng mãnh của ông ít hơn là do tình thế chiến trận giữa ông bạo chúa đáng sợ miền Trung, tục gọi là Đức Oung [Đức Ông, tức là Nguyễn Huệ], em thứ 8 của tiếm vương Nhạc và người anh [tức là Nguyễn Lữ]. Tiếm vương buộc lòng phải chịu dưới quyền của em mình và phải chấp-nhận mọi điều-kiện em mình đặt ra. Quả nhiên, khi Đức Oung hành quân trở về, ông vẫn chưa hài-lòng về sự bành-trướng mới mẻ vùng Phú Xuân của ông. Ông không quên trở lại kế hoạch đánh chiếm Bắc Hà mà ông đã nghiên cứu từ lâu nay.

Ngày 6 tháng 12 năm 1787, tôi nhận được nhiều tin tức đặc biệt và 2 lá thư của ông Le Breton [Giáo sĩ Francois Louis Le Breton (1749-1789) thụ chức giáo sĩ 1774, đến Đàng Ngoài vào năm 1777, sống và truyền giáo tại Trang Nứa, Nghệ An], người trợ tế đại diện cho tôi ở vùng giáp giới Nam Hà đề ngày 20 và 23 tháng 11 cho rằng:

1. Chừng một tháng nay, một vị tướng của Tân Attila [tức là Nguyễn Huệ, các giáo sĩ gọi ông là Tân Attila vì Nguyễn Huệ được ví như Attila, một vị vua Hung Nô, đã từng được coi là kẻ “bách chiến bách thắng” làm mưa làm gió Âu châu vào giữa thế kỷ thứ 5] tên là Vach Quinh [để nguyên văn, người dịch chưa xác định được đây là viên tướng nào, có lẽ là Hoàng Viết Tuyển] đã trở lại xứ Nghệ tuyển mộ rất nhiều lính và bắt dân chúng cung cấp một số lượng gạo khá lớn.

2. Từ hai, ba ngày nay, một vị quan khác, cao cấp hơn, trước gọi là Chương Nha, sau đổi thành Đô đốc, rồi Đức Oung và sau cùng gọi là Tiết Chế [tức là Vũ Văn Nhậm, được Nguyễn Nhạc phong chức Tả quân đô đốc vào tháng 4 năm 1786 khi Tây Sơn đánh chiếm Thuận Hóa và được Nguyễn Huệ phong chức Tiết chế, đem quân ra Bắc bắt Nguyễn Hữu Chỉnh vào năm 1787. Chương Nha có lẽ là Chưởng Nha, một chức võ quan, Đức Ông chỉ là tiếng dân ta hồi ấy gọi người được trọng vọng] thực ra, tất cả các loạn tướng thời đó đều đổi tên như thay áo, cũng tới xứ này đem theo tận 20 hay 25 con voi và 4.000 đến 5.000 lính Nam Hà, chắc là tính tiến lên về phía kinh thành của vương quốc này. Tuy nhiên, cấp trên của ông ta có lẽ chỉ có ý định điều ông ta ra Bắc Hà để mộ lính, thu gạo và ở đó dò xét hành vi và mọi sự đòi-hỏi của Nguyễn Hữu Chỉnh và Chiêu Thống, vị vua lại bị [Hữu Chỉnh] điều-khiển. Mục đích của việc tuyển mộ dân quân Bắc Hà là để thay thế các lính cũ của đám loạn quân Phú Xuân [tức là quân của Nguyễn Huệ] mà từ nay chúng ta sẽ gọi là Bắc Vương sau ngày ông ta chiến thắng Nhạc tức Thái Đoc [Thái Đức, niên hiệu của Nguyễn Nhạc khi làm vua] và phân-chia lãnh thổ của ông ra làm ba phần chỉ để lại cho người anh 3 tỉnh nhỏ ở giữa quốc gia và cái chức vị Hoàng Đế, nghe ra có vẻ trang-trọng nhưng thật ra là chỉ có hư danh mà thôi. Ông tự xưng là Bắc Bình Vương tức vua xứ Bắc, biểu lộ như vậy là rõ ràng có mưu đồ đánh chiếm Bắc Hà và địa phận phía Bắc miền Trung. Vì nhiều đội quân đã bỏ rơi ông để theo Nhạc, trong hoặc sau thời kỳ chiến tranh giữa ông-kẻ chinh phục và phân phát vương vị-và Tiếm vương [Nguyễn Nhạc]. Ông bị lâm vào tình trạng buộc phải thu-nhận trên lãnh thổ nhỏ bé của ông những thành phần thuộc giai cấp hạ-lưu, những tay anh chị lưu-manh, nông dân và phát cho họ khí giới. Đó là những người lính được chỉ định hoặc để ngăn ngừa một cuộc tấn công bất thần của quân địch, tuy bị bại trận nhưng được tăng-cường với rất nhiều binh lính đào ngũ [từ phía của Nguyễn Huệ], hoặc để dự định xâm chiếm Bắc Hà.

Đội quân do Tiết chế và Vanh Quinh chỉ huy được phân tán và chỉ định vào các cơ, đội dân binh mới tuyển tại xứ Thanh Nghệ và Bố Chính [bộ phận dùng vào việc dưỡng binh]. Đội quân này có nhiệm vụ giám-sát, bắt buộc những người dân binh phải chiến đấu chống lại chính anh em họ. Họ giết chết ngay tại chỗ những kẻ nào tìm cách trốn tránh hay từ chối đầu quân cho họ. Vì thế trong một cơ đội cứ một người lính Nam Hà [của Tây Sơn] thì trung bình lại có khoảng 30 hay 100 lính Bắc Hà.

Trong một khoảng thời gian ngắn. Tiết chế đã thành lập được một quân đội có lẽ hơn 30.000 người. Quả nhiên, ông ta lập tức tiến quân ra Kinh Đô và tới xứ Thanh vào trung tuần tháng chạp. Bấy giờ chính quyền Bắc Hà mới thức tỉnh khỏi cơn mê ngu muội của họ và bàn tính những biện-pháp cần thiết để đẩy lùi quân địch hay ít nhất cũng ngăn không cho họ tiến vào xứ [Sơn] Nam để vào Kinh thành. Những trận đụng độ đầu tiên giữa hai bên xảy ra ngay sau ngày lễ Giáng sinh. Mặc dầu thỉnh thoảng thua mấy trận và thiệt hại một số lính chính quy, vài trăm lính gốc Bắc Hà, quân Tây Sơn vẫn tiến từ từ về bờ cõi xứ [Sơn] Nam [tức trấn Sơn Nam, nay là các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình và một phần các tỉnh Hưng Yên, Hà Nội] và chỉ còn cách tư dinh tôi [tác giả] có nửa ngày đường, lại mệt hơn nữa là trong tình trạng nguy cấp như thế mà sự bất hòa lại thình lình bộc phát giữa Nguyễn Hữu Chỉnh và Đốc Chiên [chính là Đinh Tích Nhưỡng] trấn thủ xứ Nam [mà tôi đã nhắc tới trong cuốn nhật ký viết năm trước].Sự bất-hòa này bắt nguồn từ sự ghen ghét của Đốc Chiên trước uy-danh lừng lẫy của Hữu Chỉnh. Đốc Chiên ghép cho Hữu Chỉnh tội ban-phát những đặc-ân phi pháp cho những kẻ tay chân và chỉ lo tới sự tiến-cử họ trong khi đó chính ông và những quan lại dưới quyền ông mới là những kẻ tận-tụy với việc nước lại không được đếm xỉa tới. Đốc Chiên vì tham-vọng và đố-kỵ, cho rằng thời-cơ thuận-tiện để báo thù Hữu Chỉnh đã tới và định nắm lấy nó nhưng ông nghĩ rằng hành động phản-bội của ông không những gây tổn-hại cho địch thủ [Hữu Chỉnh], cho cả nhà vua nói riêng và Vương quốc nói chung mà còn cho cả ông nữa.

Ngày 30 tháng 12 [1788], một viên võ quan theo Công giáo chỉ huy một quân đoàn trọng yếu của hạm đội hoàng gia dưới quyền của Đốc Chiên có viết cho tôi một lá thư trong đó ông cho tôi hay rằng Đốc Chiên không những không đem lực lượng cản địch mà ngược lại còn dự định vượt tuyến vào Nam hàng Tây Sơn. Trước đây, ông ta cùng với Nguyễn Hữu Chỉnh hợp tác với Tây Sơn, [đồng thời tôi nhớ rằng] nhờ vậy ông ta được Tiết chế Tây Sơn ban cho một thẻ thông hành và một số hộ vệ quân. Vì Đốc Chiên đã nhiều lần tỏ ra dũng-cảm và am tường chiến-thuật của địch nên lính Bắc Hà tin-cậy và sẵn sàng tuân lệnh ông ta hơn các tướng khác. Tin tức về sự phản-bội đó làm thay đổi tức thì cục diện chiến cuộc vì nó khuyến-khích lòng can đảm của quân Tây Sơn và gây kinh-hoàng trong đội ngũ lính Bắc Hà. Tuy bị bạn đồng liêu bỏ rơi một cách hèn-nhát như vậy, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn không nổi giận và giả vờ viết liên tiếp mấy cái thư cho Đốc Chiên, nhân danh Vua và vương quốc, khẩn-thiết yêu cầu ông này từ bỏ ý định tai hại của ông và gác lại mối thù-hận sang một bên [vì lợi ích chung].

