[Funland] Lịch sử văn minh phương Tây - Từ Hy Lạp đến La Mã

gsm615

Xe điện
Biển số
OF-863932
Ngày cấp bằng
19/7/24
Số km
2,101
Động cơ
61,395 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Tên Alecxander Đại đế chỉ là tên râu ria sau này. Mỗ nghi tên đầu sỏ của bọn chúng chính là tên Solon, chờ giáo sư giải đáp. Hay là ta nên bắt khẩn cấp tên Solon, oánh nhầm còn hơn bỏ sót? Xa thu =)).
Cần gì Do Thái phát minh ra công thức "Tiệc tùng, rượu ngon, gái đẹp..."
Em hạp lắm.
Em xin được "tha hóa" ah.
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
477
Động cơ
33,199 Mã lực
Cần gì Do Thái phát minh ra công thức "Tiệc tùng, rượu ngon, gái đẹp..."
Em hạp lắm.
Em xin được "tha hóa" ah.
Bọn hang ổ sài lang Hy Lạp chúng còn bịa ra chuyện thần thoại để ru ngủ nhân dân tiến bộ sa vào truỵ lạc, nào là diệu nho ô liu gái đẹp, nào là anh hùng rơm Iliad Odysey. Chúng làm ảnh hưởng tới cả La Mã mê muội tin theo những chuyện mị dân huyền hoặc bịa đặt của chúng. Chỉ là một quốc gia nhỏ ven Địa Trung Hải, chúng thế éo nào có số mệnh lại làm hang ổ truyền bá đồi truỵ cho cả giới bè lũ đế quốc sài lang hiện nay. Xạ thu =)).
 

gsm615

Xe điện
Biển số
OF-863932
Ngày cấp bằng
19/7/24
Số km
2,101
Động cơ
61,395 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Bọn hang ổ sài lang Hy Lạp chúng còn bịa ra chuyện thần thoại để ru ngủ nhân dân tiến bộ sa vào truỵ lạc, nào là diệu nho ô liu gái đẹp, nào là anh hùng rơm Iliad Odysey. Chúng làm ảnh hưởng tới cả La Mã mê muội tin theo những chuyện mị dân huyền hoặc bịa đặt của chúng. Chỉ là một quốc gia nhỏ ven Địa Trung Hải, chúng thế éo nào có số mệnh lại làm hang ổ truyền bá đồi truỵ cho cả giới bè lũ đế quốc sài lang hiện nay. Xạ thu =)).
thần thoại HL cũng hay và tự nhận là "huyền thoại", minh bạch hơn lý thuyết "thế giới đại đồng, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu...", em toàn ngủ gật.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
1764681708055.png


Nhân vật chính hôm nay là Pisistratus (còn viết là Peisistratus, Pisistratos). Ông sinh ra trong gia đình quyền quý, với xuất thân, cử chỉ, phong thái, và gu thẩm mỹ đều mang đậm chất quý tộc. Bản thân ông cũng từng là một thương nhân và rất thành công. Tuy nhiên, ông lại là một chính trị gia thực thụ của người nghèo. Thành tích chính trị của Pisistratus có thể khiến tất cả mọi người phải kinh ngạc.

Để làm rõ cuộc đời huyền thoại của Pisistratus, chúng ta phải bắt đầu từ kết quả của cuộc cải cách Solon.

Trong phần trước đã nói, cải cách Solon đã xóa bỏ ảnh hưởng của xuất thân đối với địa vị xã hội của một người, chuyển sang phân chia giai cấp dựa trên mức độ tài sản.

(Cải cách của Solon đã đắc tội không ít quý tộc. Chuyện kể rằng, khi có người hỏi ông có sợ không, ông lạnh lùng trả lời, mày biết tao tên gì không? Solon gì.)

Dòng máu quý tộc bị gạt sang một bên, luật chơi truyền thống đã thay đổi, và vấn đề cũng theo đó mà thay đổi. Sự đối lập giai cấp dựa trên huyết thống trước đây giữa quý tộc và dân thường đã biến mất, vậy việc phân chia bằng tài sản sẽ tạo ra vấn đề mới nào?

Chúng ta cần làm rõ tài sản ở Athens thời kỳ này được hình thành như thế nào.

Sau cải cách Solon, sức sống xã hội của Athens được khơi dậy, lại đúng lúc làn sóng thuộc địa hóa hải ngoại thứ hai dâng cao. Mở rộng tuyến đường thương mại nước ngoài trở thành trụ cột kinh tế mới, đồng thời thương nghiệp và nông nghiệp nội bộ Athens cùng trở thành động cơ kinh tế. Như vậy, có hai nguồn tài sản, một là nông nghiệp truyền thống, tài sản dựa vào đất đai; hai là thương nghiệp, kiếm tiền nhờ giao thương với các thành bang hải ngoại. Từ đó, hình thành hai nhóm giàu có là địa chủ và thương nhân. Cùng với nhóm yếu thế, họ tạo thành ba phe phái ở Athens: Phe Đồng Bằng, Phe Bờ Biển, và Phe Miền Núi.

Phe Đồng Bằng: Đất đai của các địa chủ chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng xung quanh thành Athens, nên được gọi là “Phe Đồng Bằng”. Thành phần chủ yếu là con cháu các gia đình quý tộc cũ. Họ dựa vào tài sản đất đai tổ tiên để lại, tạo thành một thế lực chính trị trong thành Athens. Họ chịu tổn thất khá lớn trong cải cách Solon, nên cực kỳ căm ghét cải cách.

Phe Bờ Biển: Tài sản cơ bản mà tầng lớp thương nhân kiểm soát là các cảng biển, chủ yếu tập trung ở khu vực ven biển, nên được gọi là Phe Bờ Biển. Họ là những người hưởng lợi từ cải cách Solon, tự nhiên ủng hộ cải cách, và nhanh chóng trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của tầng lớp trung lưu Athens.

Phe Miền Núi: Hai phe trên đều là người thành công, ắt sẽ có người thất bại. Có một nhóm người không có đất đai, cũng không biết kinh doanh, nằm ở đáy chuỗi khinh bỉ. Nhiều người trong nhóm này sống ở vùng núi, nên được gọi là Phe Miền Núi. Một mặt, cải cách Solon đã giảm nhẹ tình trạng nợ nần của họ, nhưng đối với thứ họ khao khát nhất là đất đai, Solon lại không “đánh địa chủ, chia ruộng đất”. Vì vậy, nhóm người này có tình cảm phức tạp nhất đối với cải cách Solon, nhưng lòng khao khát đất đai thì không bao giờ thay đổi.

Vậy là, ngoài Phe Miền Núi khá yếu thế, tài sản của Athens chủ yếu tập trung trong tay Phe Bờ Biển và Phe Đồng Bằng. Nói trắng ra là thương nhân và địa chủ tranh giành quyền lợi, khiến Athens rơi vào “cuộc chiến đường lối” giữa việc đi theo hải quyền hay lục quyền.

Pisistratus bước chân vào chính trường trong bối cảnh này.

Khi Pisistratus còn trẻ, chàng trai này đã có vẻ ngoài điển trai và sức thu hút mạnh mẽ. Cộng thêm xuất thân từ gia đình quý tộc thượng lưu, phong thái, cử chỉ, học thức và gu thẩm mỹ của ông đều thuộc hàng nhất nhì thành Athens lúc bấy giờ. Hơn nữa, ông còn là em họ của Solon nên rất được chú ý, đi đến đâu cũng có vòng hào quang nhân vật chính. Cuối đời Solon, vì nhiều lý do, Athens đã xảy ra xung đột ngoại giao với thành bang láng giềng Megara (thành bang này rất quan trọng, nhiều sự kiện lịch sử lớn sau này đều có bóng dáng nó). Nguyên nhân xung đột là tranh giành một nơi gọi là Đảo Salamis (đây cũng là một nơi cực kỳ quan trọng), hai bên giằng co 10 năm, ngay cả đại ca Sparta cũng phải ra mặt hòa giải. Trong quá trình này, Pisistratus đã thể hiện khả năng và trí tuệ phi thường. Ông đã thành công giành lấy Đảo Salamis bằng cả biện pháp ngoại giao và chiến tranh. Công chúng Athens vì thế đã gọi Pisistratus là “Người hùng Salamis”. Năm đó, ông mới 30 tuổi.

