Còn đây là một chuyện ngắn trinh thám - kinh dị mà em yêu cầu chatgpt viết dựa trên một sự kiện về kỳ án làng Đá Cóc nấu cao người. Đây là đường prompt em viết cho chatgpt:
"Giả sử bạn là nhà văn chuyên nghiệp chuyên viết về mảng trinh thám- kinh dị, dựa trên dữ liệu trong câu chuyện dưới đây hãy viết một truyện ngắn về đề tài trinh thám - kinh dị , với nhân vật chính là điều tra viên Lê Kha đi du lịch cùng với gia đình tại một bản làng ở vùng núi phía Bắc"
Dữ liệu cung cấp cho chatgpt:
Kỳ án cả làng nấu cao người ở Phú Thọ
27 năm đã trôi qua, nhưng những người dân thôn Đá Cóc vẫn không thôi sợ hãi về hình ảnh người thợ săn ông Đinh Văn Ngạch (sinh năm 1946, ngụ thôn Đá Cóc, xã Thắng Sơn, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ) buộc xá.c “con tinh tinh quý hiếm” bằng dây rừng rồi vượt mấy ngọn đồi cao kéo về sân nhà và cùng dân làng nấu cao.
Thời điểm đó, ông Đinh Văn Ngạch được một chủ rừng trong vùng tên Nguyễn Văn Ước thuê trông coi khu rừng trồng cây lấy gỗ trên đồi Đồng Cốc, cách nhà hơn 3km.
Chiều ngày 5/12/1998, ông phát hiện một vật thể lạ, đã cháy đen, dáng giống hệt một con khỉ, nhưng to lớn hơn khỉ vài lần. Nhìn vật thể cháy đen, ông thợ săn suy đoán đây là một con vật chế.t cháy. Quan sát kỹ hình dáng, ông thợ săn khẳng định đây là loài tinh tinh quý hiếm. Ông tìm loại dây rừng bền chắc, dẻo, buộc vào x.ác, vắt dây lên vai, kéo vượt qua quả đồi, đưa về làng.
Biết tin ông Ngạch săn được loài “động vật quý hiếm” xưa nay chưa từng xuất hiện ở địa phương, dân làng từ già đến trẻ nô nức kéo đến sân nhà ngắm nghĩa, trầm trồ ngợi khen.
Ông Hoàng Văn Dũng, Trưởng thôn Đá Cóc nhớ lại, khi đó ông đã làm trưởng thôn cũng sang xem tình hình. Theo mô tả của ông trưởng thôn, cái xá.c khi ấy đã bị biế.n dạn.g, chá.y xém, đen thui, lưng gù, bắp chân vừa to vừa dài. Đặc biệt, quan sát thấy hai bàn tay co quắp, móng tay khá dài, chi trước phồng lên.
“Trông giống y hệt con tinh tinh mà mọi người được xem trong tranh ảnh, tivi. Quả thật nó quá giống khiến cả tôi khi đó cũng tin rằng đó là loài vật quý hiếm”, ông trưởng thôn trần tình. Vì thấy “con vật” có kích thước to, dài, dân làng còn khiêng ra giữa sân để đo chiều dài, cân nặng.
Sáng hôm sau, ông Ngạch cùng anh em trong nhà và một số hàng xóm thân thích chuẩn bị da.o, thớt, gầu múc nước, ra ao đầu làng. “Con tinh tinh” được khiêng theo để rửa sạch, m.ổ x.ẻ. Tổng cộng có khoảng trên 10 người trực tiếp tham gia việc m.ổ xá.c, cùng hàng chục người khác là dân làng tò mò đến xem.
Cũng trong buổi sáng hôm đó, thông tin về việc dân làng bắt được “động vật quý hiếm” đã đến tai cơ quan chức năng. Một cán bộ kiểm lâm địa phương được cử đến nhưng lúc đó người dân đã m.ổ xá.c xong. Sau khi xươn.g, t.hịt được phân loại xong xuôi, họ bắt tay nấu cao. Ông trưởng thôn còn năn nỉ mua lại một phần xươn.g cố.t để mang về nấu cao, nhưng không được thợ săn đồng ý. “Cũng may về sau tôi không mua được. Nghĩ lại đến giờ vẫn thấy rùng mình dựng hết gai ốc”, ông trưởng thôn nhớ lại.
Hơn chục người cả ngày lẫn đêm thay phiên nhau trực nồi cao. Lò lửa luôn được đố.t hết công suất, lâu lâu lại thêm nước vào nồi, tránh việc nước cạn, có thể cháy nồi cao. Ai cũng háo hức chờ đợi “nồi cao quý” ra lò.
Sau 3 ngày 3 đêm, việc nấu cao hoàn thành. Loại cao này khá mềm, có màu đỏ nhạt chứ không giống màu nâu, cứng như những cao khỉ thông thường. Bõ công bao ngày háo hức chờ đợi, nay nồi cao nấu xong, mọi người liền đi mua rượu, ngâm với một phần cao rồi tò mò thưởng thức “rượu quý”. Rất đông dân làng cùng được uống loại rượu này chứ không riêng ai.
Nồi cao nấu xong, được ngâm rượu để nhiều người làng tới nếm thử. Nhân chứng Nguyễn Văn Đông (SN 1964, ngụ khu Dốc Cóc, xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ), một người hôm đó tình cờ có mặt tại thôn Đồng Cóc, cũng được “thưởng thức” loại rượu này, nhớ lại: “Chủ nhà mời tôi uống hai chén nhỏ, còn dặn “cao này quý, uống ít mới bổ, có tác dụng””. “Cao tinh tinh” màu đỏ nhờ, khi pha vào rượu, hỗn hợp này lại có màu vàng như mỡ gà. Đặc biệt, cảm giác gây gây khi uống thì đến chế.t vẫn không quên được.
“Tinh tinh làm gì có những thứ này”
Nhóm người bên bàn nhậu đó theo chân ông Tám lần tìm lên ngọn đồi mà ông Tám đã chứng kiến đám cháy vào cái đêm hôm đó. Khu vực xảy ra đám cháy rất dễ để nhận thấy bởi lẽ ở 1 bãi đất bằng phẳng có 1 khoảng đất rộng chừng 2 manh chiếu và có dấu hiệu chá.y sém rất rõ ràng.
Ông Tám chính là người chủ động dùng que gậy lật tìm, mò mẫm trong đống tro tàn tiêu điều và lạnh lẽo. Sau vài lần bới đám tro lên, 1 chiếc cúc áo bằng đồng, 1 cặp tóc bằng nhôm, vài ba mảnh vải màu xám còn đang cháy dở lộ ra.
Vốn đã mang sẵn trong lòng những nghi ngờ, ông Tám tiếp tục tìm kiếm xung quanh thì phát hiện ra 1 vài thanh củi cháy dở dang có những sợi dài như sợi tóc ngườ.i.
Đám người bủn rủn tay chân, ngồi phịch xuống đất cố gắng lấy lại bình tĩnh. Lúc này có lẽ họ đã phần nào đoán ra món hời mà họ những tưởng không phải là “xá.c tinh tinh quý hiếm”.
Ông Tám thu thập những món đồ này và cả những sợi tóc tìm thấy quay sang nói với mọi người có mặt tại đó.
“Vùng này không thể có tinh tinh. Mà tinh tinh thì làm gì có tóc và những thứ này?”
Họ mang theo tâm trạng nặng nề chưa từng có. Sợ hãi tột cùng xen lẫn với cảm giác rùng rợn khiến họ lê những bước chân nặng nề về làng. Ông Tám là người nhận nhiệm vụ giữ những vật dụng thu lại được tại hiện trường vụ cháy đêm đó thậm chí không dám ngủ lại lán trông coi rừng mà phải về trong làng. Những vật dụng ông cầm theo cứ như thể lúc nặng lúc nhẹ.
Nồi cao hôm đó, sau khi cô đặc lại, có trọng lượng hơn 1kg. Trong thời gian chờ cao khô cứng để phân chia, mọi người rụng rời chân tay vì một nghi vấn. Mới nghe đặt giả thiết, người nào đã lỡ uống “cao tinh tinh”, cảm giác gây gây lại xộc lên, móc mồm móc miệng ọe ra cả tuần lê lết.
Không ai ngờ cái xá.c hôm ấy là xá.c người.