Nhưng tính kiêu-căng và sự ngoan-cố chung của những kẻ bội-phản làm hắn bỏ ngoài tai mọi điều khuyên răn. Bởi vậy Nguyễn Hữu Chỉnh bắt buộc phải đích thân chỉ huy đội ngũ còn lại và cấp tốc rời kinh đô để chặn đường và tấn công địch. Trong khi đó, một vị Hoàng thân [cậu hay chú bác của vua Lê Chiêu Thoung] được cử đi dẹp giặc, lại gây hoang mang trong dân chúng kinh đô vì sự đào tẩu về kinh thành một cách quá vội vã của ông. Nguyễn Hữu Chỉnh tức giận và muốn trừng-trị nghiêm-khắc người này để làm gương và cảnh-báo các vị quan và binh lính dưới quyền ông. Vì vậy ông tâu với vua rằng ông chỉ nhận lãnh trách-nhiệm điều khiển cuộc chinh-phạt quyết định sự thành bại của đất nước với điều kiện phải bêu đầu ông hoàng kia về hành vi hèn-hạ của ông. Vua Chiêu Thống không dám từ chối sự đòi hỏi đó. [Chắc chắn hình phạt đáng sợ đó không phù hợp với phong tục Tây Phương và ở đấy mọi người sẽ coi đó là một hành động dã-man]. Sau đó vào ngày 4 [hoặc 5 gì đó] tháng giêng. Nguyễn Hữu Chỉnh lên đường. Theo nhiều lời đồn thì ông bị ám ảnh bởi những điều gở mà ông đã nhận thấy khi xem xét các tinh tú vì ông ta am hiểu cặn-kẽ thuật xem sao [tốt xấu]. Vả lại ông ta cũng biết rằng mình không được lòng quân sĩ của ông. Qủa nhiên, khi ông ra tới trận tuyến, ông nhận thấy rằng quân đội của ông sẵn-sàng đào ngũ hay chưa đánh mà đã muốn đầu hàng quân Tây Sơn. Trong tình trạng hiểm nghèo đó, vì sợ rơi vào tay Tiết chế, ông không làm gì khác hơn là rút-lui một cách kín đáo vào đêm 6 và 7 tháng giêng để trở về Hoàng thành. Người ta kể rằng khi tới nơi vừa thấy nhà vua, ông liền kêu rằng:

- Bloi oi là Bloi! Nhà Lê đã mất rồi!

[để nguyên văn, tiếng Việt cổ Bloi nghĩa là Trời, câu này theo tiếng Việt hiện đại là: Trời ơi là Trời, nhà Lê mất rồi!]

Rồi ông cầm lấy tay nhà vua. Cả hai vừa khóc vừa xuống một chiếc thuyền chở họ đi ẩn tại “xứ Boc” hay “xứ Bắc”.

Không chậm trễ, Tiết chế xua quân tiến về kinh đô và vào thành với phần lớn quân sĩ của ông vào ngày mùng 9 tháng 1 [1788]. Hôm sau chiến hạm Le Castries của Pháp qua ngang Bắc Hà.

Ngày 10, tướng Nam Hà cho quân đuổi theo Hữu Chỉnh để bắt ông này và mời vua Chiêu Thống trở về kinh thành. Tất nhiên nhà vua không dám nhận lời mời. Cuối cùng ngày 12, Hữu Chỉnh bị chính một người đồng hương [và cùng là một cựu chiến hữu] của ông là Ba Trang Thuoc [để nguyên văn vì người dịch không khảo cứu được đây là viên tướng nào] bắt. Hữu Chỉnh chống cự một cách dũng-cảm nhưng khi thấy con trai ông bị giết một cách dã man ngay trước mặt ông và hơn nữa, theo người ta kể lại vì ông bị thương nặng ở cánh tay, ông bị bắt buộc phải đầu hàng. Ngay đó, ông bị nhốt trong một cái cũi có buộc đầu con trai ông ở trên. Ông bị đưa về kinh đô. Người ta quả quyết rằng Tiết chế dự định gửi ông vào Phú Xuân để nộp ông cho “Bạo chúa Nam Hà” [tức là Nguyễn Nhạc] hay Tân Bắc Vương [Nguyễn Huệ]. Nhưng lính Bắc Hà gọi là quân Tam Phủ [binh lính tuyển ở ba phủ Thanh Hóa: Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia, và 12 huyện Nghệ An từ thời Lê Trung Hưng, sau này chính là bọn kiêu binh làm sụp đổ chính quyền Lê-Trịnh], kẻ thù không đội trời chung của người tù nhân danh tiếng này [Hữu Chỉnh], đã hò hét đòi giết ông ngay nên Tiết chế không dám khước từ. Đó là dư luận dân gian. Sự thật thì Tiết chế lúc đó có vẻ không những mong muốn độc lập mà còn hy vọng độc chiếm Bắc Hà để ly-khai với chủ ông, nên ông đã rất mừng khi đã trừ được một kẻ địch đáng sợ như Hữu Chỉnh. Hữu Chỉnh, vị tướng bất hạnh bị xử tử tại Hoàng thành hôm 15 tháng 1 [1788] và thi thể trần truồng với cái đầu của ông bị bêu mấy giờ liền cho dân chúng xem. Người ta kể rằng khi Tiết chế đọc bản án tử hình, kể tội ông là một kẻ bất tuân thượng lệnh và phản bội, không chịu đến gặp Bắc Vương mặc dù đã nhận được nhiều lệnh gọi, Hữu Chỉnh trả lời rằng:

- Ông tốt phúc mà bắt được tôi vì nếu không, chính ông sẽ mất đầu [như tôi sắp mất đây] cuối năm nay. [lời tiên đoán rất đúng, vì sau này chính Vũ Văn Nhậm cũng bị Nguyễn Huệ xử chém]

Cái chết bi-thảm của tướng Hữu Chỉnh như thế đó. Ông ta hình như chỉ quá ham quyền-lực mà thảm bại. Quyền-lực của ông dưới thời vua Chiêu Thống mạnh đến nỗi vị vua này định cho ông nhập vào Hoàng Gia bằng cách thừa tự ngài [ý là định phong cho tước Vương, thực ra thì Chiêu Thống cũng không muốn, vì phong Vương cho Hữu Chỉnh nghĩa là lại tái lập lại chính thể kiểu Lê-Trịnh], việc ban thưởng này là rất hi hữu ở các quốc gia khác! Hữu Chỉnh từ chối. Thực ra, chắc hẳn ông sợ rằng một ân-sủng quá đáng như thế đối với dòng dõi ông có thể gây ác cảm và làm thiên hạ chống ông. Vả lại trong triều đình, việc gì ông cũng định đoạt cả. Ngay nhà vua cũng có vẻ nể sợ ông. Ngài hết sức tránh những việc có thể làm mất lòng ông. Đến nỗi một hôm, một số người có cửa hàng tại Hoàng thành đến tố cáo với tướng Chỉnh rằng một vài vị Hoàng thân, chú bác và cậu vua đến ức hiếp họ không cho họ buôn bán, Hữu Chỉnh bất bình bắt vua phải trừng phạt những người này. Chiêu Thống lập tức phải cho bắt mấy người đó nộp cho Hữu Chỉnh. Sau khi quở trách các vị này ông liền bắt họ phải bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Còn cấm họ từ nay không được la cà trong phạm vi thành phố nếu không tuân lệnh sẽ bị trừng phạt. Lệnh cấm đó tỏ ra có hiệu nghiệm.

Tiết chế mãn-nguyện và tự-đắc về thành tích đầu tiên của ông nên [tuyên bố] thế nào cũng bắt được Chiêu Thống. Ông còn khoe khoang rằng ông sẽ cho nhà vua trình diện dân chúng Kinh thành nhân dịp chào đón năm mới [Bắc Hà]. Nhưng nhà vua này đã phải cải trang nay dưới hình thức này mai dưới hình khác, có khi phải đội lốt một người nông dân, phải đóng làm tiều phu chặt củi trong rừng. Rồi bị khiêng lên trên vai [như chính ông đã thú nhận trong một bức thư cảm động mà ông gửi cho thần dân ông ít lâu sau]. Nhờ vậy ông đã thoát khỏi cuộc truy lùng của bọn tay chân Tiết chế.

Những người nào quen suy tưởng thời cuộc bằng nhãn quan của mình, sẽ thấy coi cái vận đen đủi của Chiêu Thống như một trò đùa tàn nhẫn của tạo hóa. Nhưng chúng tôi [các giáo sĩ] được biết rằng vị vua đó đã đánh dấu sự đăng quang của ông bằng cách ban phát các bằng sắc cho dân những vùng muốn vị Thành hoàng lên phẩm trật cao hơn với một giá rất đắt. Hành vi đó [đối với chúng tôi] bắt nguồn từ ba cái tật xấu [của quan lại cũng như của dân chúng]: lòng kiêu căng, tính biển lận và sự mê tín. [vua Chiêu Thống bán cả tước cho dân lấy tiền, vì ông có ấn trong tay, ấn 1 cái ra cả đạo sắc phong]

Những vị giáo sĩ khi biết được cái tin chẳng lành đó, hình như đã tiên đoán, ngay lúc đó, một cuộc cách mạng mà hậu quả sẽ là sự chiếm-đoạt ngai vàng và lãnh thổ bởi người ngoài [tức nhà Thanh]. Họ đinh ninh rằng tại Hữu Chỉnh không những không chống sự mê tín dị đoan đó mà lại còn khuyến-khích nó một cách đê-tiện. Chính ông đã nhận được bằng sắc [do vua ban] và sai một anh lính cận vệ Công giáo mang tờ đó về quê ông [tức là Nghệ An] nên trước sau ông cũng gặp thảm cảnh nhục nhã mà thôi.

Còn tên Đốc Chiên bất trung, hắn không được tận-hưởng quá lâu sự hoan hỉ của mối thù đã trả. Vài ngày sau sự thất bại và trước ngày hắn bắt và xử tử Hữu Chỉnh, hắn nhận được lời khuyến cáo của vài người bà con hắn [đang bị Bắc Vương giữ làm con tin] ở Phú Xuân bảo hắn chớ có đến thành này. Hắn bèn viết thư cho Hữu Chỉnh xin tha tội đào ngũ của hắn, viện cớ rằng đó là một mưu nhỏ do hắn nghĩ ra để tấn công quân Tây Sơn. Nhưng chẳng may lá thư của hắn của bị địch bắt được, thành thử hắn trở thành kẻ phản bội khả ố đối với hai bên. Tuy nhiên vì lúc đó, hắn có vẻ quả-quyết và bị dồn vào thế phải chiến đấu với Tiết chế, nên vua Chiêu Thống định che dấu sự phản bội của hắn. Ông ra lệnh cho hắn phải tấn công tiền quân của địch, trong khi cánh quân khác sẽ đánh úp hậu quân còn lại. Từ lúc đó, tức là từ trung tuần tháng giêng, có nhiều trận đánh ác liệt giữa Đốc Chiên và Tiết chế.