Với chiến công đầu tiên trong sự nghiệp này, Pisistratus đã trở thành siêu sao chính trị của Athens khi còn trẻ, và sau đó từng bước trở thành nhà lãnh đạo thực tế của Athens. Pisistratus đồng cảm với nhóm yếu thế, ngay từ đầu đã đứng về phía Phe Miền Núi, và trọng tâm chính sách cũng là chăm lo cho những nông dân này. Điều này tự nhiên khiến Phe Bờ Biển và Phe Đồng Bằng cực kỳ bất mãn. Thế là, Pisistratus và họ bắt đầu một cuộc đấu tranh cam go, tạo nên vở kịch “Ba lần lên voi xuống chó” trong sự nghiệp chính trị của ông.

I. Vở kịch cung đấu

Vòng một: Phe Bờ Biển và Phe Miền Núi hợp sức, công khai và ngấm ngầm gây khó dễ cho Pisistratus. Pisistratus lúc đó còn quá trẻ, trình còn non, đối mặt với sự tấn công kép này, ông không có nhiều chiêu thức chống đỡ, cuối cùng đành phải đầu hàng. Vòng một thua lấm lưng trắng bụng.

Sau khi bị lật đổ, Pisistratus rời khỏi Athens, nhưng thành phố này không vì thế mà yên tĩnh. Pisistratus đã đi, vậy vị trí của Pisistratus nên trao cho ai? Bất cứ ai từng xem phim cung đấu đều sẽ nghĩ ngay đến một từ: nội chiến. Đúng vậy, chỉ một năm sau khi Pisistratus ra đi, hai phe đã cắn xé nhau vì quyền lãnh đạo tối cao. Lúc này, lãnh đạo của Phe Bờ Biển đã bí mật liên hệ với Pisistratus, hy vọng liên thủ với ông để hạ gục Phe Đồng Bằng, họ đưa ra điều kiện khá hấp dẫn: gả con gái cho ông, sau đó nếu có chiến đấu, nhạc phụ con rể cùng tiến lên!

Pisistratus lúc đó vừa mất vợ, phải tự mình nuôi nấng hai con trai. Giờ đây có thể quay lại trung tâm quyền lực, lại còn có thêm một người vợ miễn phí, Pisistratus không chút do dự đồng ý.

Nhờ mối quan hệ này, Pisistratus đường đường chính chính quay lại chính trường Athens, và cũng thành công liên thủ với bố vợ để loại bỏ Phe Đồng Bằng. Nhưng sau đó, vở kịch hai cha con cùng nhau thống trị Athens mà bố vợ ông kỳ vọng đã không xảy ra.

Pisistratus từ chối hợp tác!

Đúng là tên khốn, qua cầu rút ván, phủi tay không nhận.

Tại sao Pisistratus từ chối hợp tác và cách ông từ chối như thế nào, hiện vẫn chưa có một lời giải thích hoàn toàn đáng tin cậy. Một số người suy đoán là vì ông không muốn quá thân thiết với Phe Bờ Biển, bởi vì trong lòng ông vẫn đồng cảm với Phe Miền Núi. Nhưng bố vợ nổi giận là điều chắc chắn, không trừng trị ông thì sau này còn mặt mũi nào gặp người ta. Thế là, bố vợ lại quay lại tìm Phe Đồng Bằng, một lần nữa liên thủ để hạ bệ Pisistratus. Vòng hai, Pisistratus thua sát nút.

Vì bố vợ quá tức giận, Pisistratus không thể tiếp tục ở Athens được nữa. Ông mang theo tiền bạc đến vùng Thessaly ở miền bắc Hy Lạp mua đất đai và mỏ khoáng sản, làm ăn kinh doanh, sống một cuộc đời giàu có, dường như (chỉ là dường như) không còn quan tâm đến chính trị.

Điều đáng nói là vợ ông, con gái của đối thủ chính trị, lại một lòng đi theo ông đến miền Bắc, bất chấp tâm trạng và thể diện của cha mình. Cần biết rằng, đây là một cuộc hôn nhân chính trị, kết hôn chưa lâu, hai người không có nền tảng tình cảm. Việc cô gái này có thể làm như vậy, chỉ có thể nói rằng sức hút của Pisistratus quá mạnh.

Lần này Pisistratus bị lật đổ khá lâu, tròn 10 năm. Nhưng kinh nghiệm tích lũy trong thời gian này lại đóng vai trò quyết định cho thành công sau này của ông.

Sau khi bị lật đổ, Pisistratus kinh doanh rất thành công, nhanh chóng có được khối tài sản khổng lồ. Nhưng ông không hài lòng với cuộc sống giàu sang, trong thời gian đó, ông dùng tài sản để kết giao rộng rãi, đồng thời thiết lập mối liên hệ mật thiết với người nghèo thuộc Phe Miền Núi ở Athens. Ông dùng số tài sản kếch xù của mình để thành lập một đội quân đánh thuê quy mô 1.000 người, chuẩn bị phản công Athens.

Cuối cùng, vào năm 546 TCN, Pisistratus nhìn thấy cơ hội và dẫn đội quân đánh thuê này quay lại. Athens lúc bấy giờ đã bị sự đấu đá kéo dài giữa Phe Bờ Biển và Phe Đồng Bằng làm cho rối loạn, người dân đã quá mệt mỏi. Vì vậy, khi Pisistratus áp sát thành, người dân đã mở cổng thành chào đón. Người của hai phe mất đi sự ủng hộ của quần chúng, hoàn toàn không còn ý chí chiến đấu, vội vàng bỏ chạy. Cuộc giành chính quyền bằng vũ lực này đã thành công một cách kỳ diệu, không chết một người, không đổ một giọt máu.

Vòng ba, Pisistratus đại thắng.

Sau cuộc chính biến thành công, Pisistratus cuối cùng đã ngồi vào vị trí lãnh đạo tối cao của Athens. Lúc này ông 54 tuổi, đã 24 năm trôi qua kể từ khi ông thành danh khi còn trẻ và giành được danh hiệu “Người hùng Salamis”.

Tuy nhiên, ngồi chưa ấm chỗ, Pisistratus đã phải đối mặt với hết vấn đề này đến vấn đề khác. Vấn đề hàng đầu là làm thế nào để giữ vững cái ghế này?

II. Củng cố quyền lực

Pisistratus lên nắm quyền bằng cuộc chính biến vũ lực, chứ không phải quy trình bầu cử thông thường. Bởi vì cải cách Solon trước đó đã quy định rõ ràng, các công chức nhà nước phải được bầu ra theo quy trình pháp luật. Do đó, việc ông lên nắm quyền bằng chính biến không có tính hợp pháp.

Pisistratus đã giải quyết vấn đề này như thế nào?

Có người hỏi, ông ấy có quân đội trong tay, ai có thể nói gì? Suy nghĩ này rất thiển cận. Chính trị xét cho cùng là nghệ thuật giao tiếp và thỏa hiệp. Nếu cứ áp đặt bằng vũ lực, chỉ cần có đủ thời gian tích lũy lực lượng phản đối, thì sự cứng rắn đó cuối cùng sẽ quay lại nuốt chửng chính mình. Pisistratus hiểu rất rõ điều này, ông biết thân phận kẻ đảo chính là điểm yếu lớn nhất của mình, nhưng ông lại không áp dụng sự thống trị bằng bạo lực mà sử dụng một phương pháp vòng vo.

Cụ thể là “kế thừa toàn diện chế độ hiến pháp của Solon”.

Những cải cách của Solon, đặc biệt là chế độ bầu cử, chế độ công dân tham gia chính sự, chế độ chấp chính quan, chế độ bồi thẩm đoàn... những quyền công dân này đã ăn sâu vào lòng người Athens. Pisistratus rất tôn trọng tình trạng này, vì vậy, ông chấp nhận toàn bộ những gì Solon để lại. Công dân vẫn có thể tham gia Đại hội Công dân, Hội đồng 400 vẫn hoạt động bình thường. Đối với chính sách mình không thích, trước đây người dân có thể phản đối, bây giờ vẫn có thể la mắng; trước đây có 9 vị chấp chính quan, bây giờ vẫn là 9 vị; trước đây bạn thấy khó chịu với chấp chính quan nào, có thể chỉ thẳng mặt mà mắng, bây giờ vẫn vậy. Kể cả bản thân Pisistratus, nếu bạn không hài lòng, cứ việc tốc váy lên mà chửi, Pisistratus đảm bảo không đánh trả, không mắng lại. Tóm lại, trước đây thế nào, bây giờ vẫn thế đó.

