Thư của ông Le Roy gửi ông Blandin, viết ngày 6 tháng 12 năm 1786
Kẻ Vĩnh, Bắc Hà ngày 6 tháng 12 năm 1786
[Giáo sĩ Le Roy Jean-François, quê ở Vesoul, thuộc giáo phận Besançon, lên đường đi truyền giáo ngày 8 tháng 10 năm 1780. 24 ở Đàng Ngoài hầu như ông chỉ dành cho việc hướng dẫn và đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1805]
[Kẻ Vĩnh, nay thuộc Ninh Bình]
Ngày 11 tháng 7 [1786]. Vì bức thư này không được viết vào cùng một ngày, nên ngày nay mọi thứ đã thay đổi rất nhiều. “Giặc [để nguyên văn, chú thích của giáo sĩ là: “những kẻ nổi loạn”. Vào thời điểm đó, điều này có nghĩa là Tây Sơn. Xa hơn nữa, chúng ta sẽ thấy “giặc” Quảng, “những kẻ nổi loạn ở đất Quảng”], nghe nói là Côù Chính [Nguyễn Hữu Chỉnh, gọi là Cống Chỉnh] và [Nguyễn] Nhạc, v.v., được cho là đã chiếm lại Nam Hà và đánh đuổi người Bắc Hà. Hôm nay chúng tôi vừa được biết rằng những người giặc này đã đến “dưới cầu” [để nguyên văn, chú thích của người viết nghĩa là nơi giáo sĩ Le Roy đang ở, nằm ở hạ lưu Kẻ Vĩnh, nghĩa là con kênh hay cống dẫn nước] với 400 chi'èc [ chiếc, để nguyên văn, tác giả chú thích thêm là chiếc thuyền chiến có buồm], và họ muốn đến Ké-cho [ Kẻ Chợ, tức là Thăng Long]
Ở phần trên chúng ta cũng chỉ nói về những khó khăn. Chúng ta sẽ ra sao đây, ngài thân mến...?
Ngày 18 tháng 7, đêm 18 rạng ngày 19 tháng 7, quân “giặc” đánh chiếm Vị-hoàng [thủ phủ vùng Sơn Nam Hạ, tức là thuộc Nam Định] và đang ở Hiến-nam [thủ phủ của Sơn Nam Thượng, nay thuộc Hưng Yên] có trận đánh với quân Bắc Hà, kéo dài gần một đêm. Cuộc chiến đấu rất ác liệt giữa phe hoàng gia [nhà Lê-Trịnh] và phe Cống Chỉnh: chúng tôi đã nghe thấy ở Kẻ Vĩnh tất cả tiếng đại bác của họ. Quân Bắc Hà có chống cự, sau bại trận và bỏ chạy, nhưng không mất nhiều binh lính.
Ngày 20 [tháng 7 năm 1786], “giặc” Quảng tiến vào Kẻ-chợ [Thăng Long]. Các cánh cổng thành đã mở; Quan lại, binh lính và dân chúng đều sợ hãi đến nỗi bỏ chạy tán loạn. Chúa Trịnh [Khải] bỏ chạy, rồi vừa chạy vừa nghẹn ngào khóc. Vua Canh-hu'ng [Cảnh Hưng] cũng băng hà khoảng một tháng sau. Người Nam Hà cướp phá mọi thứ, vàng bạc, đại bác, súng trường, đồ đạc, voi, ngựa; chúng không để lại gì “phủ” [chúa Trịnh] rỗng hết ngoài xác các cung phi. Họ lấy “chùa” làm nơi nghỉ cho quan lại; họ chôn các thần tượng mà dường như họ không mấy gắn bó; họ không cúng tế ở đâu cả, đến cha Khiêm, cha xứ [phụ trách] kinh thành cũng bất lực. Còn bọn “các lái” [lái buôn] thì bỏ mặc những người nghèo chết đói, nằm dọc đường và trong các quảng trường ở chợ, chúng không làm gì để cứu vớt hay cho người dân nghèo một chút từ thiện nào, tuy nhiên, cũng phải xét cho công bằng là vì sao họ lại có sự vô nhân đạo đó, “các lái” [buôn] cũng đã mất tất cả: thuyền, thóc, tiền, sạch cả, họ vẫn rất mừng vì không mất mạng. Chúng tôi đã thấy họ [ gần như] trần truồng đi qua đây để trở về Xứ Thanh [Thanh Hóa]. [Nhưng khi họ] Về đến nhà, thật khốn nạn: bọn cướp đã đầy mặt đất như bầy châu chấu đói, trang bị vũ khí từ đầu đến chân như bọn cướp Ngày tận thế, chúng tụ tập hàng trăm tên, tay lăm lăm súng hỏa mai cướp bóc tất cả những thương nhân này, đốt nhà của họ. Gần Cửa Bạng [Thanh Hóa] có một hòn đảo có những người lái buôn này sinh sống, với số lượng gần 3.000 người, trong số đó có gần 6 đến 700 Cơ đốc nhân. Ông Lamothe [Giáo sĩ La Mothe Charles, quê giáo phận Sens, rời đi ngày 21 tháng 10 năm 1781, truyền giáo ở Đàng Ngoài, được bầu làm phó giám mục tông tòa Tây Đàng Ngoài và được tấn phong giám mục năm 1796. Qua đời ngày 22 tháng 5 năm 1816], người có mặt tại hiện trường, đã viết cho chúng tôi rằng có lẽ [số còn sống sót] không quá 30 người: mọi thứ đã bị cướp bóc, người thì bị giết hại, cả bởi bọn giang hồ lẫn bọn trộm cắp....
