GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 62:
CỤ BẨY BẮN CHÁY F-8
(Tư liệu từ 2 phía Việt – Mỹ)
1/Ngày 05/09/1966:
1.1/Tài liệu Việt nam (TLVN):
Không quân địch tổ chức vào đánh phá ở Bình lục - Nam hà.
1.2/Tài liệu Mỹ (TLM):
1.2.1/ Tình hình chung:
Ngày 05/09/1966 Hải quân Mỹ phát hiện đoàn tầu của ta tại đoạn đường sắt giữa Phủ lý và Nam định tại tọa độ khoảng 20°30' Bắc /106°00' Đông. Hải quân Mỹ điều động máy bay A-4 tấn công đoàn tàu này.
Hải quân Mỹ cho 4 chiếc F-8, chia làm 2 cặp, bay làm nhiệm vụ bảo vệ quanh khu vực ném bom (TARCAP). Cặp F-8 thứ nhất vào trước, tuần tra trên quỹ đạo phía trên khu vực núi đá vôi gần như ngay phía Nam Phủ lý. Cặp F-8 thứ hai vòng chờ trên quỹ đạo ngoài khơi, ngay phía nam một cửa sông ở phía Đông-Đông Bắc Thanh Hóa.
Khi tốp 1 hết dầu bay ra, tốp 2 bay vào không vực tuần phòng để thay thế, tới tọa độ 20°00' Bắc / 106°30' Đông, rồi tiếp tục bay dọc theo khu vực núi đá vôi theo hướng từ Đông - Nam lên Tây - Bắc, cho đến Nam của Nho Quan thì rẽ về phía Bắc. Đến khu vực tuần tiễu thì biên đội F-8 bay vòng tròn với các khúc cua ngẫu nhiên. Đội hình bay không chặt chẽ, F-8 số 2 đổi vị trí liên tục để giữ số 1 trong tầm mắt khi bay qua các cụm mây, có lúc gần như đi hàng dọc, nên bị lơ là quan sát đề phòng MiG đối phương. 2 F-8 hoàn toàn không biết có MiG, các hạm cũng không biết tại sao lại không báo có MiG cho F-8.
1.2.2/ Thời tiết:
Từ mây rải rác (scatter) đến mây mù diện rộng (overcast) trần mây 1.500 ft (457 mét), đỉnh mây khoảng 2.000 ft (610 mét), thỉnh thoảng có những cụm mây tích lên tới 7000 ft (2.133 mét).
2/Diễn biến trận đánh:
2.1/ TLVN:
Đôi bay MiG-17 Bảy – Mẫn cất cánh lúc 16:30, từ Gia lâm, được dẫn tới khu vực Phủ lý, Nam định thì được thông báo có địch. Số 1 phát hiện mục tiêu phía trước bên phải 30 km, độ cao khoảng 2.000 m. Kéo lên độ cao 1,500 m bay về hướng mục tiêu ở thế đối đầu. Phát hiện MiG, F-8 quay đầu bỏ chạy vào các đám mây. MiG bay tắt qua đám mây đón lõng ở phía bên kia. Tốc độ cao nên bị soãi ra ngoài, nhưng đã kịp ép độ nghiêng vòng lại.
2.2/ TLM:
Khu vực không chiến: 20°15’B / 105°59’Đ. Tốp F-8 đang ở Độ cao: 3000-5000 ft (914-1524 m); Hướng bay: Hướng Nam, đang vòng phải; Tốc độ: 400 kt (460 mph hay 740 km/h); Nhiên liệu: gần đến mức phải quay về căn cứ (BINGO). Do mây mù, Số 2 phải bay sát vào sau số 1, vị trí góc 5 giờ, lúc này chỉ cách tối đa 60 mét và thấp hơn 15 m. Sau trận đánh tầu Oriskany kiểm tra lại dữ liệu radar và không thoại đối phương phát hiện thấy MiG-17 đã tiếp cận trượt 1 lần (made a mess of previous pass) trước khi được mặt đất dẫn lại vào vị trí tấn công có lợi (directed to reposition for the successful bounce).
2.3/TLVN:
Số 1 Nguyễn Văn Bảy bắn F-8 số 2 từ khoảng cách 400-500 m nhưng đạn lệch trái).
2.4/ TLM:
F-8 số 2 đột ngột thấy luồng đạn sáng (tracer) vọt qua bên trái buồng lái, vội báo động cho số 1.
MiG-17 số 1 lại gần bắn thêm loạt 2 trúng nắp buồng lái khiến máy bay địch lật nghiêng.
Ngay lúc đó, nắp buồng lái F-8 số 2 bị trúng đạn, khiến tiếng ồn do gió rít trở nên quá to đến mức phi công gần như không nghe thấy gì.