Bằng cách này, tín hiệu mà Pisistratus truyền tải đến toàn thể công dân Athens là: Tôi là người thừa kế di sản của Solon. Các bạn không công nhận tôi không sao, nhưng Solon thì chắc các bạn đều công nhận phải không? Bây giờ tôi đang thực hiện toàn bộ hệ thống mà Solon để lại, các bạn phản đối tôi chính là phản đối Solon, và nếu ủng hộ tôi cũng tương đương với việc kế thừa di sản của Solon.

Vậy có người sẽ hỏi, Pisistratus đã vất vả lắm mới ngồi được vào vị trí lãnh đạo, chẳng lẽ chỉ để tự chuốc lấy phiền phức sao? Nếu ông ấy muốn làm việc, nhưng có người ngày nào cũng gây cản trở, thì ông ấy phải làm thế nào?

Điều này không làm khó được Pisistratus, biện pháp ông áp dụng là: Thực chất quan trọng hơn hình thức.

Bị mắng vài câu thì có là gì, bị người khác thách thức quyền lực cũng chẳng sao, đó đều là những chuyện thể diện bên ngoài. Cái mà Pisistratus muốn là cái lõi bên trong, tức là quyền lực thực tế. Chỉ cần đề xuất của ông có thể được thông qua, chỉ cần ý tưởng của ông có thể được thực hiện, chỉ cần ý định của ông cuối cùng có thể trở thành quốc sách của Athens, thì việc nó được thông qua bằng cách nào, liệu đó là ông tự mình quyết định hay là quyết định tập thể, hết thảy đều không quan trọng. Pisistratus có thể chịu đựng việc có thêm 8 chấp chính quan ngang hàng với mình, nhưng chỉ cần lời nói của Pisistratus có trọng lượng nhất, chỉ cần ý tưởng của Pisistratus có thể được Đại hội Công dân và Hội đồng 400 đặt lên hàng đầu là được. Việc ông có đứng đầu trong ban lãnh đạo hay không hoàn toàn không quan trọng. Bề ngoài ông không phải là lãnh tụ tối cao cũng chẳng sao, chỉ cần trên thực tế ông là lãnh tụ tối cao là được.

Đây là một lối chơi của cao thủ, cần có trí tuệ và lòng dạ, người thường khó lòng làm được. Sau này, trong thời kỳ hoàng kim của Athens, Pericles cũng đã làm như vậy. Khoảng 600 năm sau, ở La Mã có một người đã kế thừa hoàn chỉnh công pháp này và chơi nó một cách tinh xảo hơn, đó chính là Octavian, Hoàng đế khai quốc của Đế chế La Mã, còn được gọi là Đại đế Augustus, người được đặt tên cho tháng 8. Lại 1500 năm sau, ở Ý có một người tên là Cosimo de Medici cũng đã chơi lại bộ này. Ông là người cai trị thực tế của Florence thời Phục hưng, và cũng là nhà đầu tư nghệ thuật chính trong thời kỳ đó. Không có người này, mọi người sẽ không được chiêm ngưỡng những cái tên lừng lẫy như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael, Botticelli. Nói cho cùng, lối chơi này là dân chủ về hình thức, độc tài về bản chất, chúng ta có thể gọi đó là “độc tài ôn hòa”.

Sau một loạt thao tác này, tiếng nói phản đối Pisistratus dần dần nhỏ lại. Cách độc tài ôn hòa của Pisistratus dần dần được người Athens công nhận, và vị trí lãnh đạo của ông cũng dần được củng cố.

Vị trí lãnh đạo đã vững, vậy bước tiếp theo là dẫn dắt Athens bắt đầu xây dựng.

Giải quyết xong vấn đề hàng đầy, tiếp theo Pisistratus phải đối mặt với một vấn đề xưa cũ: Sự cản trở của Phe Đồng Bằng và Phe Bờ Biển.

Chúng ta đã nói trước đó, Phe Đồng Bằng và Phe Bờ Biển dựa vào cái gì để tồn tại? Phe Đồng Bằng thực chất là dựa vào đất đai để có được tài sản, từ đó có được quyền lực; Phe Bờ Biển là nhóm thương nhân, nền tảng quyền lực của họ đến từ biển cả, làm giàu nhờ thương mại hàng hải.

Giải thích như vậy, có lẽ bạn đã nhận ra bản chất của Phe Đồng Bằng và Phe Bờ Biển là gì rồi.

Đó chính là nhà sản xuất và nhà phân phối.

Phe Đồng Bằng làm ra sản phẩm, Phe Bờ Biển mang sản phẩm đó đến với người tiêu dùng trong ngoài nước. Bản chất cả hai là mối quan hệ tương hỗ chứ không phải đối lập. Về bản chất, cả hai không thể thiếu nhau. Vì vậy, đừng thấy họ thường xuyên dàn trận cấu xé nhau, đó là sự tranh giành quyền phát ngôn giữa hai bên, thuộc về mâu thuẫn nội bộ. Nhưng nếu Pisistratus muốn can thiệp, hai phe chắc chắn sẽ liên minh lại để chống đối ông. Và vì hai phe này kiểm soát toàn bộ chuỗi kinh tế của Athens, từ sản xuất đến tiêu thụ, nên nếu động chạm đến họ một cách đột ngột, chắc chắn sẽ làm tổn hại đến sự ổn định chung của Athens. Người của hai phe này cũng nhìn thấy con bài mặc cả trong tay đủ lớn nên mới dám đối đầu với Pisistratus. Nói trắng ra, họ cược rằng ông sẽ sợ ném chuột vỡ đồ.

Vậy Pisistratus đã làm thế nào để vừa xử lý hai phe này, lại vừa đảm bảo kinh tế Athens không bị ảnh hưởng?

Giải pháp của ông rất mạnh mẽ và quyết liệt, bởi vì ông đã tích lũy đủ thực lực.

Bạn còn nhớ chuyện Pisistratus bị lật đổ lần thứ hai và phải đến miền Bắc Hy Lạp làm ăn không? Trong 10 năm đó Pisistratus kinh doanh cực kỳ thành công. Nhưng, nếu bạn nghĩ rằng thứ mà ông thu hoạch được sau 10 năm kinh doanh chỉ là tiền bạc thì bạn quá sai. Qua việc kinh doanh, mạng lưới quan hệ của ông đã mở rộng các thành bang lớn nhỏ quanh Biển Aegean. Những người đứng đầu chính giới, giới tinh hoa thương mại ở những thành bang này, Pisistratus đều vô cùng thân thiết. Ông gặp ai cũng gọi là anh em, ai gặp ông cũng phải gọi là huynh đệ. Trong 10 năm xuống dốc này, mặc dù Pisistratus xa rời chính trường, nhưng nhờ kinh doanh giỏi, ông đã tích lũy được một nguồn tài nguyên cực kỳ quan trọng cho việc tham gia chính trường, đó là mối quan hệ rộng khắp thế giới Hy Lạp.

Pisistratus lên nắm quyền lần thứ ba đã vận dụng những tài nguyên này, phát động tấn công Phe Đồng Bằng và Phe Bờ Biển, và đây là một cuộc tấn công đồng thời, triệt để.

Phe Đồng Bằng nắm sản xuất hả? Không sao, tôi có rất nhiều đất đai và mỏ ở Hy Lạp, giờ tôi dốc hết ra để hỗ trợ xây dựng đất nước. Thế là có nông sản và khoáng sản rồi phải không? Tôi chào hỏi tất cả bạn bè ở các thành bang Aegean, những nhu yếu phẩm mà Athens của tôi cần, các bạn nể mặt mà cung cấp đủ cho tôi; hàng hóa của tôi bán sang chỗ các bạn, thuế phí nào miễn được thì miễn, không miễn được thì hoãn thanh toán, tóm lại là đưa chi phí hàng hóa của tôi xuống mức thấp nhất. Thế thì mấy ông Phe Đồng Bằng còn cạnh tranh với tôi bằng cách nào nữa?