Đến cuối tháng 3, tháng 4 chiến tranh tuy ngăn trở sự hung hãn của Tiết chế nhưng không có hậu quả gì hơn là tăng gia sự tàn-phá và sự khốn-khổ trên đất nước. Trong khi quân Nam Hà làm chủ Hoàng thành và thủ phủ xứ [Sơn] Nam, vị trí bố phòng trọng yếu độc nhất của vương quốc và Đốc Chiên hãy còn đóng đồn ở nơi cũ với chiến thuyền và đủ loại tàu bè, giữ chắc thế thủ; Tiết chế cùng Vach Quinh [vị tướng hung bạo mà tôi có nói ở đầu bài] và các viên tướng khác bố trí dọc bờ sông các đội vệ binh đủ loại để dò xét động tĩnh của binh tướng Bắc Hà. Những vị tướng Nam Hà quấy phá Đốc Chiên không ngừng và phái bộ hạ đi khắp nơi sách nhiễu dân chúng đủ điều. Người ta chỉ nghe nói đến mộ lính, quyên gạo, quyên tiền. Khi một tổng vừa mới cấp cho Tiết chế một số lính mới đúng ngày đã hẹn [mỗi sự chậm trễ hoặc thiếu sót về vấn đề đó đều bị trừng-trị tức khắc] người ta lại thấy chẳng bao lâu, những con chim kền kền [chỉ những tên lính mới đó] trở lại mang theo danh sách hay bản kê những người có tiếng giàu có hay sung túc [phú hộ], những kẻ có hiềm-khích nhiều hay ít với chúng phải nộp bao nhiêu lượng gạo hay bao nhiêu tiền. Chúng khám xét nhà cửa lấy cớ để tìm kiếm khí giới làm cho tôi một bữa phải trốn giữa đồng ruộng, ngay buổi trưa lúc nắng chang chang trong khi chúng lục lọi và làm một bản kê khai tài sản của dinh thự tôi. Chúng còn đòi hỏi tất cả những đám nông dân, làng mạc, thôn xóm phải trình cho chúng biết tình-trạng hay bản kê khai chính-xác những đất đai của họ nhằm mục đích trưng tập thuế má, và các phụ giúp công việc khác cùng tuyển mộ lính tráng. Tệ hơn nữa tại nhiều nơi quân Tây Sơn còn tuyển các thiếu nữ trẻ. Chúng đã cướp nhiều cô khỏi tay cha mẹ để làm tỳ nữ hay làm cung nữ cho tên Tiết chế. Muốn dân Bắc Hà không tài nào chống lại chúng, chúng cho các thủ hạ làm mật thám đi khắp nơi triệt hạ tất cả những thành lũy hay gò [mô] đất được dựng lên mấy năm trước để chống bọn giặc cướp tại các thôn làng. Nhưng tôi phải ngừng tại đây vì tôi bắt buộc phải thú nhận rằng mưu mô của họ, được sắp trước một cách tinh-xảo quá. Những thủ đoạn quấy rối của chúng khiến tôi không thể [tự phụ] là đã trình bày được một ý niệm đầy đủ về tình trạng hỗn loạn và lộn xộn toàn diện…

[ý đoạn này nói quân Tay Sơn của Vũ Văn Nhậm rất tàn ác quấy nhiễu dân lành].

Trong lúc đó Tiết chế vẫn đóng bản doanh tại Hoàng thành, trong phủ Chúa [Trịnh cũ] được ông biến thành một thứ pháo đài. Ông không che giấu được sự bối rối tuy bề ngoài khinh miệt tướng Đốc Chiên. Ông sợ tướng này là vì bây giờ trong tay ông chỉ còn một số ít lính Tây Sơn thực thụ mà thôi vì phần đông lính Nam Hà chết đói hay mất hiệu quả chiến đấu, nguyên do là ở bệnh tật và chiến tranh. Không những ông không hy vọng gì về việc bạo quân Nam Hà hay Bắc Vương gửi quân tăng-viện cho ông [tuy vậy ông không ngớt khoe-khoang là vẫn nhận được đều đều quân tiếp-viện để lung lạc tinh thần quân Bắc Hà] mà ông còn lo sợ sự phẫn-nộ của Bắc Vương vì ông khăng khăng từ chối nhiều lần không chịu tuân lệnh gọi ông về Phú Xuân sau khi giết được Hữu Chỉnh. Ông lại còn bị tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Bắc Hà đáng lẽ là của chủ ông [Bắc Vương] nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm vương Nhạc, Bắc Vương không thể đích thân ra Bắc Hà để xem xét tường tận các hành động của Tiết chế. Ông phải giao nhiệm vụ đó cho một vị quan thân tín tên là Đại Tư Mã [tức là Ngô Văn Sở] kẻ thù công-khai của vị tướng tham vọng [Tiết chế, Vũ Văn Nhậm]. Vị quan này ra Bắc vào đầu tháng 2 với một quân đoàn 2.000 người. Ít lâu sau ông tới Kinh đô. Ông không thèm đến chào Tiết chế mặc dù ông này chức lớn hơn. Ông lúc nào cũng tỏ vẻ lãnh-đạm và có nhiều ác-cảm với Tiết chế. Sự chia rẽ giữa tướng sĩ Nam Hà cộng với những thắng lợi của Đốc Chiên và vài phe đảng Bắc Hà khác chống lại Tiết chế bắt đầu làm chúng tôi hy vọng. Nhất là từ trung tuần tháng 4, chúng tôi hy vọng rằng Bắc Hà sắp thoát nạn quân Tây Sơn khốn nạn vì chúng không giấu diếm sự bối rối của chúng khi quân Tây Sơn thi nhau đào ngũ và ẩn trốn trong nhà những người dân nào chịu chứa chấp họ.

Nhưng chúng tôi không ngờ rằng chúng tôi đang sống trước một cuộc đại cách mạng đặt Vương quốc này dưới uy quyền chúng. Thật vậy, vào cuối tháng 3 [Chú thích thêm của tác giả: Ông La Bartette mới được phong chức Giám mục và đáng làm “chủ giáo phụ tá” cho Đức Ông Bá Đa Lộc đã cho chúng tôi biết rằng một vị quan tên là Trần Đức trước đã từng ngược đãi Công giáo và chỉ huy đội tiền vệ, đã bị bắt: thân ông bị voi dày, còn đầu ông bị bêu trong ba ngày ở Hội An , một thành phố của Nam Hà thượng] khi Bắc Vương đã thắng hai, ba trận quân đội của Tiếm vương Nhạc được cử tới đánh ông [Bắc Vương] để trả thù việc ông làm cho anh ông mất thể diện [hồi năm] 1787 [không rõ Nguyễn Nhạc đã làm gì để Nguyễn Huệ mất thể diện?], ông chỉ nghỉ tới cuộc chinh phạt Bắc Hà dự định vào tháng 4. Lúc đó vua Chiêu Thống cùng với Đốc Chiên nhờ một chiến thuật đặc biệt, vừa mới phá tan một đội quân lớn của địch. Nghe tin Bắc Vương sắp ra. Đốc Chiên vội bỏ dinh sở cũ để lên thuyền trốn ra biển [biển ở đây là phía Thái Bình, Nam Định…thuộc trấn Sơn Nam]. Mãi ngày hôm sau, 30 tháng 4, tin Đốc Chiên bỏ trốn [không rõ duyên cớ đính xác] mới đến tai tôi. Nhưng khi tới bờ biển, Đốc Chiên không có thì giờ thả neo để tìm kiếm lương thực tại vùng lân cận, thì một trận cuồng phong ngược chiều nổi lên làm phân tán hạm đội của ông. Vì vậy thủy quân ông rơi vào tay địch và ông bị bắt vào đầu tháng 5. Còn vua Chiêu Thống khó khăn lắm mới thoát nạn được, bằng cách băng qua rừng núi. Hiện giờ, người ta vẫn không biết đích xác vị hoàng đế này ra sao. Dân Bắc Hà không quên nhận xét [như một việc đáng lưu ý] rằng sự liên-kết giữa vua và Đốc Chiên cũng là sự mở đầu tai ương vận hạn của vị tướng từ trước tới giờ có tiếng là tốt số.

Trong khi đó Bắc Vương tiến rất mau, cầm đầu một đại binh cùng đoàn hộ giá gồm 150 con voi,100 người nằm võng, rất nhiều kiệu sơn vàng lộng lẫy [một cái dành cho Bắc Vương, và một cái cho công chúa [Ngọc] Hân, cô của Chiêu Thống và vợ cả của ông] [thực ra thì tác giả nhầm lẫn, vì Ngọc Hân đúng là cô ruột của vua Chiêu Thống nhưng không phải vợ cả của Nguyễn Huệ].

Ngày 2 tháng 5 [1788], tôi hay tin Bắc Vương chỉ còn cách chỗ tôi ở có một ngày đường. Ngày mồng 7, tôi được biết ông đã vào kinh thành sáng mồng 4 nhưng không lộ vẻ vui tươi gì. Có người nói rằng quan Tiết chế có ra đón ông tại một địa điểm cách xa Kinh đô nhưng thật ra là với ý định chặn đường và tấn công ông; nhưng khi thấy ông được bảo vệ kỹ lưỡng quá, nên Tiết chế giả vờ vui vẻ như không hề có tình ý gì. Dù sao Bắc Vương vẫn cho người bắt ông tức khắc. Sáng hôm sau, mồng 5 tháng 5 [1788], ông bị trói dẫn ra pháp trường và bị bắt quì ở đó cho công chúng xem, phơi mình dưới nắng gay gắt của mặt trời. ngày hôm sau ông bị xử trảm. Đó là vận số xứng đáng cho một kẻ khát máu đã từng gieo tang tóc cho tổ quốc nói chung và Bắc Hà nói riêng.

Theo một lá thư của ông La Mothe [Charles La Mothe (1751-1816). Giáo sĩ sang Bắc Hà năm 1782, năm 1793, phụ tá cho giám mục Longer ở địa phận Kẻ Vinh (Nam Định)] thì một người phu khiêng kiệu của các chúa Bắc Hà [người phu khiêng kiệu của chúa Trịnh] đã bị đâm chết bằng một ngọn giáo theo lệnh Tiết chế [không cần phải qua một thủ tục nào cả] ở ngay trong dinh của ông 4 ngày trước khi ông bị xử trảm.

Ngày 10 tháng 5 [1788], một ngày trước lễ Thánh Linh giáng lâm, một vị quan tư lệnh Bắc Hà tên là Lê Thai [có lẽ là Nguyễn Như Thái? Khi Vũ Văn Nhậm mang quân ra Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh có tâu với vua Lê cho Nguyễn Như Thái làm Thống lĩnh quân ra Bắc Hà để chống với Tây Sơn] và anh [hay em] rể của Hữu Chỉnh bị quân Tiết chế bắt từ trước và bị giam giữ tại Hoàng thành, cũng bị Bắc Vương ra lệnh xử trảm, lúc còn sống, họ đã từng muốn có ý định trở thành người Công giáo, nhưng vì họ bị bắt và xử chém nên ý định rửa tội hai người nay bất thành.

