Sau sự sụp đổ của nhà Thanh, Trung Quốc rơi vào tình trạng cát cứ quân phiệt. Thanh Hải, Cam Túc và Ninh Hạ nằm dưới sự kiểm soát của các thế lực quân phiệt Hồi giáo nổi tiếng như gia tộc Ma (Ma Bufang, Ma Hongkui, etc.). Tây Ninh trở thành thủ phủ trên thực tế của Ma Bufang.
Ma Bufang, với danh nghĩa một tín đồ Hồi giáo, đã thực hiện một chính sách "vừa khai thác vừa bảo trợ". Ông tài trợ xây dựng và tu bổ các thánh đường Hồi giáo (trong đó có Đại Thánh đường Đông Quan), thành lập các trường Hồi giáo (madrasas), và khuyến khích các hoạt động tôn giáo. Điều này nhằm mục đích tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Hồi giáo và củng cố quyền lực của mình. Mặt khác, ông ta cũng kiểm soát chặt chẽ giới tăng lữ Hồi giáo, sử dụng hệ thống tôn giáo như một công cụ để cai trị và huy động nguồn lực (tài chính, nhân lực) cho bộ máy quân sự của mình. Dưới sự cai trị của quân phiệt, cộng đồng Hồi giáo ở Tây Ninh có được một không gian tương đối ổn định để phát triển. Các hoạt động thương mại (đặc biệt là buôn bán lông thú, ngựa) phát triển, và văn hóa Hồi giáo được duy trì mạnh mẽ. Tuy nhiên, họ cũng phải chịu sự đóng góp cưỡng bức và chiến tranh giữa các phe phái.
Sau khi nước CHND Trung Hoa vào năm 1949, Tây Ninh và toàn bộ khu vực này được giải phóng khỏi sự cai trị của quân phiệt. Giai đoạn này mang đến những thay đổi cực kỳ to lớn. Chính quyền mới thực hiện các chiến dịch xóa bỏ chế độ phong kiến. Các thủ lĩnh tôn giáo và thương nhân Hồi giáo giàu có (thường là địa chủ) bị đấu tố, tài sản bị tịch thu. Hệ thống giáo dục Hồi giáo truyền thống bị suy yếu nghiêm trọng. Trên lý thuyết, nhà nước công nhận quyền tự do tín ngưỡng và thành lập các khu t.ự t.r.ị dân tộc (như Khu t.ự t.r.ị dân tộc T.ạ.n.g Thanh Hải, bao gồm Tây Ninh). Người Hồi giáo được công nhận là một "dân tộc" (Hui). Tuy nhiên, trên thực tế, tôn giáo bị xem là một trở ngại cho c.h.ủ n.g.h.ĩ.a x.ã h.ộ.i.
Đỉnh điểm là Cách mạng Văn hóa (1966-1976): Đây là thời kỳ đen tối nhất đối với người Hồi giáo Tây Ninh và cả nước. Các thánh đường Hồi giáo, bao gồm cả Đại Thánh đường Đông Quan, bị đóng cửa, chiếm đóng, hoặc phá hủy. Nhiều kinh Quran bị đốt.Các giáo sĩ (Imam) và tín đồ bị quấy nhiễu, đấu tố, và bức hại vì hoạt động tôn giáo. Mọi nghi lễ tôn giáo như cầu nguyện, ăn chay Ramadan bị cấm đoán và đàn áp. Bản sắc tôn giáo và văn hóa của người Hồi giáo bị đe dọa nghiêm trọng.
Sau cái chết của Mao Trạch Đông và sự kết thúc của Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc bước vào thời kỳ "Cải cách và Mở cửa" dưới thời Đặng Tiểu Bình. Chính sách tôn giáo được nới lỏng đáng kể. Từ cuối thập niên 1970, các thánh đường Hồi giáo được trả lại và tu sửa với quy mô lớn. Đại Thánh đường Đông Quan được trùng tu và mở rộng, trở lại là trung tâm của đời sống cộng đồng. Các tín đồ được tự do hành lễ, ăn chay, và tổ chức lễ hội. Các trường kinh Quran được mở lại. Số lượng người hành hương đến Mecca từ Tây Ninh tăng lên nhanh chóng nhờ sự giàu có kinh tế.
Các chính sách kinh tế thị trường đã giúp nhiều người Hồi giáo ở Tây Ninh phát triển các ngành nghề truyền thống như ẩm thực, buôn bán, logistics, và du lịch. Khu vực quanh thánh đường Đông Quan trở thành một trung tâm thương mại sầm uất.
Tuy nhiên sự phục hưng này không có nghĩa là tự do hoàn toàn. Nhà nước Trung Quốc thông qua Cục Quản lý Tôn giáo Nhà nước và Hội Hồi giáo Trung Quốc (Islamic Association of China) giám sát chặt chẽ
- Kiểm soát giáo dục: Các bài giảng trong thánh đường phải tuân thủ "chủ nghĩa yêu nước" và ủng hộ sự lãnh đạo của Đ.ả.n.g.
- Can thiệp vào giáo lý: Thúc đẩy "Hồi giáo đặc sắc Trung Quốc" (Sinicization of Islam), nhấn mạnh việc dung hợp với văn hóa xã hội chủ nghĩa, hạn chế ảnh hưởng từ các trào lưu Hồi giáo bên ngoài.
- Đàn áp các biểu hiện cực đoan: Mọi hình thức mà nhà nước cho là "cực đoan" hoặc "ly khai" đều bị đàn áp mạnh mẽ. Điều này đặc biệt nghiêm ngặt ở Tây Ninh, một cửa ngõ chiến lược đến T.â.y T.ạ.n.g và T.â.n C.ư.ơ.n.g.
_DSF1944 by
Hieu Tran, on Flickr
_DSF1950 by
Hieu Tran, on Flickr
_DSF1951 by
Hieu Tran, on Flickr
_DSF1952 by
Hieu Tran, on Flickr