Trong vương quốc mọi thứ rối ren, đâu đâu cũng chỉ có giết người, phóng hỏa, trộm cướp, nên bọn “giặc Quảng” sai quân chạy rày đây mai đó để truy quét bọn đạo tặc. Những người Nam hà này đã thực hiện công lý rất khắc nghiệt. Trong lần xét xử hay buộc tội đầu tiên, không cần bất kỳ thủ tục dài dòng nào, họ đã chặt đầu những tên trộm hoặc những người bị buộc tội như vậy. Mọi người [lúc đầu] đều ca ngợi sự công bằng và vô tư của họ; vì họ không cướp bóc ai, và bằng lòng với việc chặt đầu. Điều này đã mang lại yên bình ở một số nơi, trong một thời gian: nhưng sau này, mới rõ là vì người Đàng Trong chỉ ra Đàng Ngoài để cướp bóc chứ không phải để trị vì ở đó, sau khi đã thu được nhiều chiến lợi phẩm nhất có thể và cướp bóc được ở phủ Yên Trường [nay thuộc các vùng Yên Định, Thiệu Hóa] cơ man là báu vật của “chúa” [Trịnh] ở Xứ Thanh, họ lên đường đem tất cả trở về nhà. “Vua Nhạc” đã đến Đàng Ngoài, đến tận Kẻ Chợ với khoảng 30 con voi và một số binh lính hùng hậu, sau hai hoặc ba ngày ở lại kinh đô, đã ra lệnh cho tất cả quân Nam Hà dọn sạch Đàng Ngoài. Nói sớm hơn làm: chúng rời đi, nhưng còn ồn ào hơn cả khi họ tiến vào. Binh lính của chúng, một phần gồm các sắc dân Mường, Man-di, và các dân tộc rợ khác từ Cao-miên, Chăm [Pa] Xiêm, v.v.), chúng cướp bóc hai bên bờ sông, bắt đàn bà con nít, và bỏ lại rất nhiều rác rưởi bốc mùi kinh tởm.
Về phần vua [Nguyễn] Nhạc, trước khi ra đi, đã làm phép “phụng truyền” [theo sắc lệnh nhà vua?] cho phá gần hết chùa, mỗi “tổng” [để nguyên văn, chỉ để lại một ngôi. Người ta nói rằng ông ấy muốn được tôn thờ một mình: đó là lý do tại sao những người lính của ông ấy gọi ông ấy là “vua trời”, vua của thiên đàng. Họ nói rằng ông vẫn còn ở Bố-chính.... [gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay].
Côung-Chinh [Cống Chỉnh] ở quê nhà Xứ Nghệ cố thủ, chiêu binh lập đảng — Nhà Trịnh mới có một “chúa” mới, gọi là Ou Quận Quế [Ông Quận Quế]; ông ấy là chú của vị “chúa” vừa mất [tức Trịnh Sâm]. Các quan dường như thống nhất ủng hộ ông ta. Thống đốc đã được bổ nhiệm; tuy nhiên, họ vẫn không dám quay trở lại phủ của mình. Những “quân ba phủ” [tức là lính Tam Phủ, hay còn gọi là Kiêu Binh, là đám lính quê gốc Thanh Hóa đã làm cuộc binh biến lật đổ Trịnh Cán và đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa] bị sỉ nhục và chúng đáng phải chịu [như thế, ý nói quân kiêu binh bị Tây Sơn đánh cho tan tác] những “quân kiệu” [tức là quân triều đình nhà Lê] kiên quyết chống lại chúa tể vĩ đại [Nguyễn Nhạc] nhưng bị đánh bại và buộc phải chạy trốn, không có gì ngoài chiếc thắt lưng, và hầu như không thể kiếm được một nắm cơm để khỏi chết đói. Người ta nói rằng các quan không còn muốn sử dụng [quân Tam Phủ] nữa và người dân đã mệt mỏi với những điều phiền toái mà đám lính này gây ra. Tuy nhiên, sẽ khó thực hiện nếu không có…. [ quân lính].
[Lưu trữ M-E, 691, 767-771, phần khác của thư được lưu tại văn khố Hội thừa Sai Paris]