Lại nói Hoàng Phùng Cơ, sau thất bại ở Thúy Ái翠靄, đã chạy về Sơn Tây, ẩn mình không xuất hiện. Đinh Tích Nhưỡng, sau khi binh lính tan rã ở đã hội quân trở về phía nam theo sông Cẩm Giang, huy động toàn bộ thân tộc, chiếm cứ trấn Hải Dương. Trấn này ban đầu chưa bị chiến tranh tàn phá, trong thành vẫn còn năm kho thóc công. Tích Nhưỡng đã phân phát số thóc đó để nuôi quân, chiêu mộ được hàng nghìn dũng sĩ, thanh thế nhờ đó mà lớn mạnh. Bọn cướp biển tên Dư Liên餘蓮 cũng mang quân theo về, có đến vài vạn người.
Khi Nguyễn Hữu Chỉnh vào kinh, đã gửi thư từ kinh đô chiêu dụ Tích Nhưỡng. Nguyên là Chỉnh và Tích Nhưỡng đều từng ở dưới trướng của Diệp Quận, vốn rất thân thiết. Tích Nhưỡng có thư trả lời Chỉnh, lấy cớ không đến được, mà Chỉnh cũng không có thời gian để hỏi. Nhờ vậy, Tích Nhưỡng có thể chuyên quyền một vùng, ngày đêm luyện binh.
Dương Trọng Tế là một văn thần vốn không biết binh pháp. Con trai của anh ông ta là Dương Vân楊雲 bản tính hung hãn, thường tụ tập bọn vô lại, hoành hành khắp thôn xóm, ai ai cũng sợ hãi. Khi quân Nam [Tây Sơn] xuất quân, Dương Vân ngấm ngầm chiêu mộ thợ rèn để sửa chữa binh khí. Nguyễn Huệ đã sai người tìm kiếm thợ rèn và bắt giữ bè đảng của Dương Vân. Dương Vân đóng kín cửa trong nhà, giết sạch những kẻ đó. Trọng Tế sợ hãi, bất đắc dĩ, bèn nổi dậy phất cờ, chiếm cứ huyện Gia Lâm. Trong vòng mười ngày, ông ta có được hơn vạn quân. Quân du kích Tây Sơn tấn công nhưng không hạ được. Khi quân Tây Sơn còn ở kinh đô, trong thành ai nấy đều xôn xao rằng quân hai đạo Đông và Tây sẽ hội binh, chẳng mấy chốc sẽ kéo đến dưới thành. Đến khi quân Tây Sơn âm thầm rút đi, trong thành trống rỗng. Các quan cùng bàn bạc triệu tập hào kiệt để bảo vệ Hoàng thành. Phàm ai có quen biết đều xin chỉ dụ triệu họ. Chỉ dụ được ban ra, có ngày tới hơn mười đạo. Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cũng đều được triệu. Hoàng thượng nghĩ rằng Trọng Tế là văn thần, nghe lệnh ắt sẽ đến, nhưng riêng Tích Nhưỡng là võ nhân, lại có tiếng tăm, không coi trọng mệnh lệnh của mình, e rằng không thể vời đến được. Thế là ngài ban chiếu thư triệu Nhưỡng, lời lẽ vô cùng ấm áp, an ủi, lại hứa hẹn sẽ cho ông ta cùng hưởng vinh hoa như bậc nguyên huân. Ngài sai người mang chiếu đến chỗ Nhưỡng. Nhưỡng đọc xong mà khóc rằng:
- Gia đình thần mười tám đời là quận công, ân nước không hề mỏng, đội ơn trời đất, há dám bội bạc? Thần nay còn ba năm người đi theo, cũng là nhờ uy đức của Hoàng gia ta. Thần vâng theo chiếu chỉ, đáng lẽ phải tức tốc đến chầu. Nhưng thần đang bận sắp xếp binh mã, chỉnh đốn hành trang, xin cho thần ba năm ngày nữa, thần sẽ kính cẩn đến triều.
Rồi ông ta soạn biểu tấu, sai người theo sứ giả đến kinh đô để dâng lên. Tích Nhưỡng chưa đến kinh, mà trong kinh đô đã xôn xao. Người ta đồn rằng Tích Nhưỡng đã dùng thủy quân tập kích quân Nam từ phía sau, bắt được vô số tù binh; lại có người nói Tích Nhưỡng đã bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh, chặt tay chân biến thành hình người lợn, sớm tối sẽ giải đến kinh đô; hoặc có người nói đã đến kinh đô rồi, người người tranh nhau chạy đi xem. Một ngày có bốn năm lần náo loạn như thế, kéo dài liên tục mấy ngày. Phàm ai nghe đến tên Tích Nhưỡng đều không khỏi chấn động, khâm phục và mong ngóng. Hoàng thượng nhận được biểu tấu của Tích Nhưỡng, thấy lòng trung thành và yêu nước của ông ta tràn đầy qua từng lời lẽ, vô cùng vui mừng, cho rằng Tích Nhưỡng chắc chắn có thể dựa cậy, lòng ngài cũng bớt lo lắng đi phần nào.