Phe Bờ Biển, các người độc quyền kênh phân phối và thị trường chứ gì? Không sao, tôi sẽ dùng mối quan hệ của mình, lập thêm một đội buôn khác. Tuyến đường thương mại và hàng hải đều đã có sẵn, chỉ cần kết nối những tài nguyên mà tôi có khi còn làm ăn kinh doanh là được. Còn về thị trường hạ nguồn, tôi trực tiếp thỏa thuận với các lãnh đạo thành bang, quy định họ chỉ chấp nhận hàng hóa của tôi, cảng của họ chỉ cho phép tàu của tôi ra vào, hàng hóa của thành bang họ chỉ được bán cho đội tàu của tôi. Còn những tàu và hàng hóa không phải của tôi thì tránh qua một bên chơi. Phe Bờ Biển các người dù có giỏi đến đâu, nhưng không có hàng để vận chuyển, hoặc vận chuyển mà không bán được, thì tiếp tục kinh doanh kiểu gì?

Còn đối với người Athens bình thường, nguồn cung hàng hóa trên thị trường không giảm, giá cả ổn định; đấu tranh chính trị cũng không làm kinh tế suy thoái, không khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Đại đa số người dân có thể yên tâm xem kịch, không có ý kiến gì với Pisistratus. Chỉ cần không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi, Pisistratus muốn làm gì thì tùy!

Có sản xuất, có tiêu thụ, có thị trường, có vốn, lại còn có nền tảng quần chúng vững chắc, Pisistratus như thế, ai có thể chống đỡ được?

Mấy chiêu này của Pisistratus quả là đòn chí mạng. Sau vài hiệp, Phe Đồng Bằng và Phe Bờ Biển bị đấm cho thoi thóp. Cứ như vậy, Pisistratus đã loại bỏ nhà sản xuất và nhà phân phối cũ, tự mình nắm cả sản xuất lẫn kênh phân phối, độc chiếm thị trường, oai phong lẫm liệt. Ông đã đi con đường của mình, khiến người khác không còn đường để đi.

Thật là tàn nhẫn!

III. Xây dựng kinh tế

Giải quyết xong phe đối lập, bước tiếp theo, Pisistratus bắt tay vào xây dựng kinh tế, vì dù sao con người vẫn phải ăn uống.

Trước hết, vì Phe Đồng Bằng bị xử lý triệt để, những người này kẻ tản mát, người bỏ trốn, để lại nhiều đất đai. Pisistratus vui vẻ thuận nước đẩy thuyền, trực tiếp lấy ra chia cho người nghèo. Giấc mơ mà nông dân Athens chưa thực hiện được dưới thời Solon đã được Pisistratus thực hiện bằng cách này.

Thứ hai, cải cách tiền tệ. Để kinh tế Athens ổn định và phát triển, một loại tiền tệ vững chắc là không thể thiếu. Trước đó, vì muốn xoa dịu mâu thuẫn nội bộ, Solon đã thực hiện việc phá giá tiền tệ. Điều này là phù hợp vào thời điểm đó, nhưng bây giờ phải sửa lại. Thế là, Pisistratus phát hành một bộ tiền tệ mới, đồng bạc Drachma. Giá trị của đồng bạc đến từ độ tinh khiết của bạc, vì vậy phải đảm bảo sự ổn định và hiệu quả của việc khai thác mỏ bạc. Thật trùng hợp, công việc kinh doanh chính của Pisistratus trong 10 năm làm thương nhân chính là khai thác mỏ, điều này tự nhiên không thành vấn đề. Vì thế, giá trị của bộ tiền tệ này rất ổn định. Bộ tiền tệ này sau này đã trở thành tiền tệ lưu hành của Athens, và đã lưu thông trong suốt 200 năm. Đồng 1 Euro mà Hy Lạp sử dụng ngày nay, mặt sau có hình ảnh đồng bạc Drachma mà Pisistratus phát hành năm xưa, với con cú của nữ thần Athena, tượng trưng cho trí tuệ và lý trí.

Đất đai và tiền tệ là nền tảng cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Loạt biện pháp của Pisistratus tương đương với việc củng cố an ninh kinh tế.

Nhưng đó chưa phải là điều lợi hại nhất.

Những biện pháp kinh tế tiếp theo của ông mới thực sự cho thấy tầm nhìn chiến lược và khả năng thực thi của người đàn ông này mạnh mẽ đến mức nào.

Người thường nếu có mối quan hệ và tài nguyên như Pisistratus, chắc sẽ chỉ nằm trên đó mà hưởng lợi, vì dù sao những tài nguyên này đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế của Athens không thành vấn đề. Nhưng Pisistratus không nghĩ đến việc ăn bám, mà trên cơ sở nguồn nhân lực dồi dào, ông tiến thêm một bước, phát triển một ngành công nghiệp hoàn toàn mới, khiến sức mạnh thương mại của Athens trở nên hùng mạnh chưa từng có.

Ngành công nghiệp mới này được gọi là công nghiệp thủ công mỹ nghệ cao cấp.

Đặc sản truyền thống của Athens là rượu vang và dầu ô liu, những thứ này cho đến ngày nay vẫn là đặc sản của Hy Lạp. Đây là thương mại xoay quanh nông nghiệp, chúng ta biết điểm yếu của nông nghiệp là trông trời, trông đất, trông mây. Ông trời không ưu đãi, bạn có nguy cơ bị đói. Pisistratus đã nhìn thấy điểm này, ông suy nghĩ về cơ cấu thương mại, chuyển trụ cột kinh tế của Athens từ nông nghiệp sang thủ công nghiệp.

Sản phẩm thủ công dựa vào kỹ thuật, ít phụ thuộc vào tự nhiên hơn, và giá trị gia tăng của kỹ thuật thủ công rất cao, lợi nhuận thu được lớn hơn nhiều so với nông sản. Dùng thuật ngữ ngày nay, nước cờ này của Pisistratus được gọi là tối ưu hóa cơ cấu công nghiệp và thúc đẩy chuyển đổi, nâng cấp ngành nghề.

Ví dụ, Pisistratus đã chọn một sản phẩm để hỗ trợ, đó là ngành công nghiệp gốm sứ.

Đồ gốm vào thời Hy Lạp bấy giờ vừa là nhu yếu phẩm, vừa là xa xỉ phẩm.

Nói là nhu yếu phẩm, vì cuộc sống của người Hy Lạp thời đó, ăn uống, sinh hoạt hầu như đều dùng đồ gốm. Bát ăn, ly uống rượu, chum đựng, cho đến dụng cụ rửa mặt rửa tay, gần như đều là đồ gốm. Nói là xa xỉ phẩm, vì càng về sau, các nghệ nhân gốm sứ càng dành nhiều tâm huyết để làm đẹp cho đồ gốm, khiến nhiều món đồ gốm mang giá trị nghệ thuật. Điều này khiến những món đồ gốm đó tăng giá trị lên gấp bội, trở thành biểu tượng cho cuộc sống tinh tế của giới thượng lưu. Ví dụ, nhiều đồ gốm được bảo tồn đến nay, bên ngoài thường được vẽ nhiều nhân vật và phong cảnh, nội dung của những bức tranh này là các đoạn trong thần thoại Hy Lạp, trình độ nghệ thuật của những bức vẽ này rất cao. Ngày nay, khi đi du lịch nước ngoài, tại các bảo tàng nổi tiếng như Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Athens, Bảo tàng Anh ở London, Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York, bạn đều có thể thấy nhiều đồ gốm thời Hy Lạp. Những tác phẩm này có chất lượng tuyệt hảo, chế tác tinh xảo, khiến người xem phải kinh ngạc.

Thông qua việc phát triển ngành thủ công mỹ nghệ cao cấp này, Athens đã nhanh chóng độc quyền thị trường đồ gốm trung và cao cấp của Aegean. Việc chuyển đổi đã thành công rực rỡ, sức mạnh thương mại của Athens nhanh chóng vươn lên thành số một Aegean. Có thể thấy tầm nhìn và thủ đoạn của Pisistratus mạnh mẽ đến mức nào.