Tuy Bắc Vương ra Bắc để lật đổ [nhà Trịnh] Tiết chế và để giữ chắc công cuộc cai trị vương quốc được phó thác cho ông nhưng ông sợ vị Thái tử hợp pháp của Nam Hà [Nguyễn Ánh] trở về nay mai và xâm chiếm bất thình lình. Ông phải lập tức lên đường vào Nam với những binh lính mới mộ được tại Bắc Hà để bố trí phòng-thủ và kháng cự lại. “Tân Attila” đó chẳng bao giờ chịu ngồi không tại kinh đô.

Ngày 11 tháng năm 5 [1788], ông đến cung điện vua Chiêu Thống, hình như để chiếm hữu ngai vàng. Song, ông thận-trọng không dám công khai tự xưng là vua Bắc Hà và đành lòng đặt sự cai trị vương quốc trong tay với 4, 5 vị quan Nam Hà hay Tây Sơn: vị quan thứ nhất là Đại Tư Đồ [tức Võ Văn Nhậm, khó hiểu là vì sao con rể của Nguyễn Nhạc lại được Nguyễn Huệ trọng dụng?]cháu rể ông và rể tiếm vương Nhạc ; vị quan thứ hai là Đại Tư Mã [tức Ngô Văn Sở], Thái sư phó ông [mà tôi đã có nói tới] nổi tiếng là dũng cảm và thông minh trong việc điều khiển mọi công viêc [nhiều người trong đó có ông Serard (Serard Philippe ,1738-1804. Giáo sĩ sang Bắc Hà năm 1762, sống ở Kẻ Vinh) tin là vị này theo Công giáo].

Ngày 15 tháng 5 [1788], Bắc Vương– từ ít lâu nay ông chỉ tự nhận là Đức lệnh [tiếng Việt cổ, chỉ người được trọng vọng, có chức vụ cao], nghĩa là vị Hoàng [đế] lập pháp – công bố một sắc lệnh mà nội dung là:

1.Năm 1786, ông có ra cứu Bắc Hà và tôn vương Chiêu Thống khỏi áp-bức của vị Hoàng họ Trịnh định tiếm vị vua dưới cái tên Chúa.

2.Ông đã giao cho Hữu Chỉnh nhiệm vụ trông nom đất nước nhưng vị quan này không làm tròn nhiệm vụ đó vì thế ông phải phái Tiết chế ra triệt hạ và lật đổ Hữu Chỉnh, nhưng cuối cùng trái với sự mong đợi của ông, Tiết chế lại lạm-dụng quyền hành để quấy nhiễu, hà hiếp dân chúng nên nhà vua [Bắc Vương] phải đích thân đến tận nơi để tái lập trật tự.

Sau vài dòng vào đề như trên, ông tiếp rằng: 4 ngày trước, nghĩa là ngày 11 tháng 5 [1788], các quan văn võ tới yết kiến ông có hảo ý đệ đơn xin tha cho hoàng tộc Lê và tôn thất chúa Trịnh. Đoạn ngỏ lời với dân Bắc Hà, ông hỏi họ thích sống dưới chế độ nào: bị một ông Hoàng [mang] huyết thống nhà Lê cai trị [ông giả vờ không nhắc đến tên Chiêu Thống] hay khẩn cầu ông ở lại điều khiển quốc gia để được hưởng một sự thái bình hoàn toàn và vĩnh cửu, dưới sự bảo-hộ, giúp đỡ của ông. Ông kết thúc sắc lệnh đó bằng cách yêu cầu mọi người dân [không phân-biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị] cho biết ý định của họ về việc này.

Cùng lúc ấy, một sắc dụ khác của Bắc Vương công kích vua Chiêu Thống được ban hành. Nội dung của nó là:

1. Vua Chiêu Thống là một kẻ vô ơn bạc nghĩa, phản-bội sự trợ giúp của Bắc Vương.

2. Vị Hoàng đế đó là một gánh nặng cho quân đội và thần dân của ông. Ông đã không ngừng sách nhiễu họ đủ kiểu đến nỗi họ phải buộc lòng rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để tản mát khắp nơi.

3. Chiêu Thống đã phạm trong tội gian dâm và loạn luân ghê tởm với em gái ông và sát nhân vì ông đã cho giết một cách dã man cùng một lúc 3 người chú [bác hay cậu] ông và 1 người vợ của Cảnh Hưng, tổ phụ của ông [tuy nhiên Bắt Vương không trưng ra bằng chứng].Với những hành động bẩn thỉu và kinh tởm đó, ông không đáng sống chút nào vì thế Bắc Vương cho hay rằng bất cứ ai bắt sống Chiêu Thống, mẹ và em trai ông ta [em ruột vua Chiêu Thống, Hoàng đệ Lê Duy Chỉ] nộp cho chính quyền sở tại sẽ được tặng thưởng xứng đáng, nơi cư trú sẽ được miễn [suốt đời] khỏi phải trả các thứ thuế, phụ thu và không phải làm sưu dịch ; ngược lại nếu ai biết chỗ ẩn nấu của Chiêu Thống mà không báo ngay hay dám chứa chấp ông ta, nếu nhà cầm quyền mà biết được, sẽ bị xử tử tức thì không ân giảm, làng hoặc nơi trú ngụ sẽ bị phá hủy hoàn toàn và biến thành tro.

Trong khi chờ đợi, vì Bắc Vương sắp phải lên đường vào Nam, ông nhất định cho phá hủy kinh đô Bắc Hà, gọi là Kẻ Cho [Kẻ Chợ, tên lúc ấy của kinh thành Thăng Long], Kinh đô và Kinh kỳ và xây lại tại xứ Nghệ An một Hoàng thành mới [tức là Phượng Hoàng Trung Đô tại Nghệ An] gần quốc gia nhỏ bé của ông [Phú Xuân] và gần Nam Hà thượng, ở khoảng giữa hai vương quốc. Ông liền tức tốc cho thực hiện kế hoạch này.

Trước hết ông cho phá tất cả các biệt thự của các Chúa [Trịnh] cũ và của những người trong gia tộc, các quan lại Phủ Liêu của nhà Trịnh ở trong Hoàng thành và cho chất lên thuyền những vật liệu, đồ đạc quí nhất và tài sản cùng với một số lớn gạo thu nhặt được để mang tới chỗ được chỉ định là nơi xây cất thành phố tương lai gọi là Phủ Thạch hay Thành Rum. Ông cũng không bỏ sót các dinh thự của vua Chiêu Thống và cung điện của các nhà vua nhà Lê [ông cho phá tan hết]. Ông cho lấy đi tất cả những thứ ông thích, ngay cả đá lát nữa [theo lời đồn]. Nhưng, như thế vẫn chưa làm ông thỏa-mãn. Tôi nhận được nhiều lá thư và được nhiều người cho biết rằng vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6, Bắc Vương nghĩ và kiếm đủ cách tịch thu tiền những kẻ giàu có. Ông lợi dụng một vị quan Trung Hoa tên là Thiẽm Bảy [không rõ có phải là Thiêm Bảy?], con rể vua Cảnh Hưng như ông tức là anh [hay em] cột chèo bằng cách bảo vị này kê-khai những tên đại thương gia giàu có và những tư nhân có nhiều tiền để ông xua lính vào cướp. Cuối cùng ông kiếm chuyện với tên đồng lõa đê tiện này [tức vị quan Trung Quốc]. Ông cho tra tấn thật dã man tên đó cùng với vợ hắn để ép chúng làm tờ kê khai đích xác của cải của chúng. Ông đã thành công trong việc chiếm đoạt tài sản kếch xù của chúng. [cho thấy Nguyễn Huệ rất thâm hiểm, qua cầu rút ván ngay, và chi tiết cũng hay là vua Lê Hiển Tông có cả con rể người Trung Quốc]

Mấy lá thư đó còn cho tôi biết rằng:

1.Người ta không biết gì hơn nữa về các phản ứng của vị Bắc Vương đang phẫn nộ vì sự thất bại của đội quân do ông phái đi dẹp các loạn quân Bắc Hà còn lại và dân cư miền thượng.

2. Bà góa phụ Cảnh Hưng, mẹ vợ ông có lần xin ông tha cho các vị quan Bắc Hà, đặc biệt là cho Đốc Chiên. Người ta đồn rằng bà có cho Đốc Chiên 100 thoi [hay đỉnh] vàng để ông ta dùng vào việc mua chuộc các quan lại, bảo tồn cái đầu ông. Nhưng vì sợ hãi trước sự phẫn nộ của con rể bà, bà đã bỏ trốn. Bắc Vương lập tức cho tịch thu đồ đạc và tài sản của bà Công chúa Bắc Hà [tức là bà Ngọc Hân] vợ ông bị đánh 20 roi theo lệnh ông. Hình như bà này đã oán trách chồng bà vì sự ngược đãi đối với mẹ bà.

3.Khi mẹ vợ ông bị điệu về triều đình, ông đã trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiên. Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiên để chạy tội phải vào tay ông. Ông còn cho lấy cung của Đốc Chiên, vị tướng đáng thương này đã bị đóng gông gần một tháng nay. Rồi ông cho đánh vị tướng này 40 trượng vì tội từ chối, không chịu khai chỗ vua Chiêu Thống lẩn trốn. Cuối cùng, ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6 [1788].

4. Ông vừa mới cho giết em ruột vua Chiêu Thống; bị bắt khi đánh nhau với quân Tây Sơn.

5. Ông còn giữ tại Hoàng thành tất cả các văn võ đại thần Bắc Hà, không cho phép họ ra khỏi thành bất cứ vì lý do gì. Người ta không biết số mệnh của họ rồi đây sẽ ra sao.

6. Ông cho tuyển chọn rất nhiều thợ và nghệ nhân đủ loại để mang họ theo ông. Ông dùng họ vào việc xây cất tân kinh thành. Ông bắt mỗi hiệp đoàn thợ, nghệ nhân phải cấp cho ông ít nhất 15 người.

7. Ông mới ra lệnh mộ một đội quân 240.000 người gồm toàn lính cũ thuộc cựu quân đội vương quốc, và nhiều dân quân mới. Trong thời gian 5 ngày, mọi khu vực phải cấp đầy đủ số lính mới. Số lính được tuyển mộ vượt hẳn nhu cầu chiến tranh của Bắc Hà và gần gấp đôi số mà chính quyền trước có lệ tuyển và duy trì.

