Hồi bé tìm hiểu lịch sử, sách, truyện... thì luôn thắc mắc sao dân tộc do thái lại luôn bị ghét. Từ thời pharaong, thế giới ả rập, đến phát xít đức...
Nhưng sau lần xem một bộ phim tài liệu và thấy cảnh binh lính israel bắn chết 1 bé trai tầm 7,8t trc ống kính hàng chục phóng viên thì e đã tự có kết luận.
Như giống chó pittbull hung hăng, cắn hiểm và sẵn sàng tấn công cả chủ.
có mấy lý do, hàng ngàn năm, từ lịch sử, tôn giáo để lại....
Trong suốt dòng chảy lịch sử, người Do Thái là một trong những cộng đồng tôn giáo – dân tộc kiên cường nhất, vừa giữ gìn đức tin một cách nghiêm cẩn, vừa trải qua những biến cố đau thương mà ít dân tộc nào có thể so sánh. Từ chối những đặc quyền từ Đế quốc La Mã, bị đẩy vào vị trí cho vay trong xã hội Công giáo, đến việc mang hình ảnh “đáng ghét” đầy định kiến trong văn hóa phương Tây – số phận lịch sử của người Do Thái là minh chứng sống động cho mối quan hệ phức tạp giữa bản sắc dân tộc, tín ngưỡng và cấu trúc quyền lực.
ĐỨNG NGOÀI XÃ HỘI THỜI ĐẾ QUỐC LA MÃ
Ngay từ thời cổ đại, người Do Thái đã bộc lộ một đặc điểm khác biệt:
không chấp nhận hòa tan bản sắc để đổi lấy đặc quyền chính trị từ ngoại bang, kể cả từ đế chế La Mã hùng mạnh. Dù được trao quyền công dân, thậm chí là cấp đất canh tác, cộng đồng Do Thái vẫn
kiên quyết từ chối. Lý do sâu xa không chỉ nằm ở niềm tin tôn giáo tuyệt đối – tin vào một Thiên Chúa duy nhất và giao ước thiêng liêng với “đất hứa” – mà còn ở
nỗi sợ bị đồng hóa với nền văn hóa đa thần, trụy lạc của dân ngoại. Họ không chấp nhận thờ phượng hoàng đế, không tham gia nghi lễ ngoại giáo, và không thỏa hiệp với lối sống trái nghịch Torah. Trong khi đó, chính quyền La Mã vừa coi họ là khó trị, vừa luôn nghi kỵ bởi tinh thần kháng cự độc lập – điều dẫn đến những cuộc khởi nghĩa đẫm máu, bị đàn áp tàn bạo, đỉnh điểm là việc Đền thờ Jerusalem bị phá hủy và người Do Thái bị lưu đày khắp nơi.
ĐỘC QUYỀN CHO VAY NẶNG LÃI THỜI TRUNG CỔ, ÔNG TỔ CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG
Bước sang thời Trung cổ, trong lòng xã hội Thiên Chúa giáo phương Tây, người Do Thái tiếp tục
bị đẩy ra ngoại vi, lần này không phải bằng vũ lực mà bằng hệ thống pháp lý – xã hội đầy phân biệt. Giáo lý Công giáo nghiêm cấm tín đồ cho vay lấy lãi, coi đó là hành vi tội lỗi, trái với đức bác ái. Tuy nhiên, xã hội vẫn có nhu cầu vốn để thương mại, chiến tranh, xây dựng. Chính khoảng trống này khiến
người Do Thái – không bị ràng buộc bởi luật Công giáo – trở thành lực lượng gần như duy nhất mà các lãnh chúa cho phép đảm nhận vai trò cho vay. Đây không phải là đặc quyền, mà là hệ quả của chính sách loại trừ: người Do Thái không được sở hữu đất, không được gia nhập nghiệp đoàn, không được hành nghề công quyền. Trong bối cảnh ấy, nghề tài chính là con đường sống còn.
Thế nhưng, chính việc đảm nhiệm vai trò trung gian tài chính lại khiến họ
trở thành đối tượng của oán ghét xã hội. Từ giới quý tộc mắc nợ, đến nông dân phải cầm cố, ai cũng dễ dàng chuyển trách nhiệm khó khăn của mình thành căm hận người cho vay. Văn hóa dân gian, văn học cổ điển phương Tây như vở
The Merchant of Venice của Shakespeare đã góp phần tô vẽ hình ảnh
người Do Thái tham lam, lạnh lùng, vô cảm, làm nền cho những định kiến kéo dài hàng thế kỷ. Nên mỗi khi có biến động chính trị thay triều dổi đại, người do thái sẽ bị xử đầu tiên bởi những con nợ làm một công đôi việc: bùng nợ và cướp tài sản.
Hình ảnh “đáng ghét” của người Do Thái – thực chất – là sản phẩm của
sự hội tụ giữa định kiến thần học, kỳ thị xã hội, và thao túng chính trị. Từ việc bị cáo buộc “giết Chúa” đến những huyền thoại như “giết trẻ lấy máu tế lễ”, người Do Thái luôn bị gán với tội lỗi tập thể. Họ sống trong các khu ghetto biệt lập, giữ luật lệ riêng, không hòa nhập – điều khiến họ bị coi là “người lạ đáng ngờ” giữa lòng xã hội Kitô giáo. Và khi khủng hoảng nổ ra – từ dịch bệnh đến thất bại chiến tranh – họ trở thành
vật tế thần tiện lợi nhất, bị trục xuất, tàn sát, hoặc tịch thu tài sản. Tư tưởng bài Do Thái này được nâng lên thành thuyết âm mưu trong thế kỷ XX, bị Đức Quốc xã lợi dụng triệt để, dẫn đến
thảm họa Holocaust – hơn 6 triệu người bị sát hại trong sự thờ ơ hoặc đồng lõa của thế giới “văn minh”.