Có tiền, việc xây dựng đời sống công cộng và văn minh tinh thần cũng không thể chậm trễ. Việc đầu tiên ông làm là cải thiện diện mạo thành phố Athens. Trước đây Athens toàn là nhà tranh, trông rất xấu xí. Pisistratus chi tiền cải tạo tất cả thành kiến trúc đá cẩm thạch, phong cách kiến trúc bắt đầu sử dụng kết cấu cột, cột chịu lực chuyển từ kiểu Doric đơn điệu sang kiểu Ionic thanh lịch và kiểu Corinthian tinh xảo. Sau một vòng cải tạo, thành phố Athens trông hoàn toàn trở thành một đô thị lớn, sang trọng, khiến người nước ngoài đến đây đều phải ghen tị và ngưỡng mộ.

IV. Văn hóa nghệ thuật

Tiếp theo là đời sống tinh thần, đầu tiên là xây dựng văn hóa. Pisistratus chi tiền xây dựng thư viện công cộng đầu tiên trong thế giới Hy Lạp, thu thập nhiều phiên bản của tác phẩm văn học kinh điển nhất của Hy Lạp lúc bấy giờ là Iliad và Odyssey (Sử thi Homer), biên soạn và chỉnh lý thành một định dạng cố định để xuất bản. Định dạng này chính là phiên bản phổ biến của Sử thi Homer mà chúng ta thấy ngày nay. Tầm văn hóa của Athens ngay lập tức được nâng lên vài bậc.

Tiếp theo là lĩnh vực xã hội. Pisistratus học tập theo mô hình Thế vận hội Olympic, tạo ra một sự kiện ở Athens gọi là “Lễ hội Panathenaia”. Lễ hội này cũng được tổ chức bốn năm một lần, tất cả các thành bang xung quanh Biển Aegean đều tập trung về Athens để tham gia lễ hội, vô cùng náo nhiệt và hoành tráng chưa từng có.

Cuối cùng là giải trí công cộng. Pisistratus đã xây dựng một ngôi đền thờ thần rượu Dionysus ở sườn đồi phía nam Athens, hàng năm tổ chức các hoạt động ăn mừng tương tự như lễ hội hóa trang ngày nay dưới danh nghĩa cúng tế thần rượu, mời toàn bộ các thành bang Hy Lạp cùng đến vui chơi. Hoạt động này có ảnh hưởng sâu rộng kinh người. Vào thời điểm đó, thần rượu Dionysus là một vị thần có xuất thân bình dân. Việc Pisistratus lấy ông làm đối tượng cúng tế để tổ chức hoạt động, dùng từ ngữ ngày nay mà nói là đỉnh cao dân túy. Chiêu này rất được người dân bình thường yêu thích. Trí tuệ và sức sáng tạo của quần chúng là vô tận. Dưới sự kích thích của rượu, mọi người bắt đầu tổ chức các buổi biểu diễn kịch tại Lễ hội Dionysus, và dần dần thêm phần ca hát. Từ đơn ca, hợp xướng đến lĩnh xướng, nhiều hình thức kết hợp phát triển dần, cuối cùng tạo nên sự bùng nổ tập trung của các tác phẩm bi kịch nổi tiếng trong lịch sử Athens. Các tác phẩm như Oedipus Rex của Sophocles, Prometheus Bị Xiềng của Aeschylus đều được sáng tác trong quá trình này, lần đầu công diễn tại Lễ hội Dionysus và lưu truyền trở thành kinh điển ngàn năm.

Qua một loạt thao tác hoa mắt này, Athens đã dần trở thành trung tâm nghệ thuật, thương mại và văn hóa được công nhận dọc bờ biển Aegean một cách tự nhiên.

Vừa biết kiếm tiền, lại vừa biết tiêu tiền, đó mới là trình độ.

Trong 19 năm dưới sự cai trị của ông, Athens đã trở thành một đô thị lớn với kinh tế phát triển, chính trị ổn định, văn hóa hưng thịnh và nghệ thuật phồn vinh. Thành phố nhanh chóng nổi bật trong thế giới Hy Lạp, đặc biệt là ở khu vực Aegean. Ảnh hưởng của nó lan rộng khắp Biển Aegean với tốc độ chưa từng có. Muốn biết Athens lúc đó huy hoàng đến mức nào, chỉ cần xem phản ứng của đại ca Sparta là rõ. Vào cuối đời Pisistratus, Sparta cảm thấy Athens quá nổi bật, một mình thành bang Sparta có phần không chống đỡ nổi. Thế là, Sparta triệu tập các thành bang nhỏ hơn, tổ chức một cuộc họp. Những gì vị đại ca nói trong cuộc họp không quan trọng, điều quan trọng là sau cuộc họp đã xuất hiện một thành quả, gọi là Liên minh Peloponnesus.

Sparta cần phải gọi hội mới có thể đối đầu với Athens. Từ đó có thể thấy được tốc độ, cường độ trỗi dậy của Athens, cũng như mức độ rộng rãi và khốc liệt của ảnh hưởng mà nó gây ra cho thế giới Aegean lúc bấy giờ.

Muốn đánh giá trình độ của một người, hãy xem đối thủ của người ta ở đẳng cấp nào.

Có thể thấy, mặt dù lên nắm quyền bằng chính biến, Pisistratus đã nhanh chóng đưa Athens lên một tầm cao mới bằng thủ đoạn, tầm nhìn, năng lực và tài nguyên của mình. Dưới sự cai trị của ông, việc Athens trỗi dậy là một sự thật không thể chối cãi.

Khi hoàn thành sứ mệnh của mình vực Athens trỗi dậy, Pisistratus đã hơn 70 tuổi. Kinh tế đã xong, tiếp theo đến dân chủ, lá cờ được giao cho Cleisthenes, để xem ông anh Cleisthenes này phất như thế nào?
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
1764681886132.png


Trong phần trước, chúng ta đã tìm hiểu và sự nghiệp lẫy lừng của Peisistratus. Có người sẽ hỏi: Chẳng lẽ Peisistratus chưa từng phạm sai lầm nào sao?

Tất nhiên là có.

Trong cuộc đời Peisistratus, những chuyện ngu ngốc ông làm không nhiều, nhưng không phải là không có, hơn nữa sai lầm còn không hề nhỏ. Vào những năm cuối đời, ông đã quá vội vàng chuyển giao quyền lực cho hai người con trai của mình.

Đây là điều cấm kỵ!

Peisistratus giỏi trị nước, người Athens rất công nhận điều đó. Vì vậy, ngay cả khi cái ghế ông có được không chính đáng, mọi người vẫn tuân theo sự lãnh đạo của ông. Nhưng sự công nhận của người Athens đối với ông không có nghĩa là họ cũng công nhận các con trai ông, phải rạch ròi chuyện nào ra chuyện đó chứ?

Ông muốn con trai kế vị, việc đó không phải là không thể, nhưng ít nhất ông cũng phải biết những quy tắc thông thường. Dù thế nào đi nữa, ông cũng nên để chúng bắt đầu hoạt động từ cơ sở, tích lũy kinh nghiệm từng chút một, thậm chí là làm quen với quần chúng cũng tốt. Đợi đến khi rèn luyện gần đủ, từ từ giao thêm gánh nặng, cho đến khi có thể kế vị. Điều này cũng giống như việc chơi game, đánh quái lên cấp, tích lũy điểm kinh nghiệm từng chút một. Nhưng Peisistratus thì không, ông giao quyền ngay lập tức, vừa vào game đã đi đánh boss rồi.

Thành thật mà nói, hai người con trai của Peisistratus cũng khá xuất sắc, ít nhất họ chắc chắn không phải là những công tử bột chỉ biết ăn chơi, nhưng dù sao họ cũng không cùng đẳng cấp với cha mình. Sau khi Peisistratus qua đời, hai người con trai cố gắng duy trì, nhưng cuối cùng vẫn không thể trấn áp được cục diện. Nhiều mâu thuẫn nội bộ của Athens đã bùng nổ, gây ra không ít sóng gió.

Tuy nhiên, cũng chính vì biến cố này mà nhân vật then chốt thứ ba trên con đường trỗi dậy của Athens đã thuận thế bước lên vũ đài, đó là Cleisthenes.

Xuất thân của Cleisthenes thậm chí còn bá hơn cả Peisistratus. Ông đến từ gia tộc hiển hách nhất của Athens, gia tộc Alcmaeonidae. Cleisthenes là một trong những nhân vật kiệt xuất của thế hệ trẻ trong gia tộc.