8. Lại có lệnh mới bắt nộp ngay lập tức và cùng một lúc các thứ thuế được trả làm hai kỳ trước kia, các thứ thuế gạo tháng 2 và tháng 10, tất cả các thuế má khác chưa được trả đầy đủ; không ai được than phiền hay bày tỏ ý kiến về việc đó. Các xã trưởng và phú hộ [hào mục] nào không tuân lệnh ngay sẽ bị đánh 100 trượng hoặc sẽ bị xử tử tùy theo họ phạm trọng tội hay nhẹ tội.

Đó là đại khái kết quả của những cuộc hành quân và cách xử lý của Bắc Vương trong thời gian ngắn ông lưu lại tại thủ đô Bắc Hà. Ông rời nơi này sau ngày lễ thánh Jean [Lễ thánh Jean Baptiste, tức ngày 24 tháng 6 năm 1788] để về Phú Xuân chặn đường vị vua hợp pháp đang tìm cách chiếm lại đất đai của ông [Nguyễn Ánh]. Ông hấp tấp đến nỗi ông chỉ ghé ở một ngày tại nơi được chỉ định xây thành phố mới. Theo thư của ông Breton nhận được hồi cuối tháng 7, cuộc hành trình gian khổ ấy cộng với cái thời tiết nóng bức quá độ đã làm nhiều binh lính, ngựa và voi phải bỏ mạng giữa đường. Từ ngày ông ấy trở vào Nam Hà, chúng tôi không nhận được tin tức nào về việc làm và sức khỏe của ông ấy [Bắc Vương] … (tác giả nói về tình trạng hiện tại) …

Hiện thời, cả Bắc Hà đều trong tình trạng chiến tranh, đâu đâu cũng thấy khí giới. Chỗ nào cũng có bè đảng. Tuy chúng không chịu kết-hợp với nhau nhưng chúng cũng chẳng ghét quân Tây Sơn lắm. Thành thử quân Tây Sơn, tuy ít ỏi, lợi dụng được sựu chia-rẽ và bất hợp tác của chúng để tiêu diệt chúng dần dần nhờ khí giới của những người dân Bắc Hà bị họ bắt làm lính đi theo họ [quân Tây Sơn]. Họ dùng những người dân Bắc Hà này làm mộc và đắp thành lũy. Từ ít lâu nay, người ta đếm được khoảng 5 hay 6 đối thủ tranh vương vị Bắc Hà. Đầu tháng 4, tôi nhận được một đại chứng thư của một trong những tên giang hồ, tự nhận là con cháu một vương gia cũ họ Lý và là người kế vị chính thống [của nhà Lý?] của ngôi vua. Hắn ta dùng những lời lẽ bay bướm nhưng mập mờ đại để khuyến cáo tôi tán trợ phe hắn. Hắn hứa sẽ dành nhiều đặc-quyền cho tôn giáo mà tôi đang truyền-bá, nếu thành-công. Thư đó không đề năm thứ hai Chiêu Thống mà lại đề ngày thứ nhất xuân Mậu Thân, năm mặt trời chu chuyển [tức là năm 1778]. Ai cũng biết rằng tôi không bao giờ trả lời một lá thư như thế.

Ngày 13 tháng 8 [1788], tôi nhận được một lá thư của ông Serard đề ngày 10, cho biết rằng một thủ lĩnh một đảng nọ ở Bắc Hà vừa mới tuyên bố: là con cháu một vị đại thần tên là Trạng Trình [tức cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm] người đã từng nâng vào hàng chất phẩm cao nhất tức là chức Tể tướng vương quốc. Hắn lại còn khoe khoang là được chỉ định làm vua theo một lời sấm truyền mà hắn bảo lấy trong cuốn Sam ki [tức là cuốn Sấm Ký của cụ Trạng]. Cuốn này được khắc lên đá và viết bởi vị sĩ phu trên [Trạng Trình]. Vị sĩ phu này được dân Bắc Hà coi là Nostradamus [tiếng Pháp Michel de Nostredame nhà chiêm tinh và bác sĩ ở Saint Resmy, 1503 -1560, tác giả cuốn Centuries, Les Propheties, một bộ sưu tập những lời tiên đoán của ông được xuất bản năm 1555. Quyển sách là một tập hợp những bài đoản thi gồm 4 câu thơ tứ tuyệt, mỗi nhóm 100 câu nói về một thế kỷ; những lời lẽ trong quyển sấm ký này mơ hồ, khó hiểu, chúng miêu tả những biến cố được tiên kiến sẽ xảy đến cho thế giới từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày tận thế, theo dự kiến là vào năm 3797 CN. Nhiều người đã luận giải những lời sấm truyền trong đó và liên hệ với các sự kiện đã xảy ra từ thời Nostradamus đến nay và tiên liệu những biến động có thể sẽ xảy đến cho nhân loại] của họ.

Trong cuốn nhật ký này, tôi chưa nói tới các hoạn quan Bắc Hà vì khi tôi bắt đầu viết cuốn này tôi chưa biết rõ đời sống của họ. Giờ đây, tôi chép lại bài trần thuật mà tôi vừa mới nhận được ngày 9 tháng 11 [1788]. Tác giả của bài viết này là một vị linh mục tự nhận là người được tận mắt chứng kiến nhiều sự việc ly kỳ nhất. Ông ta viết bài này theo lời dặn của tôi. Đây là bản dịch sát nghĩa của bài đó [người viết là 1 linh mục người Việt, cho nên tác giả dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp]:

-Thưa đức ông, tôi lấy làm hân hạnh được dâng lên đức ông bài trần thuật này kèm với tất cả sự kính-cẩn của tôi. Trước hết, tôi xin nói về những việc làm của ông hoàng lập pháp Đức lệnh hay Bắc Vương, sau khi tới thủ đô Bắc Hà. Khi vừa mới nhập thành, ngài lập tức ra chỉ-thị cho các văn võ đại thần và các hoạn quan của cựu quốc vương Bắc Hà, gọi là Vua hay Đức thống trị, và của người nắm hết quyền hành lúc bấy giờ là Chúa, phải tuân theo ý ngài, đến yết kiến [ra mắt] ngài ngay, không được chậm trễ, để bày tỏ lòng tôn-kính ngài. Ai nấy đều tin chắc rằng Bắc Vương ra Bắc Hà là để chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi. Song phần lớn các quan văn võ không vội tuân-lệnh đó và chỉ có thiểu số quan lại đến ra mắt Bắc Vương. Những người ra trình-diện đều bị bắt ngay lập tức. Họ phải trả một số tiền chuộc ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy tội. Còn nếu không có tiền chuộc họ sẽ bị xử tử. Phần đông các vị quan bỏ trốn không chịu giáp mặt Bắc Vương. Phẫn nộ trước các hành động khinh thị ý ngài, Bắc Vương liền cho bắt họ lại và ra lệnh tịch thu tài sản của họ. Còn các hoạn quan, binh lính ở tại triều đình vì vậy rất chóng giàu có [và ngày một giàu hơn]. Ngài ra lệnh bắt họ lại, gây áp lực mạnh và canh chừng nghiêm ngặt để họ chịu nộp cho chính quyền vàng bạc lụa là của họ. Ngược lại, nếu họ cứ cứng đầu mãi, thì họ sẽ bị giết. Những kẻ giàu có vì muốn bảo đảm an ninh cho đời sống và gia đình họ nên chấp nhận trả cho chính quyền một số tiền lớn. Những người này, nhờ cách đó mà hưởng một đời sống khá dễ chịu. Nhưng họ sợ ngài lại làm khó dễ một lần nữa, nên bỏ trốn rất xa nơi trú ngụ của họ. Các hoạn quan [tại Hoàng thành] vì nghèo mà không thể nộp tiền cho nhà cầm quyền, đều bị trói tay sau lưng và đeo ở cổ một đồng tiền. Họ gồm 2 hoặc 300 người bị dẫn độ về Phú Xuân [tại Nam Hà thượng] trong tình trạng đó. Nếu bỏ trốn mà bị bắt lại, họ sẽ bị xử tử liền tại chỗ. Đó là trường hợp một hoạn quan đã bỏ trốn từ hai ngày nay. Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng ông phải đem nộp ông ta ngay nếu không cả làng sẽ bị trừng phạt. Dân làng buộc lòng phải tuân lệnh và vị quan khốn nạn lại rơi vào tay của quân Tây Sơn. Chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường… một hoạn quan khác trốn đi đã được một ngày thì chúng hay tin và cho người đuổi theo. Nhưng vì ông không dám về nhà, chúng bắt dân làng phải nộp cho chúng người anh [hoặc em] của ông nếu họ không muốn cả làng họ bị phá hủy. Rồi chúng mang người anh [em] đó theo các tù binh khác. Nhưng tới một quãng đường thấy không có cách nào bắt ông này công khai cả nên chúng đành thả ông ra. Quân Tây Sơn chỉ muốn moi tiền của các tù binh thôi nên gia đình bà con họ đến đón đường xin chuộc cho họ chúng chịu liền, [nếu họ nhận điều kiện của chúng]. Thật là một cảnh tượng đau lòng khi thấy cha mẹ, anh em, vợ con [hoạn quan làm gì có vợ con?] và họ hàng các hoạn quan vượt mấy dặm đường đi theo họ từ Kinh đô tới một làng xa xôi hẻo lánh, vừa khóc vừa rên rỉ như đi đưa đám, rồi nhìn lại và nghe họ từ biệt nhau bằng những lời lẽ thật thắm thiết và cuối cùng chứng kiến cảnh quân Tây Sơn thúc giục những nạn nhân bạc mệnh và khốn nạn của họ lên đường. Đó là việc mà tôi đã chứng kiến tận mắt”.


Ký tên Thomas Diên

Linh mục người Bắc Hà.

Nhưng vì loại người đó [hoạn quan] rất khả ố và đáng khinh đối với nông dân Bắc Hà, dân chúng không chú mấy tới sự thất sủng của họ, và vì phần đông họ thù ghét Thiên Chúa giáo, nên đạo này chẳng tổn hại gì khi họ chết cả
.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của linh mục Longer, Ngày 3 tháng 5 năm 1787.

Tôi vẫn còn sống; nhưng chúng tôi chỉ toàn nghe tin tức về cái chết. Tôi vừa được biết rằng người Nam Hà ở các tỉnh phía bắc được đặt trong đội quân tiên phong của [viên chỉ huy] quân khởi nghĩa trẻ tuổi [Nguyễn Huệ]. Mặc dù anh trai [Nguyễn Nhạc] của anh ta đã đẩy lùi anh ta 3 lần, nhưng vẫn chưa rõ bên bao vây hay bên bị bao vây sẽ chiếm thế thượng phong. Nếu cuộc vây hãm kéo dài, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ không biết đường lui. Một mệnh lệnh mới được thực hiện để đưa các chàng trai trẻ đủ 15 tuổi phải nhập ngũ. Những gì còn sót lại của hoàng tộc Nam Hà [các chúa Nguyễn] vẫn biệt tăm. Có tin đồn rằng người Anh sẽ đưa con trai Ong Chung [Ông Chủng, tức Nguyễn Ánh, ở đây nói về con trai Nguyễn Ánh tức là Hoàng tử Cảnh] người thừa kế được cho là lên ngôi, vào năm nay. Cha ông, một người tị nạn ở Xiêm La, họ nói, sắp dẫn quân về phía Qui-nhơn.