Tổng cộng hơn 20 người trực tiếp nấu cao hoặc chứng kiến việc nấu cao đều được triệu tập lấy lời khai. Tuy nhiên, tất cả những người này đều nhất loạt khai khi đó không biết xá.c ch.ết là con người. Bản thân ông thợ săn, người đầu tiên phát hiện ra x.ác c.hết và mang về làng nấu cao, cũng một mực cho rằng khi ông lên rừng thì phát hiện “con tinh tinh” khi đó đã có biểu hiện phân hủy nhẹ, ruồi nhặng bâu đầy. Chuyện xá.c người ông còn nhầm lẫn, thì vì sao nạ.n nh.ân chế.t, ông không hề hay biết. Sau đó, mọi người thoát tội.
Người xấu số được xác định là bà Đinh Thị Minh (sinh năm 1949, ngụ đội 7, xã Yên Lương) mất tích trước đó ít ngày. Khi đi bà đi dép tông màu vàng, đội nón trắng, khoác túi đựng quần áo, cầm một can đựng nước. Chưa cần kết quả xét nghiệm, những vật ch.ứng tìm thấy tại hiệ.n tr.ường đã đủ cho thấy 90% x.ác đó chính là bà Minh.
Ông Đinh Văn Xoan em trai nạn nhân cho biết, chị gái mình là con thứ 2 trong gia đình có 5 anh em. Lớn lên bà theo học một lớp sư phạm, nhưng thời chiến tranh, đang học thì nhà trường giải thể, bà quay về sống với bố mẹ.
Lúc đó, các chị em còn lại trong gia đình đều đã lập gia đình, ra ở riêng. Bà Minh ở vậy cấy cày, làm lụng nuôi bố mẹ già và em trai. Trong ký ức của ông Xoan, chị gái mình là người hiền lành, chăm chỉ và chu đáo. Cuộc sống gia đình dù vất vả nhưng đủ ăn, mọi người thương yêu nhau.
Sáng đó, vợ chồng ông đi làm nương rẫy sớm, con cái đi học, một mình chị gái ở nhà. Đến tối đi làm về, không thấy chị gái đâu, vợ chồng ông hỏi hàng xóm thì được biết, khoảng 9h sáng, thấy bà Minh đi khỏi nhà, ra đường cái bắt xe ngược lên theo hướng thị trấn Thanh Sơn.
Sau 3 hôm không thấy chị gái về, cũng không nhận được tin tức gì, gia đình thông báo tới công an và chính quyền. Gần một tháng sau, gia đình mới nghe được tin ở xã bên có sự việc một người ch.ết cháy ở trên đồi, đã bị nấu cao vì nhầm tưởng là tinh tinh. Ông Xoan được côn.g an mời ra ủy ban xã lấy mẫu đi xét nghiệm ADN, đến lúc ấy mới hay hóa ra người chế.t cháy kia chính là chị gái mình.
Ông nhớ lại: “Sau đó công an giao cho gia đình tôi một hũ tiểu đựng chiếc đầu lâ.u, túi bóng đựng ca.o, một số x.ương xẩu và vài cái khuy áo, cặp tóc… Gia đình tôi rất sốc, không tin là người nhà mình làm sao mà đến nông nỗi này”.
Nén lại đau thương, gia đình tổ chức đám tang như bình thường cho người xấu số. Rất đông dân làng tự nguyện quyên góp công sức, tiền bạc để đám tang tươm tất nhất có thể.
Cái chế.t của bà Minh vì động cơ gì, mãi mãi vẫn chìm trong bí ẩn. Chỉ có lời khai suy đoán từ một nhân chứng duy nhất là ông Tám, người đã phát hiện ra sự thật “tinh tinh” chính là x.ác người. Đêm ấy ông đã chứng kiến vụ cháy ở ngọn đồi phía bên kia, nhưng nạn nhân tự vẫn, hay nạn nhân bị sát hại rồi đem lên đồi đố.t x.ác ph.i tan.g vẫn chưa được giải đáp.
Sau sự việc, dân địa phương kể cho nhau rằng, bà Minh có gom góp được hai bông tai bằng vàng trị giá 2 chỉ. Hôm bỏ nhà ra đi, khoảng 17h, bà đến địa phận xã Thắng Sơn, định bắt xe đi La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ). Bà đợi một hồi lâu nhưng không có xe, nên quay lại.
Theo suy đoán của một số người, sau khi bà không bắt được xe, định quay lại thì bị kẻ xấu sát hại, cướ.p đôi bông tai bằng vàng và đ.ốt x.ác phi tan.g. Suy đoán này khá có cơ sở, vì sau đó những đồ dùng của bà đều được tìm thấy, riêng đôi bông tai bằng vàng là không thấy đâu. Dù có bị chá.y, vàng cũng không thể tan ra thành nước ngấm xuống đất. Nếu không bị cướp, thì có thể một ai đó sau này khi đến hiện trường vụ chá.y, đã nhanh tay đút túi.
Tuy nhiên, Trưởng thôn Đá Cóc Hoàng Văn Dũng cho biết, theo điều tra của công an, nạ.n nh.ân chế.t là do t.ự vẫ.n. Bà Minh sống một mình không chồng con, thời gian đó lại xích míc.h với gia đình người em nên bà nghĩ q.uẩn. Sau khi không bắt xe đi được đến nhà người quen, bà đã mang chiếc can nhựa đi mua xăng, sau đó lên đồi thu dọn lại củi rồi tưới xăng châ.m lử.a đ.ốt tự thiê.u.
Kết luận chính thức của cơ quan điều tra lại không thuyết phục được người thân n.ạn nhâ.n. Em trai bà cho biết, chị gái mình có thói quen mang theo can là để đựng nước uống khi đi xa, nhất là đi tàu xe. Hơn nữa, không lý do gì bà lại đi đến một nơi xa xôi như vậy mới t.ự vẫ.n. Ngoài ra, nếu có ý định t.ự vẫ.n thì tại sao khi rời khỏi nhà bà lại mang theo túi quần áo.
Và đây là kết quả do chatgpt sáng tác, các cụ hãy xem cách nó xử lý dữ liệu, xây dựng cốt truyện và hành văn mang hơi hướng trinh thám- kinh dị như thế nào.
