Tần Thủy Hoàng (259 TCN – 210 TCN), tên thật là Doanh Chính, là vị vua đầu tiên thống nhất Trung Hoa và cũng là Hoàng đế sáng lập triều Tần. Ông được xem là một trong những nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, vừa được ca ngợi là nhà cải cách thiên tài, vừa bị phê phán là bạo chúa hà khắc.
Năm 246 TCN, cha mất, Doanh Chính lên ngôi Tần Vương lúc mới 13 tuổi. Lúc đầu, quyền lực thực tế nằm trong tay thừa tướng Lã Bất Vi và mẹ ông. Sau này ông dần nắm quyền, loại bỏ phe cánh của Lã Bất Vi và quyền lực mẫu hậu, củng cố uy thế tuyệt đối.
Thời kỳ Chiến Quốc, thiên hạ chia thành 7 nước lớn: Tần, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên, Tề.
Tần vốn là quốc gia hùng mạnh ở phía tây, dưới sự cai trị của Doanh Chính, nước Tần liên tục tiến hành chinh phạt:
- 230 TCN: diệt nước Hàn.
- 228 TCN: chiếm nước Triệu.
- 225 TCN: diệt Ngụy.
- 223 TCN: diệt Sở.
- 222 TCN: diệt Yên.
- 221 TCN: diệt Tề, thống nhất toàn cõi Trung Hoa.
Sau khi chấm dứt cục diện phân liệt kéo dài hàng trăm năm, Doanh Chính tự xưng Hoàng đế, lấy hiệu là Tần Thủy Hoàng ( nghĩa là "Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần").
Sau khi thống nhất, Tần Thủy Hoàng tiến hành nhiều cải cách để củng cố quyền lực và tạo nền tảng cho một nhà nước trung ương tập quyền.
- Chính trị:
- Bãi bỏ chế độ phong kiến cát cứ, thay bằng chế độ quận huyện, vua trực tiếp bổ nhiệm quan lại.
- Tập trung quyền lực vào hoàng đế, hình thành chế độ quân chủ chuyên chế đầu tiên.
- Pháp luật:
- Kế thừa tư tưởng pháp gia, luật lệ nghiêm khắc, hình phạt nặng nề.
- Thực hiện chính sách “phần thư khanh nho” (đốt sách, chôn nho sĩ) nhằm hạn chế tư tưởng đối lập.
- Kinh tế – xã hội:
- Thống nhất tiền tệ, đơn vị đo lường, văn tự (chữ tiểu triện).
- Mở rộng kênh đào, giao thông, phát triển thương mại.
- Xây dựng đại công trình: Vạn Lý Trường Thành (kết nối nhiều đoạn tường cũ), Cung A Phòng, Lăng mộ Tần Thủy Hoàng với đội binh mã dũng nổi tiếng.
Càng về cuối đời, Tần Thủy Hoàng càng ám ảnh với cái chết và điên cuồng tìm kiếm phương thuốc trường sinh. Ông tin rằng mình vẫn sẽ tiếp tục cai trị ở thế giới bên kia. Vì vậy, ông đã huy động một lực lượng nhân công khổng lồ để xây dựng cho mình một
"thành phố dành cho người chết" dưới lòng đất, mô phỏng hoàn chỉnh hoàng cung, kinh thành và toàn bộ đế chế của ông khi còn sống.
Lăng mộ Tần Thủy Hoàng được xây dựng suốt 38 năm (từ khi Doanh Chính lên ngôi năm 246 TCN cho đến khi mất năm 210 TCN). Theo sử sách, hơn 700.000 nhân công được huy động. Lăng chính nằm trong một gò đất cao hơn 50 m, diện tích khu mộ khoảng 56 km², được coi là lăng mộ hoàng đế lớn nhất thế giới. Trong lòng mộ tái hiện cung điện dưới lòng đất: có cung điện, lầu gác, sông núi thu nhỏ. Sử ký Tư Mã Thiên mô tả bên trong có cơ quan ngăn trộm mộ, dòng sông thủy ngân chảy tượng trưng cho Hoàng Hà – Trường Giang, trần mộ khảm ngọc thạch như bầu trời đầy sao. Cho đến nay, lăng chính vẫn chưa được khai quật vì lý do bảo tồn, chỉ các hố phụ cận được khảo cổ.
Nhà em bắt đầu thăm quan đội quân đất nung (Terracotta Army) từ hố số 1, đây là hố lớn nhất với kích thước 230m × 62m, có đội hình bộ binh và kỵ binh, có tổng cộng khoảng 6.000 tượng.
Mỗi tượng cao khoảng 1,7 – 2m, có khuôn mặt, biểu cảm, kiểu tóc, dáng đứng và trang phục riêng biệt, phản ánh đa dạng các sắc tộc, quê quán và cấp bậc trong quân đội nhà Tần. Từ các đường vân trên lòng bàn tay, nếp gấp áo giáp, đôi mắt sắc bén đến kiểu râu và búi tóc đều được tạo tác vô cùng tỉ mỉ. Ban đầu tượng được sơn màu rực rỡ, nhưng phần lớn màu sắc đã mất do oxy hóa sau khi khai quật.
DSC07902 by
Hieu Tran, on Flickr
DSC07903 by
Hieu Tran, on Flickr
DSC07904 by
Hieu Tran, on Flickr
DSC07905 by
Hieu Tran, on Flickr