Người ta nói thêm rằng Vua của những kẻ phản loạn [Nguyễn Nhạc], bị ép buộc quá mức bởi em trai của mình [Nguyễn Huệ], đã phế truất [ngôi vị của] ông Chủng để nhường ngôi [này] cho em anh ta. Điều chắc chắn là từ năm ngoái đã có những chiến thuyền dạt vào bờ cõi Nam Hà, thậm chí đã giao chiến với một số thuyền [của quân] phản loạn. Chúng tôi nghe rõ ràng những tiếng súng đại bác dường như phát ra từ phía biển, [ trận đánh giữa quân Trịnh và quân Tây Sơn] 1 chiếc thuyền chiến [Tây Sơn] bị bắn thủng và chìm, dù sao thì chúng tôi cũng rất khó chịu vê phần xác.

Linh mục Longer

Xin thứ lỗi cho văn phong hơi lộn xộn của tôi, thực sự tôi đang viết thư cho ông để đề phòng [điều bất trắc], vì rất có thể thư này sẽ không đến được tay ông.


[Lưu trữ M-E, 746, p.197-200]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Doussain gửi ông Blandin, ngày 16 tháng 6 năm 1788

.... Tất cả những người theo đạo Cơ đốc của chúng tôi đã rời đi Đàng Ngoài; chỉ còn lại những ông già bà cả. Trong phần triều đình trước đây thuộc quyền cai quản của người Bắc Hà, nay chỉ còn hai viên quan để bắt cống nạp và canh chừng không một ai bỏ trốn. Đi lại rất khó khăn: ai không có thẻ [để nguyên văn] sẽ bị bắt và bỏ tù. Mỗi làng bắt buộc phải làm hai ba ngôi nhà để kiểm soát người qua đường; bằng cách này, họ đã bắt được tất cả những người nào đang trong độ tuổi tuận suất [tuổi đi lính].

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn có thể thi hành Thánh chức một cách thầm lặng, vì sợ bị lộ ra quá nhiều. Một số nhà thờ đã được tái lập trong năm nay ở huyện của tôi, và cảm ơn Chúa vì có một vị quan khá giỏi trong tỉnh này. Tôi sẽ không báo với ông một hành động công lý có lợi cho một tu viện ở Dinh-cát của Nhà vua và các quan của ông: Đức ông sẽ không đề cập đến nó [Trong một bức thư tương tự gửi cho ông Desourvières, ở Paris, ngày 8 tháng 7 năm 1787, có nói, liên quan đến tu viện này của các nữ tu An Nam: “Chúng tôi gần như đã mất tất cả các nhà thờ của mình; ở quận của tôi, họ đã phá hủy 11 ngôi nhà trong số đó, và hai ngôi nhà của tu viện, ngôi nhà thứ ba của ngôi nhà chính, và trong số những nhà thờ này, họ biến chúng thành nhà ở cho binh lính; các ngôi đền cũng bị phá hủy và các thần tượng bị dỡ bỏ để nấu chảy súng thần công, nồi…” [Archives M-E, 746,p. 206].

Ông Longer thường xuyên lo lắng và thường xuyên phải bỏ trốn vì bị buộc tội cho những thnh niên khỏe mạnh cải trang để trốn lính.


[Văn khố M-E, 766, p. 227.]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Eyet gửi ông Letondal ngày 15 tháng 1 năm 1788

... Chúng tôi hay tin quân phiến loạn Nam Hà đã chiếm được hai trấn Bắc Hà; quân chúng do người em nhỏ nhất của Tây Sơn cầm đầu sắp chạm trán với quân Bắc Hà [quân nhà Lê]. Người ta đồn rằng trong quân đội [Tây Sơn] này có hơn 10.000 lính Bắc Hà. Tôi nghe đồn, nhưng không chắc chắn vì không hiểu rõ, rằng quân đội của phe phiến loạn gồm tới 40.000 lính Bắc Hà; điều này đúng hay không tôi không đám quả quyết. Người ta còn nói thêm rằng quân đội của phe phản loạn gồm hầu hết là người Bắc Hà, Những tin trên có chắc không? Chỉ có việc hai trấn Bắc Hà bị chiếm là chắc chắ
n...
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của đức ông La Bartette gửi cho …?

… Một người mới từ “Phan Thít” [Phan Thiết] gần vùng Đồng Nai tới đây nói với chúng tôi rằng nhiều bạn lái buôn của ông mới từ Đồng Nai về quả quyết với ông rằng quan đội ông Chủng [ Nguyễn Ánh] đang đánh nhau ác liệt với ông đốc Sâm [viên trấn thủ Đồng Nai của Tây Sơn, trấn giữ thành Gia Định là quan Thái Bảo Phạm Văn Tham, người Tây phương đọc là Sâm?], người được giặt bổ làm trấn thủ Đồng Nai, đã bao vây ông này ([Sâm] cùng đội ngũ ông, thành thử quân Tây Sơn chỉ còn một khu đất nhỏ chung quanh cửa Cần Giờ. Tin đó có thật hay không? Chúng tôi không biết tính sao vì có nhiều tin đồn quá làm chúng tôi không biết vịn vào đâu. Tôi tin một điều là quân đội “chúa Nguyễn” hiện đang ở Đồng Nai vì ai cũng nói như vậy. Ngoài ra 3, 400 chiến thuyền do tân vương [Nguyễn Huệ] gửi vào Đồng Nai từ 2 tháng nay để chở gạo vào Phú Xuân vẫn chưa về; như thế là họ đã gặp trở ngại. Vả lại nếu “ông Chủng” ở đó, quân của ông không biết đề phòng gián điệp kỹ lưỡng lắm. Chắc chắn Đốc Sâm đã kiếm được cách phái một chiếc thuyền mang tin chiến tranh với chúa Nguyễn cho tân vương lúc bấy giờ đang ở Bắc Hà. Ông này liền bỏ xứ Nam để cấp tốc về Phú Xuân. Đường đi thường phải mất 20 ngày mà ông chỉ cần 10 ngày thôi cho nên một số binh lính của ông, vì không theo kịp bị chết ở dọc đường. Ông đã cho triệu tập tất cả binh lính lại tại Phú Xuân. Chắc ông đã thu được nhiều lương thực tại Bắc Hà, nếu ông không thể nuôi quân đội được vì thực phẩm mà ông trông đợi từ Đồng Nai chưa về tới nới. Hiện nay, ở Phú Xuân, vận chuyển dữ lắm. Người ta tin rằng quân đội ông sắp vào Quảng nhưng không biết để đánh nhau với Nhạc hay để tiến vào Đồng Nai. Chắc ông trù định cả hai việc vì sợ lâu ngày quân đội chúa Nguyễn sẽ tăng cường nhưng ông cũng phải ra Qui phủ kết liễu cuộc tranh chấp giữa ông và anh ông. Vả lại, quân đội sẽ không tới Đồng Nai được trừ phi hạ bệ được anh ông. Nếu quân đội chúa Nguyễn ra đây khi tân vương còn ở Bắc Hà thì bây giờ mọi việc đã xong xuôi vì nếu tân vương muốn trở về Nam Hà, ông sẽ bị chặn ở Luỹ Sậy, vả lại tất cả dân Bắc Hà sẽ nổi loạn vì họ đều chán ghét ông [Nguyễn Huệ] trong thâm tâm họ và chỉ mong chúa Nguyễn ra thôi… Cuộc chinh phạt Bắc Hà lần trước đã làm chết rất nhiều người [vì đói, vì mệt, vì bệnh hay vì gươm giáo]. Giả thử ông Chủng muốn đợi, ông ấy phải củng cố lực lượng của ông tại Đồng Nai hay nơi khác để ngăn sự tấn công và sức gắng của địch.

Từ khi Tân vương về Phú Xuân, ông ấy bận phòng ngự: ông đã cho xây cất 1 bức tường cao 20 piê [thước] chung quanh dinh ông. Hình như ông gấp lắm; ông bắt mọi người làm việc sáng đêm không nghỉ. Người ta nói rằng ông cho đặt súng đại bác chung quanh. Người ta còn nói, ông sắp xây tường hai bên sông chảy qua Phú Xuân và đặt súng đại bác ở đó. Người ta tin rằng ông làm như vậy vì ông sợ thuỷ quân [địch]. Chính tại thành này ông đã cất số vàng bạc kiếm được ở Bắc Hà.

Ngoài ra, Tân vương tỏ vẻ khinh thường khi có người nhắc tới chiến tranh giữa ông và ông Chủng hay Nhạc, anh ông. Không những nhạo báng mà thôi, ông còn dùng nhiều từ “sỗ sàng”: Ông sẽ phải trả thái độ đó bằng một giá rất đắt vì có nhiều người dũng cảm của ông mà vẫn bị sa bẫy.

Vào khoảng tháng 2 năm nay, ông Chưởng Nhậm hay ông Tiết chế đến xứ Nam với một đội quân độ 40.000 người. Thấy vậy vua Chiêu Thống chạy trốn với Cống Chỉnh. Ông này bị quân Tây Sơn bắt và bị chặt đầu. Họ không bắt được vua. Chắc ông đã trốn sang lục địa Trung Hoa. Trong khi ấy, quân Bắc Hà họp lại khá đông và giao chiến khá lâu với quân Tây Sơn, nhưng họ không làm ra trò trống gì. Ông Tiết Chế luôn luôn thắng. Tuy vậy ông không hưởng hiệu quả của cuộc chiến thắng của ông được lâu vì “ông Đốc Ba” [ đô đốc Phan Văn Lân] buộc ông vào tội muốn tranh ngôi với chúa [Nguyễn Huệ] nên chúa lập tức ra Bắc ra lệnh xử trảm ông cùng nhiều lãnh tụ đảng ông. Cuối cùng “Đức Chúa” đã được tôn làm vua Bắc Hà hôm 25 tháng 4 [Âm lị
ch].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Breton gửi cho….?