Nhưng nếu bạn nghĩ rằng Cleisthenes sẽ thuận buồm xuôi gió vì có hậu thuẫn vững chắc thì bạn đã lầm. Con đường Cleisthenes đi cũng đầy rẫy chông gai và khó khăn, giống như Peisistratus. Điểm khác biệt là, trở ngại Peisistratus gặp phải hoàn toàn đến từ nội bộ Athens, còn Cleisthenes, ông phải đối mặt với cục diện nội loạn ngoại xâm, tình cảnh bất lợi hơn.

Và tất cả những điều này, vẫn phải bắt đầu từ hai người con trai của Peisistratus.

Trước khi chết, Peisistratus đã trao quyền lực cai trị Athens cho cả hai người con trai, người anh tên là Hippias, người em tên là Hipparchus. Peisistratus sắp xếp họ cùng nhau cai trị đất nước, người anh chịu trách nhiệm tổng thể, người em chịu trách nhiệm điều hành các công việc cụ thể, tương đương với một Chủ tịch hội đồng quản trị và một CEO. Ban đầu, hai anh em làm khá tốt, thái độ cũng tận tâm, nhưng dù sao kinh nghiệm, uy tín và quan trọng nhất là kinh nghiệm làm việc thực tế của họ còn quá thiếu hụt. Sự cai trị của cả hai ngày càng lộ rõ vẻ mệt mỏi. Và một khi năng lực lãnh đạo suy giảm, thì nhiều thành phần xấu nổi lên và vô số chuyện lớn nhỏ tự động kéo đến.

Quả nhiên, 8 năm sau, năm 519 TCN, liền xảy ra chuyện.

Phía Bắc Athens có một nước láng giềng tên là Thebes (không phải Thebes ở Ai Cập), cũng là một thành bang có lịch sử lâu đời. Những câu chuyện về Thebes trong thần thoại Hy Lạp rất ly kỳ. Tương truyền, một anh hùng tên là Cadmus sau khi giết rồng, chôn răng rồng xuống đất, kết quả răng rồng mọc ra một đám chiến binh. Cadmus cùng những chiến binh này đã thành lập nên Thebes, một trong năm cường quốc lớn của Hy Lạp (cùng với Sparta, Athens, Corinth và Argos). Sau này, chúng ta còn nhiều lần nhắc đến họ.

Năm 519 TCN, Thebes xuất quân tấn công thành bang lân cận Plataea, muốn thôn tính nó. Plataea cầu cứu Athens. Plataea vốn nằm giữa Thebes và Athens. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, nó đóng vai trò là một vùng đệm. Có nó ở đó, hai cường quốc có thể tránh va chạm trực tiếp. Bây giờ Thebes muốn thôn tính Plataea, điều này rất bất lợi cho Athens. Chuyện này truyền đến Athens khiến nội bộ xôn xao. Đây chính là lúc thử thách năng lực lãnh đạo. Hippias nhất thời không biết xử lý ra sao, cuối cùng nghe theo cấp dưới, lựa chọn chiến tranh. Kết quả chiến tranh là Athens chiến thắng Thebes nhờ sức mạnh tổng hợp của quốc gia.

Thebes cảm thấy vô cùng tức giận.

Thebes là đồng minh của Peisistratus khi ông còn lưu vong ở phương Bắc, đã giúp đỡ rất nhiều trong lúc Peisistratus khó khăn nhất, nói là ân nhân của gia tộc Peisistratus cũng không quá lời. Trong thời kỳ Peisistratus cai trị Athens, hai thành bang cũng ủng hộ lẫn nhau, quan hệ rất tốt. Giờ ông bố vừa mất, hai thằng con đã trở mặt với Thebes, nói kiểu gì cũng không chấp nhận được. Sau sự kiện này, Thebes và Athens đã hoàn toàn kết thù, trong các sự kiện lớn nhỏ của thế giới Hy Lạp, Thebes luôn đứng ở vị trí đối lập với Athens, cho dù là hợp tác với Ba Tư trong Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, hay liên minh với Sparta trong Chiến tranh Peloponnese, làm cho Athens phải khó chịu suốt hơn 200 năm. Có thể nói, sai lầm của Hippias đã gieo mầm họa vô tận cho Athens. Athens cứ thế biến một quốc gia vốn hữu nghị thành một quốc gia thù địch, và từ đó trở đi, họ phải luôn đề phòng những hành động bất lợi từ phía Thebes.

Nếu Peisistratus còn sống, ông tuyệt đối sẽ không xử lý như vậy. Peisistratus có uy tín lớn, quan hệ rộng, kinh nghiệm dồi dào, thủ đoạn phong phú trên biển Aegean. Thông qua các biện pháp kinh tế, gây sức ép ngoại giao, hòa giải bên thứ ba, việc thuyết phục Thebes lẽ ra không khó. Ngay cả khi cuối cùng không thể đàm phán, ông cũng sẽ không hoàn toàn trở mặt với Thebes. Còn hai người con trai của Peisistratus nói cho cùng vẫn còn quá non nớt. Họ không có kinh nghiệm vững chắc, không có sự rèn luyện vượt trội, tự nhiên cũng không có khả năng ứng biến tương ứng. Gặp chuyện không biết xử lý thế nào, chỉ có thể bị cấp dưới dắt mũi.

Về ngoại giao thì ông anh đắc tội với láng giềng, còn nội bộ thì ông em cũng gây ra chuyện.

Chúng ta đã đề cập trong phần Sparta rằng đồng tính luyến ái rất phổ biến ở Hy Lạp, và còn là mốt trong giới thượng lưu. Khi đó, người em Hipparchus đang mải mê đấu kiếm với một nam thanh niên trẻ tuổi xinh đẹp. Nghe nói là yêu đến chết đi sống lại, nhưng mấu chốt là, Hipparchus lại là tiểu tam!

Kiểu quan hệ tay ba này, hậu quả cuối cùng thường sẽ rất thảm khốc. Quả nhiên, người bạn trai chính thức sau khi biết mình bị cắm sừng đã nổi cơn thịnh nộ. Trong một buổi họp mặt công cộng, anh ta dùng dao đâm chết tình địch Hipparchus, hơn nữa nam thanh niên nọ cũng tham gia vào vụ ám sát. Theo luật pháp lúc bấy giờ, cả hai bị kết án tử hình ngay lập tức. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đó. Do cái chết của người em, người anh Hippias càng rơi vào tình thế bất lợi.

Vốn cái ghế của Hippias đã lung lay, nay người em lại bị giết vì một chuyện vớ vẩn như vậy, khiến một mình Hippias cai trị Athens rất khó khăn.

Và nhân vật chính của chúng ta trong phần này, Cleisthenes, đã hiên ngang bước ra sân khấu khi Hippias đang bị mắc kẹt trong vô vàn khó khăn.

Cleisthenes xuất thân danh môn, lại là con trai trưởng của gia tộc, nhưng ngay từ khi còn rất trẻ, ông đã phải bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài. Lý do là gia tộc của ông chính là thủ lĩnh Phe Bờ Biển của Athens, gia tộc Alcmaeonidae. Gia tộc này đã thất bại thảm hại trong cuộc đấu tranh với Peisistratus năm xưa, kết quả là buộc phải chạy trốn ra nước ngoài. Ông ngoại của Cleisthenes là một nhà lãnh đạo vĩ đại của thành bang Sicyon gần Athens lúc bấy giờ, thuộc kiểu quý tộc tinh hoa điển hình. Con rể của ông, tức là cha của Cleisthenes, chính là người cha vợ đã gả con gái cho Peisistratus mà chúng ta đã nói ở phần trước. Nói cách khác, Cleisthenes là em vợ của Peisistratus. Nhưng sự tàn khốc của đấu tranh chính trị nằm ở chỗ nó chỉ có lợi ích, không có tình thân. Năm Cleisthenes 19 tuổi, Peisistratus đã sử dụng thủ đoạn vô song của mình để chiến thắng toàn bộ gia tộc Alcmaeonidae. Thế là, Cleisthenes trẻ tuổi cũng đành phải theo cha lưu vong ở nước ngoài.