Sự thật dưới tro tàn
Mở đầu
Chiều muộn, chiếc xe bán tải của gia đình Lê Kha bò chậm rãi trên con đường đất đỏ ngoằn ngoèo dẫn vào thôn Đá Cóc. Ánh nắng cuối ngày còn vương nhạt trên những đỉnh núi xanh thẫm, hắt xuống thung lũng một màu vàng úa hiu hắt. Con đường mòn nhỏ hẹp, một bên là vách đá xám xịt lổn nhổn, bên kia là vực sâu ẩn mình dưới tán rừng già rậm rạp. Lê Kha nắm chặt vô-lăng, cố gắng giữ bình tĩnh khi bánh xe trượt qua những ổ gà lầy lội còn đọng nước sau trận mưa rừng đêm qua. Vợ anh, Linh, ngồi bên ghế phụ, lo lắng ngoái lại nhìn cậu con trai bảy tuổi đang ngủ gật phía sau. Cả gia đình đã trải qua quãng đường dài gần một ngày trời để đến được vùng núi phía Bắc này. Ban đầu Kha chỉ định đưa vợ con đi đổi gió vài hôm, về với thiên nhiên hoang sơ. Anh không ngờ rằng quyết định nghỉ chân ở bản làng heo hút này lại mở ra một hành trình u ám đến thế. Kha liếc nhìn tấm biển gỗ cắm nghiêng bên lề đường: “Thôn Đá Cóc” – dòng chữ trắng đã phai màu theo năm tháng, như lời chào lặng lẽ của miền đất xa xôi. Bầu không khí chiều tà tĩnh mịch đến kỳ lạ, chỉ có tiếng ve kêu râm ran và tiếng gió rì rào trong kẽ lá. Lạ thay, trong sự tĩnh lặng ấy, Kha thoáng cảm thấy như có hàng chục ánh mắt đang dõi theo chiếc xe lạ đang tiến vào thôn. Chiếc xe dừng lại trước một ngôi nhà sàn bằng gỗ đơn sơ nằm nép mình dưới tán cây mận rừng um tùm. Gia đình Kha được trưởng thôn – một người đàn ông khoảng ngoài năm mươi tên Lưu – niềm nở đón tiếp. Ông Lưu mời cả nhà nghỉ lại tại nhà cộng đồng của bản vì thôn không có nhà nghỉ hay khách sạn. Bóng tối dần buông trên núi rừng. Trong căn nhà sàn thoảng mùi khói bếp, Kha ngồi uống chén trà nóng do vợ ông Lưu mang ra, lắng nghe những câu chuyện về cuộc sống người dân bản Đá Cóc. Tiếng nói cười của ông Lưu và Linh vọng ra hòa với tiếng côn trùng rả rích ngoài hiên. Kha mệt mỏi nhưng vẫn cố giữ phép lịch sự, thỉnh thoảng mỉm cười gật đầu khi ông Lưu hào hứng kể về những mùa ngô, mùa lúa, về con suối Mạ quanh năm nước chảy trong veo. Thế nhưng, giữa muôn vàn câu chuyện bình dị ấy, Kha nhận ra đôi lúc ánh mắt ông Lưu tối lại khi chợt nhắc đến một điều gì đó. Những lúc đó, vị trưởng thôn lảng tránh rất nhanh, như không muốn đi sâu thêm. Kha cảm thấy có điều gì bất thường ẩn dưới bề mặt êm đềm của thôn làng này. Cậu bé con của Kha choàng tỉnh sau giấc ngủ, dụi mắt rồi bất chợt hỏi ông Lưu một câu ngây thơ: “Ông ơi, ở đây ban đêm có ma không ạ?” Câu hỏi vô tư của trẻ nhỏ khiến vợ chồng Kha bật cười xin lỗi chủ nhà vì sự vô lễ. Nhưng trái với dự đoán, ông Lưu không cười. Đôi mắt ông dường như thoáng nét bối rối. Sau vài giây, ông vuốt râu, giọng trấn an: “Không, làm gì có ma hả cháu. Mảnh đất này yên bình lắm.” Dù nói vậy, bàn tay ông khi đặt chén trà xuống khay gỗ khẽ run lên, và khóe môi mím chặt. Kha không bỏ sót biểu hiện nhỏ ấy. Bằng trực giác của một điều tra viên dày dạn kinh nghiệm, anh linh cảm ông Lưu đang giấu điều gì. Linh bế con vào buồng trong nghỉ sớm sau chặng đường dài. Ông Lưu cũng xin phép về nhà ở ngay bên cạnh, để mặc Kha ngồi một mình giữa gian nhà vắng lặng. Ngọn đèn dầu leo lét trên vách tỏa ánh sáng vàng vọt. Gió núi hun hút thổi qua khe vách làm bấc đèn chập chờn, bóng Kha in trên vách gỗ lúc duỗi dài, lúc co rúm lại như một hình hài ma quái. Kha mở ba-lô tìm chiếc áo khoác thì tình cờ thấy tập hồ sơ cũ anh mang theo phòng thân. Đó là những tài liệu một vụ án xưa mà anh vừa tái điều tra, còn sót lại trong hành lý. Anh nhớ đến sự bồn chồn lo lắng ẩn hiện trong ánh mắt của vị trưởng thôn ban nãy. Bản năng nghề nghiệp khiến Kha tự hỏi: “Liệu ở thôn Đá Cóc này đã từng xảy ra chuyện gì?” Anh với tay kéo khung cửa sổ nhỏ nhìn ra ngoài. Bóng đêm đã phủ kín núi rừng. Trong khoảng không đen đặc, những đốm sáng leo lắt từ bếp lửa các nhà sàn lác đác hiện lên rồi tắt đi. Xa xa, trên sườn đồi đối diện, dường như có ánh sáng yếu ớt chập chờn. Trông như ánh lửa... Kha nheo mắt quan sát, nhưng chỉ vài giây sau, ánh sáng đó cũng phụt tắt, trả lại màn đêm đặc quánh. Một cơn gió lạnh lùa qua khiến anh rùng mình. Đột nhiên, một mùi hôi ngai ngái bất giác xộc vào khứu giác Kha. Mùi gì như mùi... thịt cháy khét và thảo dược đun sôi. Kha nhăn mặt bịt mũi. Mùi kinh khủng ấy thoắt đến rồi thoắt đi nhanh chóng, khiến anh không khỏi hoang mang. Có lẽ nào do anh quá mệt nên sinh ra ảo giác khứu giác? Chẳng lẽ gần đây có nhà ai nấu cao động vật? Ý nghĩ vừa lóe lên làm Kha giật mình. Anh nhớ lời đứa con hỏi ban nãy về chuyện ma quỷ. Rồi phản ứng kỳ lạ của ông Lưu. Chắc chắn nơi này đang che giấu một bí mật. Kha đóng cửa sổ lại, ngọn đèn dầu lại thôi chao đảo. Anh quyết định ngày mai sẽ dò hỏi thêm người dân trong bản. Với cương vị một điều tra viên lâu năm của phòng cảnh sát hình sự, Kha tin mình có thể nhận ra những dấu hiệu mờ ám nếu chúng tồn tại. Và rõ ràng là chúng đang ở đây, lẩn khuất trong màn đêm tịch mịch của Đá Cóc.
Đêm
Đêm đầu tiên ở Đá Cóc, Kha trằn trọc mãi không ngủ được. Càng về khuya, không gian càng lạnh lẽo. Tiếng côn trùng như lùi xa, trả lại sự tĩnh mịch tuyệt đối. Linh và con trai đã chìm vào giấc ngủ say bên trong buồng, chỉ còn mình Kha thao thức trên chiếc chõng tre giữa nhà. Gần nửa đêm, Kha mơ màng thiếp đi. Trong cơn mơ, anh thấy mình đứng giữa một khoảng rừng đêm mịt mùng. Trước mặt anh, một đống lửa lớn đang cháy bập bùng, khói đen cuồn cuộn bốc lên trời. Xung quanh phảng phất mùi khét lẹt khiến anh lợm giọng. Kha bước tới, nhận ra trên ngọn lửa là một chiếc nồi lớn đang sôi sùng sục. Thứ chất lỏng bên trong sôi trào, bắn lên những bọt bong bóng màu nâu đen, tỏa ra mùi tanh tưởi khủng khiếp. Tim Kha đập dồn. Anh tiến đến, run run cầm que củi khều nắp vung. Nắp nồi từ từ xê dịch, hơi nóng phả ra ngùn ngụt. Qua làn khói, Kha kinh hãi thấy loáng thoáng một bàn tay người trồi lên khỏi mặt nước sôi đang cuồn cuộn. Những ngón tay cháy đen co quắp như muốn bấu víu vào không khí. Một tiếng thét vang lên xé toang màn đêm: “Cứu