[CCCĐ] Hành trình vòng quanh thế giới: Trung Quốc, 28 ngày đêm

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
_DSF0998 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF0999 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1001 by Hieu Tran, on Flickr

Đi đến cuối của Trường Lang là Thạch Thuyền (Marble Boat), được xây dựng vào năm 1755, dưới thời Hoàng đế Càn Long. Ban đầu, thuyền được dựng bằng gỗ, nhưng phần thân được sơn vẽ giả đá cẩm thạch. Ý tưởng xuất phát từ quan niệm: “quốc gia vững chắc như đá, thuyền (triều đình) sẽ không bao giờ chìm”. Sau khi Di Hòa Viên bị tàn phá bởi liên quân Anh – Pháp năm 1860, Từ Hy Thái hậu ra lệnh trùng tu vào năm 1893. Lúc này, Marble Boat được làm lại bằng đá cẩm thạch và gạch men trắng, với cấu trúc chắc chắn, dài khoảng 36 mét.

_DSF1004 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1006 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1008 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Đứng từ đây nhìn rất rõ cầu Thập Thất Khổng (Seventeen-Arch Bridge). Do nắng và ngại đi xa nên nhà mình chỉ đứng từ đây ngắm cầu :)

DSC06460 by Hieu Tran, on Flickr

Thập Thất Khổng được xây dựng vào thời Càn Long (1736 – 1795), khi hoàng đế mở rộng và quy hoạch lại toàn bộ khu vườn Nguyên Minh Viên thành Di Hòa Viên. Cầu có chiều dài khoảng 150 mét, rộng 8 mét, là cây cầu đá lớn nhất ở Di Hòa Viên. Cầu có 17 nhịp vòm – nên có tên là “Cầu thập thất khổng” và được xây hoàn toàn bằng đá cẩm thạch và đá hoa cương, ghép chặt không cần xi măng.

Hai bên lan can cầu có tổng cộng 544 con sư tử đá với hình dáng, tư thế khác nhau: con ngồi, con nằm, con chơi bóng, con mẹ dắt con… Đầu cầu có hai tượng thú đá lớn (kỳ lân, voi, sư tử, ngựa…), thể hiện ý nghĩa cát tường, hộ mệnh và uy quyền.

_DSF1056 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1059 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1074 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Ngày thứ 11: Lang thang phố cổ Bắc Kinh và bắt tàu đi Đại Đồng
6:30 sáng ngày thứ 11 bà nội và hai đứa cháu bắt taxi để ra sân bay bay về lại Việt Nam. Từ đây cho đến hết ngày thứ 28 chỉ còn lại gia đình mình với 4 thành viên đi khám phá tiếp Trung Hoa rộng lớn. Lúc đầu dự định gửi đồ khách sạn rồi đi chơi phố cổ Bắc Kinh sau đó quay lại lấy đồ để bắt tàu đi Đại Đồng. Nhưng sau khi nhìn thấy cung đường thì như vậy rất là mua đường bởi vậy nhà mình quyết định trả phòng và vác theo đồ đi. Bắt taxi đi đến ga Bắc Kinh Bắc, đây là ga mà buổi chiều nhà mình sẽ bắt tầu đi Đại Đồng. Gửi đồ ở đó, cả nhà đi đến khu phố cổ chơi

Bắc Kinh đúng hôm đó là bắt đầu cho mấy ngày nắng nóng kinh khủng, nhiệt độ cao điểm lên đến 37 độ. Gửi đồ xong, ra khỏi ga Bắc Kinh Bắc mà thấy nóng há mồm và nắng vàng mắt :(

PXL_20250604_084040957 by Hieu Tran, on Flickr

PXL_20250604_023348705 by Hieu Tran, on Flickr

PXL_20250604_084016505 by Hieu Tran, on Flickr

PXL_20250604_023629240 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Hồ Thập Sát nằm ở quận Tây Thành (Xicheng District), trung tâm Bắc Kinh, phía tây bắc Tử Cấm Thành và liền kề với khu phố cổ Hồ Đồng (Hutong). Tên chùa được cho là bắt nguồn từ việc xung quanh hồ từng có mười ngôi chùa (thập sát) nổi tiếng. Vì vậy, người dân quen gọi vùng hồ này là Hồ Thập Sát, tên gọi lưu truyền cho đến ngày nay.