Đến thời Hippias, Cleisthenes đã 50 tuổi. Suốt mấy chục năm, ông luôn canh cánh trong lòng ý định quay về quê hương. Bây giờ, nhìn thấy cơ hội đã đến, ông lập tức hành động.

Tất nhiên, ông không ngây thơ đến mức nghĩ rằng chỉ bằng sức lực của mình là có thể đánh về được. Dù sao, nền móng Peisistratus đã xây dựng ở Athens quá sâu, ngay cả khi Athens hiện tại đang nội loạn ngoại xâm, họ vẫn có đủ sức để dễ dàng đối phó với Cleisthenes.

Cleisthenes nghĩ đến Sparta.

Sparta lúc bấy giờ là cường quốc số một của thế giới Hy Lạp, lại còn có Liên minh Peloponnese trong tay, sức mạnh quân sự tuyệt đối dẫn đầu. Chính vì nhìn thấy điểm này, Cleisthenes đã tìm đến vua Cleomenes của Sparta. Hai bên gặp gỡ, đàm phán một phen rồi đạt được thỏa thuận, Sparta đồng ý xuất quân giúp Cleisthenes đánh về Athens.

Lục quân Sparta có sức chiến đấu cực kỳ kinh khủng. Hippias tổ chức trọng binh phòng thủ trọng điểm ở khu vực phía Bắc Athens. Thành thật mà nói, Hippias đã chiến đấu rất tốt, thậm chí đã từng đẩy lùi quân đội Sparta, nhưng cuối cùng vẫn không thể chống lại đoàn quân bộ binh hạng nặng của Sparta hung hãn. Họ thua chạy liên tục, quân Sparta truy kích không ngừng, thậm chí còn đánh vào tận thành Athens mà không chịu dừng lại, truy đuổi đến tận Acropolis, dồn Hippias vào một pháo đài trên núi. Lúc này, Cleisthenes mới ra mặt chủ trì đàm phán.

Kết quả đàm phán nhanh chóng được đưa ra: Hippias đầu hàng, từ bỏ mọi chức vụ và quyền lực, vĩnh viễn rời khỏi Athens. Cleisthenes cũng khá rộng lượng, không chơi trò nhổ cỏ tận gốc mà đảm bảo an toàn tính mạng cho Hippias và tất cả tùy tùng của ông ta, phái quân hộ tống họ ra khỏi thành. Sau khi rời Athens, Hippias quay về vùng Thessaly ở phía Bắc, nơi người cha Peisistratus từng kinh doanh. Gia đình họ vẫn còn nhiều tài sản ở đó, con cháu cũng được sống sung túc. Phải nói rằng, điều này nhân văn hơn rất nhiều so với cách làm của các nước phương Đông.

Đến đây, Peisistratus và thời đại do ông khai sáng đã chính thức chấm dứt. Bạn nghĩ rằng Athens sẽ lập tức bước vào thời đại của Cleisthenes đúng không?

Không hề.

Cleisthenes đã quét sạch ảnh hưởng của Peisistratus, nhưng dù sao ông cũng phải dựa vào Sparta mới có thể làm được tất cả những điều này. Bây giờ, Sparta đã vào Athens, liệu họ có chịu khoanh tay mặc kệ chuyện nội bộ của Athens không?

Làm gì có chuyện đó?

Người Sparta tuy thô kệch, nhưng đầu óc chính trị cơ bản vẫn có. Cleisthenes đã giành được Athens nhờ chúng ta, vậy thì phải thiết lập một chính quyền thân Sparta, tầng lớp lãnh đạo phải là những người nghe lời Sparta. Nói cách khác, Cleisthenes sau này phải phục tùng sự lãnh đạo của Sparta. Đứng trên lập trường của Sparta, tôi giúp ông đánh xong trận, thì xong việc tôi cũng phải nhận được chút lợi ích, đó là hợp tình hợp lý, nếu không chẳng phải là tốn công vô ích sao?

Tuy nhiên, Cleisthenes không chịu.

Tôi gọi các anh Sparta đến đây là để đánh thuê, tôi cũng đã trả thù lao cho các anh. Đánh xong rồi, các anh nên thu quân về. Tiếp theo, tôi sẽ cải tạo Athens theo ý tưởng của tôi, đâu đến lượt các anh chỉ tay năm ngón?

Sự bất đồng cứ thế nảy sinh. Kết quả là Sparta dựa vào sức mạnh vũ lực, thẳng thừng loại bỏ vị trí lãnh đạo của Cleisthenes. Vua Cleomenes của Sparta dẫn theo một đội quân trực tiếp tiến vào thành Athens (Athens lúc bấy giờ không có tường thành), can thiệp vào cuộc bầu cử năm đó. Họ đưa một người tên là Isagoras lên, người này đã thắng cử vị trí chấp chính trưởng quan. Đương nhiên ai cũng biết, đây chỉ là một con rối.

Quả nhiên, con rối này vừa lên nắm quyền đã ban hành vài sắc lệnh gây ra một làn sóng phản đối:

Nói một cách đơn giản, đó là "Ba cút đi":

• Phàm là người từng làm việc cho Peisistratus, cút đi;

• Phàm là người trong gia tộc Cleisthenes, cút đi;

• Đại hội Công dân và Hội đồng 400, cút đi.

Nếu xem xét tổng thể ba sắc lệnh này, thì cốt lõi chỉ có một: Đuổi những người ủng hộ cải cách Solon, sao chép lại bộ quy tắc của Lycurgus ở Athens.

Lần này, phần lớn người dân Athens không chịu được nữa. Công dân Athens đồng loạt nổi dậy tấn công, bao vây quân Sparta trong thành Athens. Lúc này, Cleisthenes một lần nữa xuất hiện trong đám đông, vừa đe dọa vừa khuyên nhủ người Sparta. Người Sparta thấy đối phương quá đông, không thể xông ra được, đành phải miễn cưỡng đồng ý lời khuyên của Cleisthenes, dẫn quân rút lui.

Sparta vừa rút, Cleisthenes nhanh chóng xử lý con rối Isagoras và đồng bọn của hắn, kẻ bị bắt, kẻ bỏ trốn. Cleisthenes giành lại quyền kiểm soát cục diện.

Năm 508 TCN, Cleisthenes chính thức được bầu làm chấp chính trưởng quan của Athens. Sau bao nhiêu gian nan trắc trở và đấu tranh nội bộ, Cleisthenes cuối cùng đã nắm chắc quyền lực tối cao của Athens. Nắm đó, ông đã bước sang tuổi 57. Tính từ năm 19 tuổi lưu vong ở nước ngoài, đã trôi qua tròn 38 năm.

Gian nan khổ cực, tôi luyện thành công!

Sau khi đắc cử, Cleisthenes bắt đầu cuộc Cải cách Cleisthenes nổi tiếng. Lần này, chế độ dân chủ của Athens cuối cùng cũng sắp định hình hoàn toàn.

Cuộc cải cách của Cleisthenes đã thừa kế hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống của Solon, nhưng trong khía cạnh thể chế chính trị, ông đã thực hiện một số hoàn thiện tương đối lớn, hoàn toàn ngăn chặn sự trỗi dậy trở lại của nền chuyên chính.

Dựa trên nguyên tắc cốt lõi này, hai chính sách quan trọng nhất mà Cleisthenes thúc đẩy là sáng lập hệ thống hộ tịch và hoàn thiện chế độ lưỡng viện.

Nói đến hệ thống hộ tịch, chúng ta phải nhớ lại một điều đã nói ở phần đầu của Athens: khi Theseus xây dựng thành Athens, người dân sống tập trung theo đơn vị bộ lạc. Mà bản chất của bộ lạc là sự tập hợp các gia đình có quan hệ huyết thống với nhau. Nói cách khác, từ Theseus đến Solon rồi đến Peisistratus, cuộc sống xã hội của Athens luôn lấy huyết thống làm sợi dây liên kết để giao tiếp và tương tác giữa người với người.

Cuộc cải cách của Solon đã làm giảm ưu thế bẩm sinh của giới quý tộc, được coi là một bước tiến, nhưng ưu thế huyết thống của quý tộc vẫn còn. Và cơ cấu xã hội dựa trên huyết thống đặc biệt dễ sinh ra các gia tộc lớn. Những gia tộc giàu có này có thể sử dụng ảnh hưởng ngày càng lớn để dần dần thu được hoặc thậm chí độc quyền các nguồn lực kinh tế, chính trị, cuối cùng sẽ hình thành cục diện một hoặc vài nhà độc quyền. Sau đó, tất yếu sẽ xảy ra xu hướng quyền lực cai trị ngày càng tập trung vào các gia tộc lớn này.