với!!!” Kha choàng tỉnh, mồ hôi lạnh đầm đìa trên trán. Ngọn đèn dầu đã tắt ngấm từ lúc nào. Căn nhà chìm trong bóng tối dày đặc. Lồng ngực anh thắt lại, hơi thở dồn dập. Chưa kịp hoàn hồn sau cơn ác mộng, Kha sững người khi nhận ra tiếng thét cứu mạng vẫn còn văng vẳng bên tai. Không, đó không phải ảo giác. Rõ ràng bên ngoài vừa có tiếng phụ nữ kêu thất thanh. Âm thanh yếu ớt nhưng não nùng, vẳng lại từ phía xa xăm. Kha lắng tai, cố định hướng âm thanh trong đêm tối. Tiếng kêu như vọng về từ phía ngọn đồi bên kia thung lũng – nơi lúc chiều anh nhìn thấy ánh lửa le lói. Anh bật dậy, vơ vội chiếc đèn pin nhỏ trong ba lô rồi khe khẽ mở cửa. Dưới sân, sương mù giăng mờ ảo. Cả bản làng im lìm, các nếp nhà sàn đều tối đen, chìm trong giấc ngủ. Chỉ có tiếng chó sủa vang từ đầu bản, rồi tắt lịm. Kha rọi đèn pin về hướng ngọn đồi đối diện. Trong màn sương đêm, anh không thấy gì ngoài những thân cây mờ nhạt. Tiếng kêu cứu ban nãy đã tắt hẳn. Thay vào đó, tiếng ọe khan đột ngột vang lên đâu đó gần bìa rừng, như tiếng người nôn mửa đầy đau đớn. Kha rùng mình, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Là ai giữa đêm khuya thanh vắng đang nôn ọe ở ngoài kia? Người hay... thứ gì khác? Sự tò mò và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc, Kha quyết định đi kiểm tra. Anh trở vào buồng lấy chiếc áo khoác dày khoác lên người, với cây đèn pin mạnh hơn và đảm bảo khẩu súng ngắn vẫn nằm trong hộc cặp. Linh và con vẫn ngủ say, anh nhẹ nhàng khép cửa buồng rồi bước xuống thang nhà sàn. Kha men theo con đường mòn trong bản dẫn ra phía bìa rừng. Anh cố bước thật khẽ. Đêm tĩnh đến nỗi anh nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch và tiếng lá khô rải rác dưới chân kêu xào xạc. Mùi ẩm mốc của đất rừng trộn lẫn mùi phân gia súc xộc vào mũi. Đâu đó vẳng lại tiếng cú mèo rúc lên từng hồi thê lương. Tới gần bìa rừng, Kha dừng lại, tắt đèn pin để mắt quen với bóng tối. Chung quanh chỉ còn màu đen và im lặng. Anh nín thở lắng nghe. Không còn tiếng động bất thường nào nữa. Bất giác, trên đồi cao bên kia, một làn mây mỏng trôi qua, để lộ vầng trăng hạ tuần vừa nhú khỏi đỉnh núi. Ánh trăng yếu ớt đổ xuống ngọn đồi hoang phía trước, soi rõ hình dáng loang lổ của khoảng đất trống trên đỉnh đồi – chỗ ấy cỏ cây không mọc nổi, như một vết sẹo trắng hếu giữa màu xanh rừng già. Kha nheo mắt nhận ra đó chính là nơi anh thoáng thấy ánh lửa lúc chiều. Đột nhiên, ngay trên khoảng đất trống ấy, một bóng người lờ mờ xuất hiện trong ánh trăng. Kha giật mình nấp sau gốc cây, tim đập thảng thốt. Bóng người ấy nhỏ bé, dường như là một phụ nữ với mái tóc dài xõa xượi. Bà ta đứng bất động một lúc lâu giữa khoảng đất trống, hướng mặt về phía bản làng. Rồi Kha thấy bóng đen ấy chậm rãi giơ một cánh tay lên, vẫy vẫy như ra hiệu. Trái tim Kha như ngừng đập vài nhịp. Anh cố căng mắt để nhìn rõ hơn, nhưng màn sương lại tràn đến che phủ ánh trăng. Bóng người kia cũng tan biến trong khoảnh khắc. Đứng chết lặng vài phút, Kha tự trấn tĩnh rằng có thể mình vừa hoa mắt. Giữa đêm khuya, tại vùng đất xa lạ này, biết đâu nỗi ám ảnh công việc và câu chuyện ban ngày đã khiến anh tưởng tượng ra bóng ma. Nhưng còn tiếng thét và tiếng nôn nao ban nãy? Chúng quá rõ ràng để là mơ. Nếu thực sự có người kêu cứu, thì tại sao giờ không còn ai? Suy tính một hồi, Kha đành quay bước trở về nhà sàn. Anh thận trọng đánh dấu trí nhớ vị trí ngọn đồi hoang kia. Ngày mai, bằng mọi giá anh phải lên đó xem. Về đến nhà, Kha lặng lẽ chốt cửa. Ánh đèn dầu được mồi lại le lói chiếu sáng một góc phòng. Kha ngồi xuống ghế, ghi vội vài dòng vào cuốn sổ tay nhỏ: “Đồi đối diện bản, có vết cháy, nghi vấn.” Bất giác, tay anh nguệch ngoạc thêm mấy chữ: “nồi cao??” Rồi chính Kha cũng ngỡ ngàng khi ngòi bút mình thảo ra những chữ đó. Chẳng lẽ... Anh đã từng nghe về chuyện này ở đâu đó? Bất chợt, Kha nhớ mang máng cách đây vài năm, báo chí từng đưa tin về một vụ việc rùng rợn cuối thập kỷ 90 ở một vùng núi phía Bắc: vụ “nồi cao người”. Một nhóm dân làng nhầm xác một người thành xác thú rừng, mang về nấu cao. Chuyện gây chấn động dư luận bấy giờ, nhưng sau đó nhanh chóng rơi vào quên lãng vì không tìm ra tội phạm. Chỉ có nỗi ám ảnh kinh hoàng là còn đọng lại mãi... Trán Kha rịn mồ hôi lạnh. Đá Cóc – cái tên này – chính là nơi xảy ra vụ việc năm 1998 đó, nếu anh nhớ không lầm. Vụ án mà đến giờ vẫn là dấu hỏi lớn. Các đồng nghiệp của anh lâu lâu nhắc lại như một câu chuyện ly kỳ nửa thực nửa hư. Ai cũng bảo do người dân tộc trên núi kém hiểu biết nên mới để xảy ra sự việc đau lòng chứ không có âm mưu tội ác nào. Công an kết luận nạn nhân tự tử, vụ án khép lại. Nhưng còn những uẩn khúc đằng sau, chẳng ai giải đáp nổi. Hiểu ra điều này, Kha cảm giác từng sợi tóc gáy mình dựng lên. Vậy là hơn 20 năm qua, dân bản Đá Cóc phải sống cùng ký ức kinh hoàng ấy. Phải chăng tiếng thét và bóng hình đêm nay chính là oan hồn của nạn nhân năm xưa vẫn còn quanh quẩn nơi đây, chờ người tìm ra sự thật? Kha ngồi lặng trong đêm, lòng dậy sóng. Anh nhận ra mình không thể quay lưng làm ngơ trước bí ẩn đang bao trùm mảnh đất này. Cho dù đang trong kỳ nghỉ phép, dòng máu người điều tra viên trong anh đã sục sôi trở lại. Anh phải làm gì đó. Anh phải đưa sự thật ra ánh sáng, trả lại yên bình cho thôn làng này – và có lẽ, cho cả vong linh uổng tử đang kêu oan đâu đó giữa đại ngàn.
Tìm kiếm