_DSF1104 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1105 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1108 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1110 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Ghé quán này bởi thấy có bảng quảng cáo Michelin mấy năm liền. Quán chuyên bán kem, sữa chua và nước uống. Kem và sữa chua khá ngon

_DSF1106 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1112 by Hieu Tran, on Flickr

PXL_20250604_030950409 by Hieu Tran, on Flickr

Duy có chai nước, nhìn cứ tưởng như nước đậu tương nhưng uống vào có mùi rất khó chịu, nên em chỉ uống dc 1 ngum, nhưng ko dám vất ở đó sợ người bán hàng nghĩ ngợi, sau phải tìm thùng rác vất đi

PXL_20250604_031251737.MP by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Nhà mình thấy hồ cũng ko có gì nổi bật, cũng như mấy hồ ở nhà, xung quanh là đường đi dạo và các quan cà phê. Bởi vậy cả nhà chuyển hướng đi thăm mấy ngõ của khu phố cổ Hồ Đồng (Hutong) gần đó.

Hutong là các con ngõ, hẻm nhỏ chạy ngang dọc ở Bắc Kinh, hình thành từ thời Nguyên (1271–1368) khi kinh đô Đại Đô được xây dựng theo quy hoạch ô bàn cờ. Tên gọi “hutong” được cho là bắt nguồn từ tiếng Mông Cổ “hottog”, nghĩa là giếng nước, bởi xưa kia dân cư thường tụ họp quanh giếng để sinh sống, rồi dần dần hình thành nên các ngõ. Các hutong thường chạy thẳng, hẹp, song song hoặc vuông góc, tạo thành mạng lưới như bàn cờ xung quanh Tử Cấm Thành. Có ngõ dài tới vài trăm mét, cũng có ngõ chỉ ngắn vài chục mét, các ngõ có chiều rộng thường từ 2–9 mét, đủ cho xe ngựa hoặc xe đạp đi lại, nay chủ yếu là lối đi bộ. Nhà cửa hai bên hutong chủ yếu là tứ hợp viện (Siheyuan) – loại nhà truyền thống hình vuông, có sân trong, tường cao, mái ngói xám, cửa gỗ sơn đỏ.

_DSF1138 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1139 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1140 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1143 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Các hutong từng là nơi cư trú của nhiều tầng lớp – từ hoàng thân quốc thích, quan lại, trí thức, đến dân thường. Hutong là “linh hồn” của Bắc Kinh cổ, gắn với lối sống cộng đồng, hàng xóm láng giềng gần gũi. Nhiều sự kiện, nhân vật lớn của Trung Quốc từng gắn bó với các hutong. Bắc Kinh từng có khoảng 6.000 hutong, nay còn khoảng hơn 1.000 hutong được bảo tồn.

_DSF1141 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1144 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1145 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1146 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Kiến trúc Tứ hợp viện (Siheyuan), kiểu nhà đặc trưng nằm trong các hutong ở Bắc Kinh.

1756089254344.png


Tứ hợp viện nghĩa là “bốn mặt quây lại thành sân”, là kiểu nhà truyền thống phổ biến ở Bắc Kinh và miền Bắc Trung Quốc. Đây là đơn vị cơ bản tạo nên các hutong, đồng thời phản ánh triết lý phong thủy – Nho giáo – trật tự gia tộc trong kiến trúc Trung Hoa cổ. Tứ hợp viện không chỉ là nơi ở, mà còn là không gian sinh hoạt chung, thể hiện rõ sự phân cấp trong gia đình và quan niệm “trời tròn – đất vuông”.
Một tứ hợp viện tiêu chuẩn thường bao gồm: Sân chính nằm ở trung tâm, hình vuông hoặc gần vuông, vừa là không gian sinh hoạt chung, vừa tạo sự thoáng đãng, ánh sáng và thông gió. Các dãy nhà gồm có:
Chính phòng nằm ở phía Bắc, quay mặt về hướng Nam (theo phong thủy: hướng Nam ấm áp, nhiều ánh sáng). Đây là nơi trang trọng nhất, dành cho chủ gia đình, người lớn tuổi nhất. Chính phòng thường có 3 gian (trung gian để bàn thờ tổ tiên, hai bên làm phòng ngủ).
Hai dãy Đông phòng và Tây phòng nằm hai bên sân, đối xứng nhau, dành cho con cái, anh em, hoặc khách có cửa sổ quay ra sân, tạo cảm giác gắn kết.
Tiền phòng nằm phía Nam, đối diện chính phòng, dùng làm nơi ở cho người hầu, gia nhân, hoặc làm kho chứa, đôi khi dùng làm phòng tiếp khách bình dân.
Cổng chính của tứ hợp viện thường mở về phía Đông Nam, thuận theo quan niệm phong thủy. Cổng có hai cột trụ đá hoặc bức bình phong đặt sau cổng để chắn gió, tránh “tà khí” xộc thẳng vào nhà, đồng thời tạo sự kín đáo.