Khi Nguyễn Hữu Chỉnh vào kinh, đã gửi thư từ kinh đô chiêu dụ Tích Nhưỡng. Nguyên là Chỉnh và Tích Nhưỡng đều từng ở dưới trướng của Diệp Quận, vốn rất thân thiết. Tích Nhưỡng có thư trả lời Chỉnh, lấy cớ không đến được, mà Chỉnh cũng không có thời gian để hỏi. Nhờ vậy, Tích Nhưỡng có thể chuyên quyền một vùng, ngày đêm luyện binh.
Dương Trọng Tế là một văn thần vốn không biết binh pháp. Con trai của anh ông ta là Dương Vân楊雲 bản tính hung hãn, thường tụ tập bọn vô lại, hoành hành khắp thôn xóm, ai ai cũng sợ hãi. Khi quân Nam [Tây Sơn] xuất quân, Dương Vân ngấm ngầm chiêu mộ thợ rèn để sửa chữa binh khí. Nguyễn Huệ đã sai người tìm kiếm thợ rèn và bắt giữ bè đảng của Dương Vân. Dương Vân đóng kín cửa trong nhà, giết sạch những kẻ đó. Trọng Tế sợ hãi, bất đắc dĩ, bèn nổi dậy phất cờ, chiếm cứ huyện Gia Lâm. Trong vòng mười ngày, ông ta có được hơn vạn quân. Quân du kích Tây Sơn tấn công nhưng không hạ được. Khi quân Tây Sơn còn ở kinh đô, trong thành ai nấy đều xôn xao rằng quân hai đạo Đông và Tây sẽ hội binh, chẳng mấy chốc sẽ kéo đến dưới thành. Đến khi quân Tây Sơn âm thầm rút đi, trong thành trống rỗng. Các quan cùng bàn bạc triệu tập hào kiệt để bảo vệ Hoàng thành. Phàm ai có quen biết đều xin chỉ dụ triệu họ. Chỉ dụ được ban ra, có ngày tới hơn mười đạo. Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cũng đều được triệu. Hoàng thượng nghĩ rằng Trọng Tế là văn thần, nghe lệnh ắt sẽ đến, nhưng riêng Tích Nhưỡng là võ nhân, lại có tiếng tăm, không coi trọng mệnh lệnh của mình, e rằng không thể vời đến được. Thế là ngài ban chiếu thư triệu Nhưỡng, lời lẽ vô cùng ấm áp, an ủi, lại hứa hẹn sẽ cho ông ta cùng hưởng vinh hoa như bậc nguyên huân. Ngài sai người mang chiếu đến chỗ Nhưỡng. Nhưỡng đọc xong mà khóc rằng:
- Gia đình thần mười tám đời là quận công, ân nước không hề mỏng, đội ơn trời đất, há dám bội bạc? Thần nay còn ba năm người đi theo, cũng là nhờ uy đức của Hoàng gia ta. Thần vâng theo chiếu chỉ, đáng lẽ phải tức tốc đến chầu. Nhưng thần đang bận sắp xếp binh mã, chỉnh đốn hành trang, xin cho thần ba năm ngày nữa, thần sẽ kính cẩn đến triều.
Rồi ông ta soạn biểu tấu, sai người theo sứ giả đến kinh đô để dâng lên. Tích Nhưỡng chưa đến kinh, mà trong kinh đô đã xôn xao. Người ta đồn rằng Tích Nhưỡng đã dùng thủy quân tập kích quân Nam từ phía sau, bắt được vô số tù binh; lại có người nói Tích Nhưỡng đã bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh, chặt tay chân biến thành hình người lợn, sớm tối sẽ giải đến kinh đô; hoặc có người nói đã đến kinh đô rồi, người người tranh nhau chạy đi xem. Một ngày có bốn năm lần náo loạn như thế, kéo dài liên tục mấy ngày. Phàm ai nghe đến tên Tích Nhưỡng đều không khỏi chấn động, khâm phục và mong ngóng. Hoàng thượng nhận được biểu tấu của Tích Nhưỡng, thấy lòng trung thành và yêu nước của ông ta tràn đầy qua từng lời lẽ, vô cùng vui mừng, cho rằng Tích Nhưỡng chắc chắn có thể dựa cậy, lòng ngài cũng bớt lo lắng đi phần nào.