Tôi phái đến ông một người đã từng ở Hội Thung???, bên cạnh Trong Xảnh??? [người dịch chưa rõ vị trí của những địa danh này]. Đó là hai làng ở trên bờ sông lớn. Thuyền buồm Trung Hoa thường qua sông ấy để tới xứ này. Cửa biển vùng này gọi là cửa Hội… [Tình hình có lợi cho chúa Nguyễn; hai anh em Tây Sơn bất hoà; Nguyễn Huệ yếu vì không có tướng phụ tá; Bắc Hà cũng yếu và chỉ có vài quân Nam Hà canh giữ thôi] …

Hiện ai cũng ngạc nhiên khi thấy dân Bắc Hà bị điều khiển như đàn cừu bởi có một, hai tên Nam Hà phóng đãng xuất hiện thân từ bọn hạ dân và chỉ thăng quan từ hồi ra Bắc.

Tiếm vương Phú Xuân sắp cho tịch thu các tàu bè ở xứ Nghệ và xứ Thanh và mang rất nhiều đội ngũ đi đánh quân nhà vua [Nguyễn Ánh] tại Đồng Nai khi gió thuận, nghĩa là sau ngày Thánh Michel [ngày 29 tháng 9]. Họ đã làm bản kê các tàu bè rồi… [ chúa Nguyễn đang đợi viện trợ của Pháp quốc] …

… Các Giáo sĩ nói rằng vua Bắc Hà đã trốn thoát. Họ không biết vị hoàng đế ấy hiện ẩn náu ở nơi đâu. Từ nhiều tháng nay, có tin đồn ở Áo Môn [Macao] và Quảng Châu [Canton] rằng ông đã tị nạn tại Trung Hoa và nhân danh chư hầu Hoàng đế, ông có xin Hoàng đế gửi viện binh sang đánh kẻ thù của ông. Tin ấy đã được nhật báo Bắc Kinh xác nhận. Theo thư từ Quảng Châu gửi cho tôi, báo đó nói rằng vị phế vua đó có xin viện binh Trung Hoa và Hoàng đế đã nhận lời. Thư từ Bắc Kinh gửi tới tôi từ vài ngày nay làm tin đó thêm xác thực. Thư đó cho biết rằng vua Bắc Hà hiện ẩn náu tại một tỉnh Trung Hoa cùng với gia đình ông; ông có cầu cứu Hoàng đế và Hoàng đế đã chấp thuận; ngài đã tiếp ông xứng với chức vị ông… [quân đội Trung Hoa đang sửa soạn để sang Bắc Hà].

…Chắc chắn đội ngũ quân [Trung Hoa] đã rời Quảng Châu từ một tháng nay và người ta hay tin họ đã tới Quảng Tây. Quân Trung Hoa được biết rằng tên giặc [Nguyễn Huệ] đã khoe khoang sẽ tới giao chiến với họ và chiếm một phần đế quốc họ. Đức ông Veren viết rằng ông ta có khoe như vậy thật…

…Ngoài tội lấn quyền hiển nhiên mà ông mới phạm bằng cách cướp một chư hầu của đế quốc, quân Trung Hoa còn tức ông vì ông quấy nhiễu lái buôn Trung Hoa. Năm 1788 [tức là năm nay], ông đã tịch thu thuyền bè của họ ở Bắc Hà để chở chiến lợi phẩm của ông vào Nam Hà. Những năm trước, ông đã bắt giết nhiều thương nhâ
n Trung Hoa.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của Đức ông Veren gởi…ngày 30 tháng 6 năm 1788

Chiến tranh bùng nổ tháng 1 [Âm lịch] năm ngoái giữa hai anh em Nhạc và ông Tám [Nguyễn Huệ] và chấm dứt vào tháng 5 [Âm lịch]. Một phần lớn dân Huế tử trận, sau đó hai anh em chia tay nhau, Nhạc ở lại phủ ông ở Qui Nhơn còn em ông về Phú Xuân… Hình như ông Tám cai trị, từ xứ Chăm ra Bắc Hà và anh ông từ Quảng Ngãi tới Ðồng Nai. Từ đó, Nhạc đã đặt vệ binh tại Quảng Ngãi ở bờ cõi xứ Chăm và em ông cũng cho canh giữ vùng xứ Chăm giáp giới với Quảng Ngãi. Hai anh em rình nhau lắm; nhìn ngoài họ không bao giờ họ có thể hợp nhau được. Vào khoảng tháng ba năm nay, sau khi Nhạc gây hấn tại biên giới Chăm làm như ông muốn chiếm đoạt xứ ấy và tiến thẳng ra Bắc, em ông lập tức cho quân ra kháng cự và chỉ trong vài ngày ông đánh Nhạc đại bại, tướng Nhạc thì bị voi dày. Sau chiến thắng đó, ông Tám trở về Phú Xuân. Từ đó, sự nghiệp Nhạc gặp vận xấu, ông bị áp phục không còn gì và không đủ tư cách đương đầu với em ông.

Khi ông Tám ra Bắc, ông có giao lại Phú Xuân cho một người rất đần độn. Ông ta muốn mộ hết mọi người làm lính ông ta cho bắt tất cả đàn ông từ 12 cho đến 60 tuổi. Lính ở xứ này như vậy đó. Chỉ còn lại có đàn bà, con nít và nhiêu lão. Gần như không có ai cày ruộng, không ai dám đi câu cá. Những người nào đã trả tiền để được miễn đi lính sau rồi cũng bị bắt và lôi đi đánh trận như người khác… Tất cả những của cải cướp được tại Bắc Hà hiện ở Phú Xuân… [Tình hình rất có lợi cho chúa Nguyễn. Quân Trung Hoa có lẽ sang Bắc Hà. Chúng đã mua đại bác của người Anh] … Người ta nói rằng Hoàng đế [Trung Hoa] cho người nói với ông Tám rằng ông phải rút lui ngay khỏi Bắc Hà bằng không ngài sẽ phái quân đội sang đuổi ô
ng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Sérard gửi. ...? ngày 12 tháng 7 năm 1789

Từ 3, 4 năm nay rồi, [Bắc Hà] đói kém rồi đến trộm cướp, giết chóc, tàn phá vương quốc này, Tiếp theo nào là lụt lội, nào là hạn hán. Song đến lượt quân địch tàn ác đốt phá khắp nơi. Tình trạng khốn khổ đó chưa ai từng nghe thấy từ thời lập vương quốc này. Quả thật đấng tạo hóa vẫn chưa vui lòng khi để hàng bao nhiêu người chết vì chiến tranh, hỏa hoạn và đói kém cùng cực, đã thế ông Trời nhẫn tâm còn tiêu diệt phần lớn dân chúng bởi dịch hạch. Có khi cả làng, có khi một phần làng bị tàn phá, nhà cửa không còn người ở, ruộng nương bị bỏ hoang không ai cầy cấy. Cả xứ hoang tàn; nơi nào cũng chỉ có màu tang tóc và tiếng khí giới xô xát kêu lẻng xẻng. Đường xá đầy xác người, lúc nào trước mắt cũng chỉ thấy bình ảnh chết chóc, khủng- khiếp.

Hỡi ơi! Bộ mặt đáng- thương của cảnh- vật! [ xứ Bắc Hà giàu có khi xưa] Mà các tai ương đó xảy ra nhiều nhất tại giáo khu phía Tây của chúng tôi. Tại đây, khắp nơi đều bị quân địch bao vây và bàn tay đẫm máu của họ gần như không để sót cái gì.

... Trong khi đó vua Bắc Hà [Chiêu Thống] lang thang trốn tránh cả năm trời trong rừng núi không ai phò vua, bày mưu giúp kế. Sau cùng ông chạy sang Trung Hoa xin cầu viện và rước quân đội Trung Hoa sang đây. Quân Tây Sơn không chống nổi cuộc xung đột đầu tiên, họ rút lui về các trấn miền trong, bỏ lại kinh đô Kẻ Chợ mà họ chiếm giữ được 1 năm cùng với tất cả các thành phố khác. Nhưng quân đội Trung Hoa do Toung Doc [Tổng Đốc Tôn Sĩ Nghị] [người cai trị hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây] chỉ huy lại không đuổi theo địch như người ta tưởng. Họ ở lỳ tại Kinh Đô Kẻ Chợ với vua Bắc Hà mới được phục hồi ngôi vị. [Vua Chiêu Thống] bị [ quân Thanh] lừa phỉnh bởi một hy vọng khôi phục [ một nền] hòa bình hão, họ đắm mình vào những cuộc truy hoan dâm đãng.

Trong khi đó viên tướng phiến loạn ở Phú Xuân [Quang Trung] được báo tin rằng quân Trung Hoa đã tới tiếp viện, quân Tây Sơn đã rút lui và vua chính thống đã khôi phục được gần hết Bắc Hà. Ông liền tập trung binh lính và tiến thật nhanh ra Bắc Hà. Quân Trung Hoa bị bại, một phần bởi khinh địch, một phần vì thiếu sự trinh sát nên thua một cách nhục nhã ngay cuộc xung đột đầu tiên.

Họ tiếc rẻ mà vẫn phải bỏ lại của cải và làm giàu quân địch với khí giới hay vàng bạc của họ. Đó là do Thượng Đế đã ra tay trừng phạt dân Bắc Hà và quân Trung Hoa đấy. Thật vậy, quân phiến loạn làm sao so sánh được với đối phương của họ? và không có bàn tay Thượng Đế thì làm sao họ có thể đánh bại được địch thủ khi địch hơn họ về lượng cũng như về sức?

... Mọi người mong đợi vua chính thống Nam Hà [Nguyễn Ánh] từ 7 năm nay nhưng cho đến giờ không thấy bóng dáng ông đâu. Quân tiếp viện Trung Hoa có trở lại hay không cái đó không biết được và Chúa [Thượng Đế] với lòng độ lượng đối với dân xứ này [tôi muốn nói cả Bắc lẫn Nam] cũng không chắc được quân man rợ đó sẽ tha một phần dân chúng hai vùng này khô
ng?...
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Nunsius Orta gửi ông Letondal, ngày 15 tháng 7 năm 1789

[Giáo sĩ Nunsius Orta, quê ở Ý, giáo sĩ dòng Tên, đến Đàng Ngoài năm 1786]

…Tôi không thể không kể những sự bất hạnh của [người dân] Bắc Hà sau chiến tranh với quân phiến loạn Nam Hà. Nhờ giết chóc và phá phách quân họ đã chiếm được phần đông Vương quốc này, rồi sau đó chiếm luôn Bắc Hà. Họ làm khổ dân chúng dưới ách của họ bằng không biết cơ man nào là thuế má và khổ dịch, không kể hàng bao nhiêu vụ đốt nhà và phá hủy làng mạc, Những tai ương đó còn được tăng lên ngày lại ngàybởi nạn đói kém; sau mộ trận dịch bệnh như dịch hạch tàn phá vương quốc này. Vô số người chết thây nằm ngổn ngang ngay cả trên đường xá.