2.5/ TLVN:
MiG-17 Số 1 bắn thêm loạt 3 máy bay địch bùng cháy rơi xuống.
2.6/ TLM:
Thấy đám mây bên trái, F-8 số 2
(chiếc bị cụ Bẩy bắn) ngoặt gấp vào đó lấy mây che chắn tránh bị bắn thêm; Vào mây rồi thì lại ngoặt trái gấp lần nữa để kiểm tra phía sau nhưng không thấy MiG. F-8 số 2 ngoặt phải thêm lần nữa, kiểm tra cũng vẫn không thấy MiG, lúc này phi công nhận ra cánh phải đã vỡ miếng lớn, dầu phụt tung tóe. Sau trận đánh, phía Mỹ kiểm tra thấy góc đạn va chạm cho thấy không thể là do hỏa lực mặt đất; phi công Rime tin rằng phi công MiG đã dừng bắn ngay sau loạt đạn trúng đích đầu tiên vì tình trạng hư hại của F-8 số 2 thảm hại đến mức không cần phải bắn bồi thêm nữa. F-8 Số 2 về hạ cánh khi dầu gần hết sạch (chỉ còn xấp xỉ 130 kg), bị gãy càng phải, phi công Rime bị thương nhẹ.
2.5/ TLVN:
MiG-17 số 2 Võ Văn Mẫn sau khi yểm hộ MiG-17 số 1 bắn rơi F-8 số 2, quan sát thấy phía sau không có gì uy hiếp thì vọt lên tấn công chiếc F-8 số 1, bắn 3 loạt hạ chiếc này, bắn gần quá khiến 3 mảnh mica rơi cả vào ống dẫn khí.
2.6/TLM:
F-8 số 1 mất tích sau trận đánh. Số 2 trước khi ngoặt trái gấp vào mây thấy Số 1 đang vòng phải với gia trọng âm (negative G) vào đám mây phía trước, trong thế chúc xuống, không thấy có mảnh vỡ, không tin số 1 bị trúng đạn. Số 2 cho rằng số 1 đâm vào dãy núi đá vôi khi thoát khỏi phía bên kia đám mây, do phía đó có dãy đỉnh núi cao hơn 2,500 ft (700 mét). Khi bay ra, F-8 số 2 tin rằng đã nghe thấy lạo xạo số 1 gọi nói gì đó nhưng không chắc là nói gì, định quay lại hỗ trợ, nhưng xét thấy hiện trạng tồi tệ của máy bay nên quyết định tiếp tục bay về. Số 2 tin có lúc thoáng nghe thấy âm thanh định vị Beeper của số 1.
Sau năm 1973 phi công F-8 số 1 Abbott được thả mới biết F-8 số 1 (máy bay 150896 AH106) phát hiện MiG liền kéo lên cao (pitch up) yểm hộ số 2, định đẩy MiG vào thế bắn khó, phải bắn ở góc 90 độ có độ tản mát lớn, nhưng vẫn bị MiG bắn trúng nhiều loạt (take multiple hits). Nắp buồng lái và bảng điều khiển vỡ nát, mũ phi công bay mất, không còn điều khiển được máy bay nên phi công nhảy dù và bị bắt tù binh; bị gãy chân; được thả năm 1973.
3/ Đánh giá sau trận đánh:
3.1/Không quân Việt nam:
Trận đánh nhanh gọn. Từ lúc cất cánh đến lúc hạ cánh có 19 phút (hạ cánh an toàn lúc 16:49 phút).
3.2/Hải quân Mỹ:
Họ mở lại dữ liệu radar và không thoại đối phương và không hiểu tại sao biết có MiG mà không ai báo cho F-8s. Phi công F-8 số 2 tin rằng MiG đã tóm được họ từ dưới mây do F-8 không thể nhìn thấy [phù hợp tài liệu ta số 1 cho biên đội kéo lên cao 1.500 m tiếp địch]; MiG đã được dẫn đường rất tốt; Nếu 2 bên gặp nhau chỉ trước đó 30 giây hoặc sau đó 30 giây, kết quả sẽ khác cho F-8 (do không bị mây cản tầm nhìn).
4/ Các hình minh họa:
4.1/Hình minh họa 1:
Tọa độ ga tầu Hải quân Mỹ phát hiện đoàn tầu hỏa và cho A-4 đến ném bom.
Tài liệu Việt nam (TLVN): Không quân địch tổ chức vào đánh phá ở Bình lục - Nam hà.
Tài liệu Mỹ (TLM): Ngày 05/09/1966 Hải quân Mỹ phát hiện đoàn tầu của ta tại đoạn đường sắt giữa Phủ lý và Nam định tại tọa độ khoảng 20°30' Bắc /106°00' Đông. Hải quân Mỹ điều động máy bay A-4 tấn công đoàn tàu này.