Sáng hôm sau, ánh mặt trời len qua vách gỗ đánh thức Lê Kha sau một đêm ngắn ngủi. Ngoài sân, tiếng gà rừng gáy vang vọng từ quả đồi xa. Khói bếp đã bay lên mái nhà sàn cạnh bên, báo hiệu một ngày mới bắt đầu ở Đá Cóc. Linh ngạc nhiên thấy chồng thức dậy với đôi mắt thâm quầng mệt mỏi. Chị ân cần hỏi han nhưng Kha chỉ cười trấn an rằng anh bị lạ giường khó ngủ. Không muốn vợ lo lắng, Kha giấu nhẹm những chuyện kỳ dị đêm qua. Anh dặn Linh dẫn con đi dạo quanh bản, còn mình mượn cớ muốn lang thang chụp ảnh phong cảnh để tách ra điều tra một mình. Rời nhà, Kha men theo lối mòn ra đầu thôn. Dưới ánh ban mai, bản Đá Cóc hiện lên bình yên đến khó tin. Những nếp nhà sàn nằm rải rác bên sườn núi, ẩn hiện sau làn sương sớm. Tiếng người gọi nhau í ới, tiếng trẻ mục đồng lùa trâu vang vọng. Thỉnh thoảng vài cụ già gùi măng rừng đi ngang chào anh khách lạ bằng nụ cười móm mém hiền hậu. Sự thân thiện mộc mạc ấy khiến Kha suýt nữa tin rằng những gì anh trải qua tối qua chỉ là ảo ảnh. Thế nhưng, khi ngang qua một gốc cây đa già ở đầu bản, anh thấy một búi cỏ tranh khô buộc hình nhân nhỏ treo lủng lẳng trên cành. Búi cỏ được tết thành hình người thô sơ, khoác mảnh vải đỏ, phía dưới vương vài cái lông gà và vệt sáp nến. Rõ ràng đó là dấu vết của một nghi lễ trừ tà nào đó mới được thực hiện. Có lẽ người dân nơi đây đã quá ám ảnh bởi chuyện quá khứ nên thường xuyên cúng bái để xua đuổi tà ma. Kha ngắm nghía hình nhân cỏ một lúc rồi đi tiếp. Anh hướng về phía nhà ông Lưu trưởng thôn để chào xã giao và tranh thủ khai thác thêm thông tin. Nhà ông Lưu cách nhà cộng đồng không xa, nằm bên một khoảnh ruộng bậc thang xanh mướt. Đứng ngoài hàng rào, Kha đã nghe tiếng ông Lưu đang nói chuyện với ai đó, giọng gấp gáp: “...Tôi đã bảo rồi, đừng để người ngoài họ biết chuyện cũ. Họa lại đến bây giờ. Đêm qua tôi thấy anh Tài nhà bên cũng bảo nghe tiếng... Suốt đêm tôi không ngủ được. Nếu cứ thế này chắc phải mời thầy Mo về làm lễ lớn quá...” – Giọng ông Lưu thoáng run. Có tiếng người đáp lại nhỏ hơn mà Kha không nghe rõ. Anh đoán ông Lưu đang nói về tiếng kêu trong đêm qua. Hẳn ông cũng nghe thấy hoặc có người khác nghe thấy, chứng tỏ sự kiện lạ không chỉ do Kha tưởng tượng. Kha định lùi ra thì cánh cửa mở, ông Lưu bước ra hiên tiễn khách. Khách của ông là một bà cụ tóc bạc, tay chống gậy, gương mặt hằn sâu vết thời gian. Nhìn thấy Kha, cả hai khựng lại. Ông Lưu vội vàng cười xòa: “Chú Kha dậy sớm thế! Đang định sang mời chú qua uống rượu ngô với tôi.” Kha mỉm cười chào ông và bà cụ, trong đầu ghi nhớ gương mặt khắc khổ của bà. Có thể đây là một nhân chứng quan trọng. Sau vài câu xã giao, bà cụ cáo từ ra về. Kha nhìn theo bóng dáng lom khom của cụ, chợt thấy bà đưa tay áo lên quệt nước mắt. Rõ ràng cụ vừa khóc. Tại sao? Ông Lưu hơi lúng túng trước ánh nhìn dò xét của Kha. Ông lảng sang chuyện khác, mời Kha chén rượu sớm cho “ấm bụng”. Ngồi trên hiên nhà, Kha nâng chén rượu ngô cay nồng mà lòng đầy suy tư. Anh khẽ hỏi: “Đêm qua, hình như có tiếng phụ nữ kêu cứu từ phía đồi bên kia, bác có nghe thấy không?” Bàn tay cầm chén của ông Lưu khựng lại giữa không trung, rượu sóng sánh trào ra giọt nhỏ. Ông nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, đặt chén xuống bàn: “À... đâu có đâu. Chắc chú nghe tiếng chim đêm đó. Thi thoảng có tiếng chim lợn kêu nghe ghê rợn lắm.” Kha mỉm cười nhạt. Rõ ràng trưởng thôn đang chối quanh. Anh quyết định thử phản ứng trực diện: “Chắc bác cũng biết tôi làm bên hình sự. Tôi có nghe về chuyện năm 1998 ở Đá Cóc. Xin lỗi nếu tôi khơi lại đau buồn, nhưng tôi nghĩ mình có thể giúp được gì chăng? Thú thực, tôi muốn tìm hiểu thực hư chuyện nồi cao người năm xưa.” Vừa dứt lời, mặt ông Lưu tái hẳn. Ông nhìn quanh quất như sợ có ai nghe thấy. Hạ giọng, ông nói như van nài: “Chú à, chuyện đó qua lâu rồi. Chúng tôi không muốn nhắc lại nữa đâu. Bà con ở đây cũng đã khổ sở vì nó nhiều rồi. Chi bằng cứ để quá khứ ngủ yên...” Kha kiên định: “Nhưng hình như nó chưa yên, bác cũng thấy đấy. Bao năm trôi qua mà hình như người chết oan vẫn chưa siêu thoát, thỉnh thoảng lại hiện về. Tôi nghĩ cần có câu trả lời rõ ràng cho vong linh ấy.” Nghe hai chữ “vong linh”, mắt ông Lưu ánh lên nỗi sợ hãi. Ông bối rối đứng dậy: “Tôi... tôi không biết gì hơn đâu. Hồi đó trên kết luận sao thì chúng tôi nghe vậy. Chú muốn tìm hiểu thì... thử hỏi mấy ông già bà cả trong bản xem. Chứ tôi...” – Nói đến đây, ông im bặt như lỡ lời. Đúng như dự đoán, ông Lưu biết nhiều hơn những gì ông chịu nói. Kha nhanh chóng nắm lấy cơ hội: “Hồi đó bác mới ngoài ba mươi nhỉ? Tôi đoán người giữ nhiều ký ức nhất chắc là ông Tám, hoặc bà cụ lúc nãy? Bác có thể giới thiệu giúp tôi được không?” Ông Lưu thoáng vẻ bất ngờ rồi thở dài: “Thôi được. Thật ra chú có muốn hỏi thì hỏi ông Tám đi. Nhà ông ấy ở cuối bản, ngay lối mòn lên rừng đó. Nhưng chú đừng kỳ vọng nhiều. Ông già cứng miệng lắm, bao năm nay có nói gì đâu...” Kha cám ơn trưởng thôn rồi xin phép đi ngay. Anh hiểu trong thâm tâm, ông Lưu cũng mong mỏi có lời giải cho nỗi ám ảnh chung này nhưng bản thân ông vì trách nhiệm phải giữ bình yên nên không dám đào sâu. Men theo lối nhỏ dẫn xuống cuối bản, Kha tìm đến nhà ông Tám. Đó là một căn nhà sàn cũ kỹ nép dưới gốc cây gạo cổ thụ, có phần tách biệt hẳn với những nhà khác. Xung quanh vắng lặng, chỉ nghe tiếng gió thổi qua tán cây. Kha bước lên thang gỗ, khẽ gọi: “Bác Tám ơi, cháu là Kha, khách du lịch hôm qua mới tới, muốn hỏi chuyện bác một chút được không ạ?” Không có tiếng trả lời. Cánh cửa gỗ khép hờ, Kha đánh bạo đẩy cửa bước vào. Một mùi ẩm mốc và hăng hăng xộc ra. Căn nhà tranh tối tranh sáng, bài trí đơn sơ. Giữa nhà, trên chiếc phản gỗ, một người đàn ông gầy gò đang nằm thiêm thiếp. Ông ta tầm ngoài sáu mươi, mái tóc bạc lơ thơ, gương mặt hốc hác. Nghe tiếng động, ông cựa mình ngồi dậy, đôi mắt đục ngầu ngước nhìn Kha: “Ai đấy... Kha à... cậu... cậu là công an?” Kha sững người. Rõ ràng ông Tám đã đoán ra thân phận của anh. Có lẽ trong làng đã kháo nhau về vị khách lạ quan tâm chuyện cũ. Kha gật đầu: “Cháu đúng là điều tra viên. Nhưng hôm nay cháu tới đây với tư cách cá nhân. Cháu muốn tìm hiểu sự thật vụ việc năm xưa, mong bác giúp cho.” Ông Tám thở dài, gượng ngồi dậy dựa lưng vào cột nhà. Ông chỉ tay vào chiếc ghế đẩu xiêu vẹo: “Cậu ngồi đi. Chuyện đó... suốt bao năm nay, ngày nào nó chả ám ảnh tôi. Nhưng nói thật, tôi chẳng biết thêm gì hơn đâu. Cả làng hồi đó chỉ biết có ngần ấy.” Kha nhẹ nhàng: “Cháu hiểu. Nhưng bác là người tìm ra những dấu vết đầu tiên. Bác nghĩ sao về kết luận tự tử?” Đôi