Quân đội Trung Hoa tiếp viện vua Bắc Hà và vương quốc này đã bị tiêu diệt. Người ta đồn rằng một đội quân Trung Hoa khác sẽ được gởi sang từ Trung Hoa sang tiếp viện. Có rất nhiều giặc cướp ở biển cũng như ở nội địa làm cho vương quốc này thêm điêu tàn; thuyền buôn Trung Hoa từ Tầu sang Bắc Hà bị chúng cướp là lột sạch; tài sản và hàng hóa của người Trung Hoa hoặc bị quân Nam Hà hoặc bị bọn giặc kể trên cướp bó
c.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,654
Động cơ
712,115 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nhật ký về những sự kiện đáng ghi nhớ trong địa phận Giáo hội Bắc Hà về chính trị, dân sự, tôn giáo từ tháng 10 năm 1788 cho tới cuối tháng 7 năm 1789.

Trong cuốn nhật ký cuối cùng, ghi ngày 16 tháng 10 năm 1788, tôi phải thú thực rằng qua cả 1 thời gian dài cho đến nay, tôi vẫn chưa biết ai là Vua thực sự, em trai của bạo chúa Nhạc-Tiếm vương ấy [Bắc Vương, tức là Nguyễn Huệ] kể từ khi ông ta trở về từ Bắc Hà, đang bận xây tại Huế, theo một lá thư của đức ông La Bartette đề ngày 17 tháng 8 [1788] và nhận được ngày 24 tháng 10 [1788], một pháo đài bằng đá granit rất cao rộng đã làm chết rất nhiều người [thợ], để bảo đảm thành phố đó chống lại mọi sự đánh úp hay công kích của ông vua Nam Hà chính thống [ Nguyễn Ánh] vì ông không ngớt lo sợ vua [Nguyễn Ánh] trở về nay mai. Đức ông nói thêm rằng có tin đồn Bắc Vương sẽ ra Bắc Hà vào tháng 11.

Ngày 25 tháng 10 [ 1788], tôi nhận được một lá thư gửi tới từ Kinh thành [Thăng Long] đề ngày 21 báo rằng khi Hoàng đế Trung Hoa được một đơn thỉnh nguyện của mẹ và vợ [ Chú thích của tác giả: Trong lá thư nhận mệnh mà tôi sẽ nhắc tới sau. Hoàng đế Càn Long hình như nói rằng: “Tân Vương Bắc Hà đang ẩn náu tại Trung Hoa và chính ông đến cầu viện”].

Chiêu Thống đã ẩn náu tại đế quốc đó, thông tri cho ngài vận khốn nguy của vua Chiêu Thống, theo lời đồn, Hoàng đế [nhà Thanh] cho gửi 300.000 người vừa theo đường bộ lẫn đường biển sang cứu vua Chiêu Thống chống quân Tây Sơn. Đồng thời tôi nhớ rằng các lãnh tụ nhóm nổi dậy ở Bắc Hà hình như phấn khởi bởi tin đó. Mới đây có âm-mưu công-kích giặc Tây Sơn khắp nơi ngõ hầu tiêu diệt họ. Nhưng kế hoạch hay ấy không thể tiến-hành được, hoặc vì kế hoạch bị phát giác kịp thời, hoặc vì người chủ mưu dự-định đó không dám hành-động.

Ngày 18 tháng 11 [1788], tôi đọc một lá thư đề ngày 20 tháng 9 [1788] của đức ông La Bartette gửi cho ông Le Breton, trong đó Đức ông cho biết rằng:

1. Tiếm vương Phú Xuân hay Bắc Vương vừa mới phong cho con trai ông làm Nam Vương lúc đó mới có 7 tuổi, nhưng hoàng tử đó được coi như được 12 tuổi, vì theo như lời đồn, các quan muốn nịnh người cha nên tặng cho người con nhiều tuổi hơn [tức là Nam Vương Nguyễn Quang Toản].

2. Bắc Vương đã ấn định ngày 11 tháng 10 [Âm lịch] tức ngày mồng 8 tháng 11 [1788] là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế dưới danh-hiệu Quang Trung [có nghĩa là ánh sáng trung ương, tức là theo sự giải thích có lẽ đúng nhất, mặt trời của vũ trụ] đồng thời ông đang bận tính một kế-hoạch vĩ đại theo như một sắc lệnh ban bố ngày 6 tháng 10 [Âm lịch] hay ngày 3 tháng 11 [1788] gởi cho đại thần Đại Tư Mã và tất cả các quan hay võ quan Tây Sơn làm việc tại Bắc Hà ; ngày 19, một giáo đồ Bắc Hà rất thân với Đại Tư Mã có cho bản sao của sắc vị đó. Dịch văn bản đó như sau:

“Bởi sắc lệnh này ta cho các tướng Đại Tư mã, Đại [đô] đốc [Đại Tư mã là Ngô Văn Sở và Đại Đô đốc là Phan Văn Lân] và các võ quan khác biết rằng từ trước tới nay các vua chúa đều lấy luật pháp để cai trị thần dân và duy trì hòa bình, nên ta cũng noi gương các vị tiền bối mà đánh dấu ngày khởi đầu triều đại ta bằng cách soạn ra một bộ Luật để dân chúng sống trên đất đai ta nghiêm ngặt tuân theo. Vì thế ta đã giao cho các quan tư pháp và tham chính viện nhiệm vụ hoàn tất tác phẩm đó trong 1, 2 tháng. Trong khi chờ đợi ta ban bố vài pháp quy yêu cầu mọi người và mỗi các ngươi đứng đắn thi hành. Nội dung điều lệ đó như sau:

1. Nếu một võ quan hay binh lính nào phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử tội họ và nếu tội đáng bị chết họ sẽ bị kết án tử hình.

2.Bởi vì trong thời chiến tranh, mỗi lần một vị chỉ huy sai thuộc hạ mình đi đánh địch, thuộc hạ đó phải tuyệt-đối tuân theo lệnh, người nào tử trận một cách can đảm sẽ được ban vẻ-vang. Trái lại ai vì sợ chết mà bỏ trốn sẽ bị sỉ nhục. Bởi vậy ta cho phép xử tử tức thì những kẻ trốn bổn-phận cũng như những kẻ cho địch có thời giờ dưỡng sức lại và tấn công vì hèn-nhát hay vì chậm-chạp; sau rồi các tướng lãnh phải báo cáo hành động của họ trong trường hợp đó.

3. Khi chiến tranh chấm-dứt và khi quân đội trở về kinh đô và được trả lại cho chính quyền, không một quan chỉ huy nào được tự-tiện xử-tử một người ngang quyền hay ngang chức và ai mà vi phạm luật này sẽ không có hi vọng được khoan hồng.

4. Một lần xảy ra chuyện gì liên quan đến quốc gia hay việc công ích, mọi người đều phải lưu ý ngay đến việc đó kẻo một sự chậm trễ nhỏ nhặt có thể gây trở ngại cho công việc.Thời bình, sự mau lẹ đó cũng cần thiết rồi, huống chi tại Bắc Hà nơi cuộc chiến càng ngày càng ác-liệt, một cuộc chiến mà các ngươi phải coi như việc trọng-yếu bởi vì mỗi giây mỗi phút có thể mang lại nhiều sự thay đổi bất ngờ liên tiếp theo nhau như gió, như chớp hay như hơi và những biến chuyển đó lúc thì thuận, lúc thì nghịch thành thử không thể căn cứ trên cái gì chắc chắn được. Bởi vậy mỗi khi nhu cầu quốc gia hay tình hình chiến tranh bắt phải họp để thảo luận về những việc phải làm và mỗi khi ngày giờ họp được ấn-định, các quan văn võ sẽ phải họp ngay lập tức vào ngày giờ đó để bàn bạc và quyết-định với nhau. Nếu bất kỳ có người vì sơ-suất mà quên tới nơi họp đúng giờ, ta cho phép Tư Mã và Đại Đô [đốc] phạt họ tùy theo lỗi nặng hay nhẹ.

5. Nếu mỗi khi thuộc hạ quan chỉ huy đội [đơn vị quân Tây Sơn, 60-100 lính] hay thuộc hạ của ông đi đuổi bắt kẻ gian, đáng lẽ bảo-vệ và che-chở dân vô tội và hiền lành mà họ lại cưỡng-đoạt của cải dân gian, áp bức đàn bà con gái, hay cướp phá những nơi họ đi qua thì cách cư xử đó thật đáng trách và chỉ mang đến cho dân chúng đáng thương sẽ đau khổ và thất-vọng, vì họ phải chịu nhiều tai vạ hơn dưới thời Nhậm hay Tiết chế. Họ cư xử như vậy thì làm sao dân chúng yên lành được? Và làm sao gọi hành động đó là giải phóng dân chúng khỏi áp bức, và làm sao phạt thủ phạm cho được? Vậy ta ra lệnh cho các võ quan phải công bố trong cơ [đơn vị quân Tây Sơn, 300-500 lính] hay binh đoàn mình điều nghiêm cấm, không được lấy bất cứ vật gì của dân dù là một ngọn cỏ, nhưng ta không ngớt tuyên cáo trước đây. Các võ quan sẽ chắc chắn làm vừa lòng ta và đúng theo tình ý ta nếu hết sức thi hành điều nghiêm cấm đó. Ai cư xử như vậy có thể tin rằng sau khi chia sẽ cùng ta những nỗi khổ nhọc và những mối hiểm nghèo của thời chiến này, họ cũng sẽ chia-sẻ thanh-danh và hưởng thú vui thời bình cùng ta. Vả lại nữa, không ai có quyền dựa vào sự vắng mặt hay sự cách xa của ta để phiền nhiễu cướp bóc dân chúng và uy hiếp đàn bà con gái. Chỉ có khi nào ngưng và dẹp được những bạo-hành đó, họ mới có thể tự phụ giữ nổi chức vụ và bảo đảm an ninh cho cá nhân và gia đình họ, bằng không, đừng mong gì ta dung thứ họ.

Đó là những điều ta muốn các ngươi phải biết


Ngày 3 tháng 10 [Âm lịch] năm Thái Đức [Tiếm vương Nhạc] thứ 11.]
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top