4.2/ Hình minh họa 2:
Tọa độ vùng trời diễn ra trận không chiến. Vùng núi phía Tây là nơi ban đầu phi công F-8 số 2 của Hải quân Mỹ cho rằng F-8 số 1 đã đâm vào đó do bay trong mây.
4.3/ Hình minh họa 3:
Hải quân Mỹ cho 4 chiếc F-8, chia làm 2 cặp, bay làm nhiệm vụ bảo vệ quanh khu vực ném bom (TARCAP). Cặp F-8 thứ nhất vào trước, tuần tra trên quỹ đạo phía trên khu vực núi đá vôi gần như ngay phía Nam Phủ lý. Cặp F-8 thứ hai vòng chờ trên quỹ đạo ngoài khơi, ngay phía nam một cửa sông ở phía Đông-Đông Bắc Thanh Hóa.
Khi tốp 1 hết dầu bay ra, tốp 2 bay vào không vực tuần phòng để thay thế, tới tọa độ 20°00' Bắc / 106°30' Đông, rồi tiếp tục bay dọc theo khu vực núi đá vôi theo hướng từ Đông - Nam lên Tây - Bắc, cho đến Nam của Nho Quan thì rẽ về phía Bắc. Đến khu vực tuần tiễu thì biên đội F-8 bay vòng tròn với các khúc cua ngẫu nhiên. Đội hình bay không chặt chẽ, F-8 số 2 đổi vị trí liên tục để giữ số 1 trong tầm mắt khi bay qua các cụm mây, có lúc gần như đi hàng dọc, nên bị lơ là quan sát đề phòng MiG đối phương. 2 F-8 hoàn toàn không biết có MiG, các hạm cũng không biết tại sao lại không báo có MiG cho F-8
4.4/ Hình minh họa 4:
Đường bay và Vị trí tương đối khi MiG-17 phát hiện F-8.
TLVN: Đôi bay MiG-17 Bảy – Mẫn cất cánh lúc 16:30, từ Gia lâm, được dẫn tới khu vực Phủ lý, Nam định thì được thông báo có địch. Số 1 phát hiện mục tiêu phía trước bên phải 30 km, độ cao khoảng 2.000 m. Kéo lên độ cao 1,500 m bay về hướng mục tiêu ở thế đối đầu. Phát hiện MiG, F-8 quay đầu bỏ chạy vào các đám mây. MiG bay tắt qua đám mây đón lõng ở phía bên kia. Tốc độ cao nên bị soãi ra ngoài, nhưng đã kịp ép độ nghiêng vòng lại.
TLM: Khu vực không chiến: 20°15’B / 105°59’Đ. Tốp F-8 đang ở Độ cao: 3000-5000 ft (914-1524 m); Hướng bay: Hướng Nam, đang vòng phải; Tốc độ: 400 kt (460 mph hay 740 km/h); Nhiên liệu: gần đến mức phải quay về căn cứ (BINGO). Do mây mù, Số 2 phải bay sát vào sau số 1, vị trí góc 5 giờ, lúc này chỉ cách tối đa 60 mét và thấp hơn 15 m
4.5/ Hình minh họa 5:
Khu vực không chiến: 20°15’B / 105°59’Đ.
4.6/ Hình minh họa 6:
Ảnh mô phỏng lại: F-8 số 1 số hiệu 150896 AH-106 do phi công Abbott lái đang tiến về khu vực bị bắn rơi (Địa hình lấy theo ảnh vệ tinh Google)
4.7/ Hình minh họa 7:
Đến khu vực tuần tiễu thì biên đội F-8 bay vòng tròn với các khúc cua ngẫu nhiên. Đội hình bay không chặt chẽ, F-8 số 2 đổi vị trí liên tục để giữ số 1 trong tầm mắt khi bay qua các cụm mây, có lúc gần như đi hàng dọc, nên bị lơ là quan sát đề phòng MiG đối phương.
5.8/ Hình minh họa 8:
TLVN: Số 1 Nguyễn Văn Bảy bắn F-8 số 2 từ khoảng cách 400-500 m nhưng đạn lệch trái).
TLM: F-8 số 2 đột ngột thấy luồng đạn sáng (tracer) vọt qua bên trái buồng lái, vội báo động cho số 1.
4.9/ Hình minh họa 9:
Lịch sử Trung đoàn 923
5/ Còm thêm:
Như vậy, chiếc F-8 bị bắn rơi trong thành tích của cụ Bẩy, là nó vẫn về hạ cánh được trên tầu sân bay.