mắt đục của ông Tám ánh lên tia uất ức: “Tôi chẳng tin. Mà người nhà nạn nhân họ cũng chẳng tin. Nhưng biết làm sao được khi không tìm ra chứng cứ. Tôi già rồi, sắp xuống lỗ rồi, cũng chẳng mong gì hơn ngoài việc biết được thực hư.” Nhận thấy ông Tám đã mở lòng, Kha đề nghị ông kể lại toàn bộ những gì xảy ra đêm đó. Ông Tám im lặng một lúc lâu, ánh mắt dõi ra khoảng không xa xăm ngoài cửa sổ như hồi tưởng... "Đêm hôm ấy, tôi ngủ lại chòi canh rừng ngoài bìa kia. Tầm nửa đêm thì thấy lửa bùng lên trên đồi phía đối diện, tôi cứ tưởng ai đốt nương. Đến sáng ra mới nghe tay Ngạch trong bản bảo vừa vớ được xác con tinh tinh quý hiếm, đang rủ mọi người chung tay mổ xẻ nấu cao. Tôi nghi nghi, vùng này làm gì có tinh tinh, nên mới cùng mấy người chạy lên chỗ đám cháy cũ coi thử. Quả nhiên tìm được cúc áo, cặp tóc, tóc cháy... Thế rồi mọi chuyện vỡ lở. Cả làng khi ấy sợ chết khiếp." "Chú biết không, lúc đó tôi tức lắm, xém cho tay Ngạch mấy gậy. Hắn thề sống thề chết là tưởng xác khỉ. Mà tôi nào có tin. Xác khỉ nào lại mặc áo, lại có tóc dài... Nhưng công an họ điều tra kỹ mấy tháng, chẳng thấy manh mối giết người, mà cái xác kia họ bảo tự thiêu. Chú nói coi, ai đời đàn bà tự thiêu giữa rừng làm chi? Rồi vàng vòng bả đeo người ta tìm mãi không thấy. Chẳng phải cướp là gì..." Giọng ông Tám trở nên gay gắt rồi nghẹn lại trong cổ họng. Ông nhắm nghiền mắt, tiếp: "Sau vụ đó, mấy chục người chúng tôi - cả tôi nữa - đều thành kẻ tội đồ. Không ai nói ra nhưng trong thâm tâm ai cũng tự trách mình. Tôi ân hận vì giá như đêm ấy tôi qua đồi ngay khi thấy lửa, biết đâu cứu được bà ấy, hoặc ít ra giữ nguyên hiện trường cho công an. Còn người khác thì ân hận vì đã nhúng tay nấu nướng... Nhiều người ám ảnh đến phát bệnh. Như thằng Tài hồi đó khều xương trong nồi, về sau điên điên dại dại, năm ngoái chết rồi. Vài người khác uống rượu cao hôm đó, mấy tháng sau đau bụng rạc người, có người ung thư chết trẻ. Người trong bản đều đồn đó là quả báo. Quả báo thật..." Kha lặng đi trước những lời thú tội cay đắng. Anh nhẹ nhàng đặt tay lên bàn tay xương xẩu đang run của ông lão, trầm giọng hỏi: “Còn ông Ngạch... từ đó đến nay ông ấy thế nào hả bác?” Ông Tám mở mắt, hít một hơi thật sâu: “Hắn còn sống. Nhưng mà sống không bằng chết. Suốt hơn hai mươi năm qua hắn sống với chai rượu. Nghe đâu đêm nào cũng mơ thấy ác mộng, có khi gào la giữa đêm. Chú có biết tối qua tiếng kêu gì không? Tôi dám chắc là tiếng hắn. Hắn lại lên cơn như mọi lần thôi. Hôm nay chắc hắn say vật ra xó nhà rồi.” Kha hỏi dồn: “Bác nói ông ấy lên cơn? Ông ấy có hay lang thang ban đêm không?” Ông Tám gật đầu: “Hắn ám ảnh nặng lắm. Thỉnh thoảng nửa đêm lại lồm cồm bò dậy bỏ ra chỗ đồi hoang đó mà gào khóc, nôn tháo. Bà con xung quanh ai cũng biết nhưng kệ, vì nghĩ cũng đáng đời. Ai cũng ngầm hiểu chắc hắn có dính líu đến cái chết của bà kia nên mới bị hành hạ như vậy.” Trái tim Kha giật thót. Những lời ông Tám vô tình xác nhận mọi nghi ngờ của anh. Giờ thì anh đã có trong tay một bức tranh toàn cảnh: Một người đàn ông say xỉn, mỗi đêm bị cơn ác mộng tội lỗi giày vò, chạy đến đúng nơi nạn nhân chết mà gào thét nôn mửa – dấu hiệu của lương tâm cắn rứt không gì xoa dịu nổi. Kha siết chặt tay: “Cháu cám ơn bác đã tin tưởng kể cháu nghe. Bác nghỉ ngơi đi, mọi chuyện cứ để cháu lo. Sự thật sắp được phơi bày rồi.” Ông Tám nắm tay Kha: “Nếu chú làm được điều đó, dân làng này đội ơn chú. Với cả... bà ấy cũng đội ơn chú. Tôi tin vậy. Coi như cho chúng tôi một cơ hội chuộc tội...” Rời nhà ông Tám, Kha lập tức lên kế hoạch tiếp cận ông Ngạch. Giờ mới quá trưa, có lẽ ông ta đang ngủ hoặc say rượu. Anh dự định tối nay sẽ “hỏi chuyện” trực tiếp người đàn ông bí ẩn này, ở chính nơi tất cả bắt đầu – ngọn đồi hoang. Trước khi quay về, Kha ghé ngang qua khoảng đất trống dưới chân đồi. Đây là lối mòn dẫn lên hiện trường năm xưa. Dưới một gốc cây gần đó, anh thấy vương vãi những chân nhang đã cháy hết cắm trên đất, cùng vài vỏ chai rượu rỗng lăn lóc. Quả đúng như lời ông Tám, ai đó thường xuyên ra đây thắp hương và uống rượu. Kha nhặt một chiếc vỏ chai lên xem. Đó là loại rượu ngô nấu thủ công của người H’Mông, còn sót một ít cặn đen sền sệt dưới đáy. Anh lắc nhẹ, chất lỏng sóng sánh bám trên thành chai, để lại vệt nâu nhớt. Kha rùng mình nhận ra: rượu ngâm cao. Có lẽ chính là từ mẻ cao năm xưa. Trời ơi, hơn hai mươi năm mà ông Ngạch vẫn giữ nó để tự hành hạ mình sao? Lòng Kha dâng lên nỗi ghê sợ lẫn chua xót. Anh đặt chiếc chai xuống chỗ cũ, nhìn lên đỉnh đồi trọc. Ánh nắng trưa gay gắt chiếu xuống khoảng đất cháy xém loang lổ, nhưng anh vẫn cảm thấy lạnh sống lưng. Trên đó, oan hồn người phụ nữ xấu số hẳn đang dõi theo từng bước đi của anh. Kha lẩm bẩm một mình như lời hứa: “Tối nay, chúng ta sẽ kết thúc chuyện này. Tôi hứa.”
Sự thật
Hoàng hôn buông xuống dãy núi Đá Cóc. Bầu trời tím sẫm dần chuyển đen, vài ngôi sao mọc lác đác. Lê Kha đã bố trí cho vợ con nghỉ tạm tại nhà một đôi vợ chồng trẻ trong bản để họ không phải chứng kiến những việc sắp xảy ra. Anh mượn cớ công ty có việc đột xuất cần giải quyết ban đêm, dặn vợ yên tâm khóa cửa ngủ. Bản Đá Cóc lại chìm trong màn đêm u tịch. Lúc này, Kha nấp sau một bụi cây gần chân đồi hoang, mắt không rời cánh cửa căn nhà xiêu vẹo của ông Ngạch phía xa. Theo lời ông Tám, thường gần nửa đêm Ngạch sẽ lại lên cơn, mò ra đồi. Gió rừng rít nhẹ qua kẽ lá, mang theo tiếng côn trùng li ti. Kha chỉnh lại chiếc đèn pin gài ở thắt lưng, khẩu súng ngắn đã lắp đầy đạn nằm gọn bên hông cho anh thêm vững dạ. Quả nhiên, khoảng gần 11 giờ đêm, Kha thấy cánh cửa lụp xụp bật mở. Một bóng người loạng choạng bước ra – đó là một gã đàn ông tóc muối tiêu, gầy đét, tay lăm lăm chai rượu. Gã đứng tựa cửa tu ừng ực vài hớp dài rồi lảo đảo cất bước về hướng đồi hoang. Ánh trăng đêm nay bị mây che gần hết, chỉ lờ mờ đủ để Kha bám theo sau mà không lo bị phát hiện. Gã đàn ông vừa đi vừa lẩm bẩm những tiếng chửi rủa ai oán không rõ nghĩa. Thỉnh