_DSF1147 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1150 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1157 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1161 by Hieu Tran, on Flickr
 
Chỉnh sửa cuối:

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Cựu cư Mao Thuẫn (Maodun Former Residence) ở Số 13 Houyuan’ensi Hutong, là ví dụ điển hình về kiến trúc tứ hợp viện

Cổng phía trước, đằng sau là bức tướng, đứng ở ngoài không nhìn được phía bên trong

_DSF1163 by Hieu Tran, on Flickr

Sân chính

_DSF1167 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1168 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1169 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Mao Đôn (1896–1981), là một trong những nhà văn và nhà phê bình văn học hiện đại vĩ đại nhất của Trung Quốc. Ông sinh ra tại Đông Trấn trong một gia đình trí thức Nho học. Cha mất sớm khi ông mới 10 tuổi, mẹ – một phụ nữ có học vấn – đã dạy dỗ và truyền cho ông tình yêu tri thức, sách vở. Thủa nhỏ ông học tại Hàng Châu, tiếp xúc với tư tưởng khai sáng và tân học. Năm 1913 ông đỗ vào Đại học Bắc Kinh (Peking University), khoa văn học, nhưng vì khó khăn tài chính nên không thể hoàn tất chương trình. Năm 1916 ông tham gia giảng dạy, sau đó làm biên tập viên. Ông say mê đọc các tác phẩm văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Nga (Tolstoy, Turgenev, Gorky), ảnh hưởng mạnh đến phong cách sáng tác sau này. Thập niên 1920–1930 ông tích cực tham gia các hoạt động chính trị cánh tả, sử dụng văn chương như công cụ phê phán xã hội, ủng hộ cách mạng và phong trào công nhân.

Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, Mao Đôn trở thành Bộ trưởng Bộ Văn hóa (1949–1965). Ông có vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách văn hóa, phát triển nghệ thuật và văn học dưới chế độ mới. Thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1967), ông bị phê phán nhưng được bảo vệ ở mức độ nhất định nhờ uy tín văn hóa.

_DSF1170 by Hieu Tran, on Flickr

PXL_20250604_041158011.MP by Hieu Tran, on Flickr

PXL_20250604_041339202 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,011
Động cơ
582,398 Mã lực
Miếu Đông Nhạc (Dongyue Miao)là một trong những ngôi miếu đạo giáo lớn và quan trọng bậc nhất ở thủ đô, đồng thời cũng là một trong những di tích hiếm hoi còn lại phản ánh tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa về thần núi, âm phủ và các vị thần bảo hộ nhân gian. Đây là nơi thờ Đông Nhạc Đại Đế (vị thần chủ quản núi Thái Sơn (ở Sơn Đông), ngọn núi linh thiêng nhất trong “Ngũ Nhạc” (5 ngọn núi thiêng của Trung Quốc).

Miếu Đông Nhạc được xây dựng vào năm 1319, thời nhà Nguyên với mục đích tôn thờ Đông Nhạc Đại Đế và các vị thần cai quản âm phủ, bảo hộ nhân gian, đồng thời phản ánh hệ thống vũ trụ quan và quan niệm đạo đức của người Trung Hoa cổ đại.

_DSF1176 by Hieu Tran, on Flickr

Lối vào cổng chính có 2 hình người đứng gác hai bên

_DSF1182 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1183 by Hieu Tran, on Flickr

_DSF1177 by Hieu Tran, on Flickr
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top