thoảng gã nấc lên, ôm bụng ọe ra mặt đất nhưng có lẽ dạ dày trống rỗng chỉ khiến gã nôn khan. Lên tới đỉnh đồi, gã đàn ông dừng lại, ngửa mặt nhìn bầu trời đêm. Kha nấp sau một thân cây cháy dở, lặng quan sát. Gã chính là ông Ngạch – nhân vật cuối cùng trong bi kịch năm xưa. Ánh trăng yếu ớt hắt lên gương mặt hốc hác của ông ta, lộ rõ đôi mắt thâm trũng thất thần và hàm râu lởm chởm. Ông ta đưa chai rượu lên ngang mặt, lẩm bẩm như nói với ai: “Uống đi... uống đi... tao với mày cùng uống... Cao đấy, cao quý lắm... ha ha...” Nói rồi, ông ta dốc chai vào miệng uống ừng ực cho tới khi sặc sụa, ho rũ rượi. Sau cơn ho, ông Ngạch đột nhiên gào lên thảm thiết: “Tao xin lỗi! Xin cô tha cho tôi! Đừng bám tao nữa... ĐỪNG!!!” Tiếng gào đầy đau đớn vang vọng giữa đêm làm Kha sởn gai ốc. Nhưng anh hiểu đã đến lúc phải xuất hiện. Kha bật đèn pin, rọi thẳng luồng sáng vào ông Ngạch, quát lớn: “Ông Ngạch! Tôi Lê Kha, cán bộ điều tra. Ông bình tĩnh, tôi muốn nói chuyện với ông!” Bị ánh sáng đột ngột chiếu vào, ông Ngạch hoảng hốt lùi lại, loạng choạng suýt ngã. Đôi mắt dại của ông ta nheo lại nhìn Kha rồi chợt cháy bùng lên sự hằn học: “Thì ra mày... Mày cũng như con mẹ nó, không để tao yên! Đi đi! Về đi!!!” Ông vung chai rượu ném mạnh về phía Kha. Chai thủy tinh sượt qua đầu anh vỡ choang sau lưng. Mùi rượu nồng nặc váng lên cùng thứ cao quánh còn sót lại văng bám vào ống quần khiến Kha buồn nôn. Ông Ngạch gầm gừ lao tới, hai bàn tay khẳng khiu chực bóp cổ vị điều tra viên. Kha vốn đã đề phòng, anh né người, chụp lấy cánh tay ông ta khóa lại. Ông Ngạch giằng co điên loạn, miệng không ngớt gào thét những câu vô nghĩa nửa Kinh nửa Thái. Dường như trong cơn cuồng loạn, ông ta không còn phân biệt được đâu là người đâu là ma. Với sức của kẻ say lại suy kiệt, chỉ một lúc sau ông Ngạch khuỵu xuống bị Kha ghì chặt trên mặt đất. Trong cơn thịnh nộ tuyệt vọng, nước mắt ông ta ràn rụa. Giọng ông khàn đặc: “Thả tao ra... Để tao đi! Bà ấy... bà ấy đang gọi tao... tao phải đi theo bà ấy...” Kha quát: “Không ai gọi ông cả, chỉ có lương tâm ông thôi. Hơn hai mươi năm qua, ngày nào ông cũng sống trong sợ hãi, trong ác mộng. Ông tưởng uống rượu pha cao người của chính nạn nhân sẽ xóa được tội à? Không đâu, cô ấy không tha thứ đâu nếu ông không nói ra sự thật!” Những lời của Kha như mũi dao đâm trúng tim ông Ngạch. Ông ta thôi vùng vẫy, toàn thân xụi lơ đi. Tiếng nức nở bật ra: “Tôi không giết cô ấy... Tôi không cố ý... Tôi không muốn...” Kha gằn giọng: “Vậy ai giết? Ông nói đi!” Ông Ngạch mím chặt môi, ánh mắt đảo loạn. Kha buông tay, nhưng vẫn cảnh giác giữ một khoảng cách vừa đủ. Ông ta ngồi bệt dưới đất, bó gối, đu đưa thân mình như một đứa trẻ sợ hãi. Một lát sau, tiếng nói khàn khàn rỉ ra trong đêm: “Hôm đó... tôi đi đặt bẫy thú, thấy bà ấy ngồi khóc ở ven đường. Bà ấy bảo lỡ chuyến xe, tính ngủ nhờ qua đêm nhưng nhà dân xa quá. Trời thì sắp tối... Tôi mới rủ bà ấy theo tôi về chòi nghỉ tạm, sáng ra đi tiếp. Ai ngờ...” Giọng ông ta nghẹn lại, rồi bất ngờ vút cao đầy hoảng loạn: “AI NGỜ ĐÂU! Nửa đêm tôi tỉnh dậy thì thấy bà ta treo cổ toan tự tử trong chòi. Tôi hoảng quá chạy bổ tới đỡ bà ta xuống, nhưng giẫm trúng đống lửa đang cháy dở, lửa bùng lên cháy lan. Tôi gào thét kéo bà ta ra nhưng bà ta vùng vẫy, cả hai ngã vào lửa... Tôi... tôi chỉ kịp chạy thoát, bỏ lại bà ta trong đó... Tôi sợ quá...” Ông Ngạch ôm đầu nức nở. Kha cau mày lắng nghe, trong lòng dâng lên mối nghi hoặc trước lời khai bất ngờ. Tự tử? Lửa cháy lan? Câu chuyện này khác xa những gì anh suy luận. Kha nghiêm giọng: “Ông nói bà ấy tự sát? Vậy giải thích sao về việc đôi bông tai vàng của bà ấy biến mất?” Toàn thân ông Ngạch chợt giật nảy như lên cơn động kinh. Ông ta ú ớ: “Không... không... tôi không biết! Tôi không lấy... Tôi thề là không lấy...” Kha tiến lại gần, nhìn thẳng vào mắt ông ta: “Ông không lấy, vậy ai lấy? Lúc đó có ai khác? Ông nói dối! Nếu ông không giết, sao không khai thật từ đầu? Sao phải mang xác đi nấu cao phi tang?” Mặt ông Ngạch trắng bệch, hai tay ôm chặt đầu gối, ông lắc đầu lia lịa: “Tôi sợ... Tôi sợ người ta buộc tội tôi giết bà ấy. Với cả... bà ấy chết cháy đen rồi, nhìn không ra người, tôi... tôi nổi lòng tham nghĩ chắc chẳng ai biết đâu... mà nấu cao thì lại bán được khối tiền... Tôi ngu quá... tôi mờ mắt vì tiền...” Đến đây thì câu chuyện của ông ta đã lộ ra bản chất. Kha cảm thấy ghê tởm xen lẫn xót xa. Chỉ vì phút tham lam, một con người lương thiện đã biến thành tội nhân tày trời, đẩy cả làng vào bi kịch. Nhưng vẫn còn một nút thắt: “Vậy rốt cuộc bà ấy tự tử hay bị ông giết để cướp của? Ông nói thật đi!” – Kha rắn giọng. Ông Ngạch ngước đôi mắt thất thần lên nhìn Kha, rồi nhìn vào khoảng không phía sau lưng anh như thể có ai ở đó. Đột nhiên, ông ta ré lên kinh hãi, trườn người lùi lại cho tới khi lưng chạm tảng đá. Môi ông ta bật liên hồi hai chữ: “Tha tôi...” Kha ngoái đầu nhìn theo ánh mắt ông Ngạch. Tim anh lạnh toát. Ngay đằng sau anh, giữa bãi đất trắng xóa ánh trăng, một bóng người phụ nữ đứng lặng lẽ từ lúc nào. Bóng hình mờ ảo nhưng vẫn nhận ra mái tóc dài cháy xém lất phất bay, thân hình gầy gò trong bộ quần áo cháy dở loang lổ. Đôi mắt trũng sâu của người đó đang nhắm nghiền, nhưng hàng nước mắt đen đặc như máu chảy dọc hai gò má. Không khí đột ngột lạnh buốt. Kha đứng chết trân, tay chân cứng đờ. Đây không phải ảo giác. Người phụ nữ ấy lơ lửng cách mặt đất vài gang tay, hướng về phía ông Ngạch. Miệng bà từ từ mở ra, cất tiếng nói nghèn nghẹt như từ cõi xa: “Ngạch... trả... lại... cho... tao...” Tiếng nói như âm vang từ đáy một cái giếng sâu, kéo dài u oán. Ông Ngạch la hét thất thanh, cuộn người ôm đầu. Kha dù kinh hãi nhưng vẫn giữ chút tỉnh táo, anh cất giọng run run: “Bà... bà Thơ... phải không? Bà muốn ông ấy nói ra sự thật phải không?” Nghe đến tên “Thơ”, bóng người giật nảy, đôi mắt vô hồn mở trừng trừng nhìn Kha. Kha có cảm giác sống lưng lạnh toát khi bắt gặp ánh nhìn đó. Anh nuốt khan, nhẹ giọng nói tiếp: “Tôi hứa chuyện này sẽ sáng tỏ. Mong bà yên tâm... và siêu thoát.” Bóng ma lắc đầu quầy quậy, mái tóc xõa tung. Giọng bà thều thào tức tưởi: “Không... ai... tin... tao... Không... ai... tìm... tao...” Kha cay sè sống mũi, xúc động đáp: “Có tôi tin. Tôi đã tìm ra bà đây. Xin bà hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với bà?” Nhưng dường như linh hồn kia không thể nói rõ hơn. Bóng ma bà Thơ bỗng tan dần vào khoảng không, giọng nói thổn thức vẳng lại: “Đau... lắm... lạnh... lắm... Tôi... ở... đây... lâu... quá...” Cùng lúc đó, ông Ngạch bỗng vùng lên, quỳ sụp xuống, chắp tay hướng về phía bóng ma vừa biến mất mà lạy như tế sao: “Tôi lạy bà... tôi nói... tôi khai hết... Xin bà tha cho tôi chết được yên...” Rồi ông ta quay về phía Kha, nước mắt nước mũi giàn giụa, cất giọng rời rạc đứt quãng: “Hôm đó bà ấy không tự tử... Tôi... tôi dối. Tôi tỉnh dậy thì thấy bà ấy đang ngồi viết gì đó dưới ánh đèn dầu. Tôi nhìn thấy vàng trên tai bà ấy lấp lánh... lòng tham xui khiến tôi cầm khúc củi đập mạnh sau đầu... Bà ấy gục xuống... Tôi hoảng quá kéo xác ra ngoài. Trong chòi lửa vẫn cháy âm ỉ, tôi nghĩ ra cách tưới xăng châm lửa ngụy tạo vụ tự thiêu... Rồi tôi bỏ về, sáng sớm quay lại vờ như tình cờ gặp... gặp cái xác cháy đen...” Nghe tới đây, dù đã lường trước, Kha vẫn không khỏi rùng mình. Trước mắt anh, ông Ngạch - kẻ tội đồ run rẩy như một chiếc lá, vừa thú nhận tội ác tày trời. Hơn hai mươi năm trước, vì hai chiếc bông tai vàng, ông ta đã giết một người phụ nữ xa lạ vô tội, rồi dựng hiện trường giả, thậm chí nhẫn tâm biến thi thể nạn nhân thành “cao” hòng phi tang và trục lợi. Mọi giả dối cuối cùng đã sụp đổ. Sự thật kinh hoàng giờ phơi bày dưới ánh trăng tàn. Kha bước tới, gỡ từ trong cổ áo ông Ngạch ra một sợi dây nhỏ đen đúa. Mặt dây là hai mẩu kim loại vàng biến dạng. Đó hẳn là những gì còn lại của đôi hoa tai, được ông ta xâu vào dây giấu trước ngực bao năm qua. Ông Ngạch chẳng buồn chống cự nữa. Ông ta đổ gục xuống đất, miệng lẩm bẩm: “Trả... lại... cho bà ấy... trả tôi...” rồi bất tỉnh. Kha thở hắt ra một hơi dài. Anh kiệt sức ngồi bệt xuống nền đất. Trên cao, mây đen tan dần, trả lại vầng trăng lạnh lẽo soi tỏ khoảnh rừng. Chỉ còn tiếng côn trùng rả rích. Bóng ma đã biến mất. Ở mé rừng phía xa, thấp thoáng vài đốm sáng đuốc và tiếng chân người hốt hoảng chạy tới. Có lẽ dân làng nghe tiếng la nên kéo nhau đến. Mọi chuyện sắp sửa khép lại. Kha đưa mắt nhìn quang cảnh đồi hoang lần cuối. Trong ánh trăng, anh tưởng như thấy một bóng áo nâu bạc màu khuất dần vào rừng cây. Phải chăng bà Thơ đã thanh thản rời đi?
Ám ảnh
Trời sáng dần sau một đêm dài nhất trong lịch sử thôn Đá Cóc. Tại khoảng đất trống trên đỉnh đồi hoang, người dân trong bản tụ họp đông đủ. Không ai bảo ai, tất thảy lặng lẽ quỳ quanh một bát nhang nghi ngút khói. Bên cạnh là hai mẩu vàng cháy đen – tàn tích cuối cùng của đôi hoa tai oan nghiệt – được đặt trong một chiếc hộp gỗ nhỏ. Già trẻ lớn bé trong làng đều rưng rưng nước mắt. Họ đang làm lễ tạ lỗi với vong hồn bà Đinh Thị Minh Thơ, người phụ nữ xấu số đã phải chết trong đau đớn và tủi nhục trên mảnh đất này. Bài khấn vẳng lên trong tiếng khóc nghẹn ngào: “Chúng con mù quáng nên gây ra tội. Chúng con đớn hèn nên để oan khuất chìm sâu. Nay cúi đầu trước linh hồn cô, xin cô tha thứ cho tội lỗi của chúng con...” Lê Kha đứng lặng cuối vòng người, lòng trào dâng muôn nỗi xúc động. Anh thấy ông Tám chắp tay lầm rầm khấn vái, nước mắt chảy dài. Anh thấy trưởng thôn Lưu đôi vai rung lên bần bật vì tiếng nức nở bị kìm nén. Tất cả dân bản Đá Cóc đang cùng san sẻ gánh nặng tội lỗi năm xưa, để linh hồn bà Thơ được nhẹ bước về cõi vĩnh hằng. Trên nền trời ban mai, ánh mặt trời lên cao xua tan màn sương. Gió rì rào thổi qua cánh rừng già như tiếng thở phào nhẹ nhõm. …Ngày hôm đó, công an huyện đã tới dẫn giải ông Ngạch – kẻ thủ ác – về chờ xét xử. Suốt quá trình, ông ta cúi gằm mặt, không nói một lời. Những người dân Đá Cóc lặng lẽ đứng nhìn, không ai tỏ thái độ oán hận hay trách móc. Có lẽ trong thâm tâm họ hiểu rằng bản án nặng nề nhất dành cho ông ta chính là hơn hai mươi năm sống trong địa ngục lương tâm. Giờ đây, khi sự thật phơi bày, địa ngục ấy mới tạm khép lại cánh cửa. Trước khi rời đi, Lê Kha cùng ông Lưu lên ngôi miếu nhỏ mới lập tạm trên đồi để thắp nén hương tiễn biệt. Khói hương nghi ngút bay, hòa trong nắng sớm. Ông Lưu bùi ngùi nói: “Cảm ơn chú nhiều lắm. Nhờ chú mà làng tôi mới nhẹ gánh tội lỗi. Chúng tôi sẽ dựng lại miếu đàng hoàng cho bà ấy, và báo cho gia đình lên rước di ảnh, đưa vong linh bà về quê.” Kha khẽ gật đầu. Anh cắm nén hương, chắp tay lạy ba lạy. Trong tâm trí, anh hình dung ra bóng người phụ nữ áo nâu bạc màu đang mỉm cười nhòa dần trong ánh sáng. Trưa hôm đó, gia đình Lê Kha thu xếp hành lý rời Đá Cóc. Trước lúc lên xe, Kha ngoái nhìn lại ngôi làng yên ả nằm nép mình dưới thung lũng. Những mái nhà sàn lấp ló trong nắng trưa, thấp thoáng bóng người gặt lúa trên ruộng bậc thang. Tất cả dường như đã trở lại bình yên như nó vốn có, nhưng Kha biết ký ức về tội lỗi sẽ còn mãi. Chiếc xe lăn bánh, bỏ lại sau lưng miền núi non trùng điệp. Ngồi ghế sau, cậu con trai bỗng níu tay Kha hỏi nhỏ: “Bố ơi, thế cuối cùng con ma hôm nọ bố kể cho mẹ có biến mất không bố?” Kha khựng lại vài giây, rồi mỉm cười xoa đầu con: “Ừ, biến mất rồi con ạ. Mãi mãi.” Nói rồi, anh đưa mắt nhìn vào tấm gương chiếu hậu. Trong thoáng chốc, anh ngỡ thấy phía cuối con đường núi, một dáng người phụ nữ gầy guộc đứng tiễn biệt. Bóng hình ấy chợt tan biến giữa làn mây trắng xóa bảng lảng. Lê Kha nhắm mắt, thở ra nhẹ nhõm. Anh thầm tin rằng từ nay, oan hồn Đá Cóc đã thực sự được siêu thoát. Thế nhưng, câu chuyện “nồi cao người” năm xưa – với tất cả những ám ảnh, tội lỗi và bài học cay đắng – sẽ còn đọng mãi trong tâm trí anh cũng như tất cả những ai từng biết tới nó, như một lời nhắc nhở lạnh người về góc tối trong lòng mỗi con người.