Hiểu rõ điều này, bước đầu tiên của Cleisthenes chính là phá vỡ sự liên kết mạnh mẽ giữa các bộ tộc.

Nói một cách đơn giản, Cleisthenes đã tiến thêm một bước dựa trên cải cách của Solon: thiết lập mô hình quản lý phân khu, làm suy yếu hơn nữa ưu thế của tập đoàn quý tộc.

Các ngươi tập trung theo bốn bộ tộc riêng biệt chứ gì? Bây giờ tôi dựa vào cấu trúc địa hình của Athens, chia ra 10 khu vực. Sau này, việc quản lý cá nhân và gia đình sẽ không còn nhìn vào việc bạn đến từ bộ tộc nào, mà nhìn vào việc bạn đến từ khu vực nào. Bạn được phân vào khu vực nào, chính phủ sẽ cấp hộ tịch cho bạn. Sau này, mọi hoạt động của bạn ở Athens đều lấy hộ tịch làm cơ sở quản lý. Hộ tịch của bạn ở đâu thì thuộc quản lý của khu vực đó, sinh ra, giáo dục, giao tiếp, hôn nhân, tử vong của bạn đều được truy cứu và quản lý thống nhất tại nơi có hộ tịch. Bản chất của cách làm này của Cleisthenes là chuyển mối liên kết giữa người với người từ huyết thống sang địa lý, thông qua việc chia cắt thế lực của quý tộc để đạt được mục đích ngăn chặn sự xuất hiện của các thế lực hùng mạnh. Như vậy, những gia tộc quyền quý này sẽ không thể gây ra sóng gió hoặc tạo ra mối đe dọa lớn đối với chính quyền trung ương.

Thật là cao tay!

Sau khi hoàn thành hệ thống hộ tịch, những thay đổi về thể chế chính trị tương ứng cũng diễn ra một cách hợp lý. Thời Solon, Hội đồng 400 được hình thành từ 100 nghị viên do mỗi bộ tộc lớn bầu ra. Bây giờ, nó được đổi thành Hội đồng 500, gồm 50 người do mỗi khu vực trong số 10 khu vực báo cáo lên. Hơn nữa, 50 người của mỗi khu vực không được bầu ra mà được chọn bằng cách bốc thăm. Điều này biến thành một trò chơi mọi người đều bình đẳng, nghĩa là ai cũng có cơ hội trở thành nghị sĩ của khu vực mình. Bằng cách này, tầng lớp tinh hoa sẽ khó thao túng chính trị hơn. Điều này không chỉ giảm thiểu xác suất những người có ảnh hưởng lớn thường xuyên thắng cử, mà còn mở rộng cơ sở xã hội cho sự tham gia chính trị của toàn dân. Có thể nói là đã tốn rất nhiều tâm sức.

Mục đích chính của Cleisthenes là để ngăn chặn sự xuất hiện của chuyên chính, nhưng hiệu quả khách quan của nó lại là phát minh ra cơ sở xã hội của chính trị dân chủ hiện đại: khu vực bầu cử. Chỉ với riêng điều này, Cleisthenes đã có thể lưu danh sử sách.

Hoàn thành hệ thống hộ tịch, tiếp theo Cleisthenes cũng thực hiện những thay đổi lớn trong tầng lớp lãnh đạo.

Cleisthenes giữ lại nhóm chấp chính quan, nhưng bổ sung thêm chức vụ "Tướng quân".

Cleisthenes quy định, mỗi khu vực bầu ra một chấp chính quan, như vậy số lượng chấp chính quan đã tăng từ 9 lên 10 người. Đồng thời, trên cơ sở 500 nghị sĩ, bầu ra 10 vị Tướng quân, chịu trách nhiệm cụ thể về quân sự và ngoại giao của Athens. Thay đổi này đã khiến quyền lực ban đầu được chia sẻ bởi 9 chấp chính quan bị chia nhỏ thành 20 phần. Hơn nữa, Cleisthenes cố ý tăng cường tiếng nói của "10 Tướng quân" trong các vấn đề của thành bang Athens, nhằm mục đích trấn áp chức năng và uy quyền của nhóm chấp chính quan. Cuối cùng, chấp chính quan chỉ còn phụ trách các công việc hành chính thường ngày trong khu vực bầu cử, trong khi các vấn đề quốc gia quan trọng đều tập trung trong tay 10 Tướng quân. Như vậy, tầm quan trọng của vị trí chấp chính quan vốn luôn bị các gia tộc lớn kiểm soát đã bị suy giảm đáng kể, và thế lực của tập đoàn quý tộc cũng bị suy yếu theo. 10 vị Tướng quân được bầu ra bởi Đại hội Công dân, mà Đại hội Công dân chỉ cần là nam giới đủ 20 tuổi đều có thể tham gia bất kể giàu nghèo, nên 10 vị Tướng quân được bầu ra này thuộc mọi tầng lớp, khó bị tầng lớp quý tộc kiểm soát. Như vậy, quyền lực có thể tương đối phân tán, người xuất sắc trong tầng lớp bình dân có cơ hội vươn lên, sự lưu động giữa các tầng lớp có thể trở nên sôi nổi hơn.

Tiếp theo, Cleisthenes lại mở rộng ngọn lửa cải cách sang cơ chế ra quyết định của thành bang. Tư tưởng cải cách của ông cũng rất rõ ràng: Quần chúng tham gia nhiều hơn, quý tộc đứng sang một bên.

Chúng ta đã đề cập trước đây rằng Athens thực hiện chế độ ra quyết định lưỡng viện ở dạng sơ khai, Hội đồng 400 cộng với Hội đồng Đồi Chiến Thần đã tạo nên cấu trúc cơ bản của việc ra quyết định. Nhưng vấn đề ở đây là, mặc dù Hội đồng Đồi Chiến Thần không phải là một tổ chức chính thức, nhưng do các thành viên bên trong đều là người giàu có hoặc quý tộc, nên tổ chức này có tiếng nói và ảnh hưởng rất lớn khi xem xét các dự luật do Hội đồng 400 đệ trình. Về bản chất, Hội đồng Areopagus gián tiếp nắm giữ quyền phủ quyết. Tiếng nói quá mạnh mẽ của nhóm người này đã khiến hiện tượng giới tinh hoa quý tộc nắm giữ quyền lực không thể thay đổi về căn bản, và những yêu cầu của người bình dân không được đề đạt hiệu quả. Do đó, Cleisthenes đã tập trung vào cấu trúc lưỡng viện này để cải cách.

Cách làm cụ thể là mở rộng phạm vi quyền hạn của Đại hội Công dân và thay thế Hội đồng Đồi Chiến Thần bằng Hội đồng 500.

Ban đầu, Đại hội Công dân chỉ có quyền bỏ phiếu, không có quyền đề xuất, cũng không có quyền phủ quyết, không thể có tiếng nói gì về các vấn đề quân sự và chính trị lớn. Bây giờ, Cleisthenes đã mở rộng mạnh mẽ quyền hạn của Đại hội Công dân, trao phần lớn quyền lực cho Đại hội Công dân, bao gồm quyền lực về tài chính, lập pháp và giám sát, tất cả đều giao cho Đại hội Công dân. Từ đó, Đại hội Công dân thay đổi hoàn toàn, trở thành cơ quan chính trị cốt lõi, quyết định mọi việc lớn nhỏ. Đối với Hội đồng Đồi Chiến Thần, Cleisthenes đã nắm bắt được điểm yếu là nó không phải là tổ chức chính thức, thế là chuyển các chức năng ban đầu thuộc về Hội đồng Areopagus như chức năng tư pháp sang Hội đồng 500. Kể từ đó, Đại hội Công dân chỉ chấp nhận các đề xuất đến từ Hội đồng 500, còn Hội đồng Đồi Chiến Thần trở thành một tổ chức mang tính danh dự, hoàn toàn bị gạt ra ngoài lề.

Những thay đổi như vậy đã khá mạnh mẽ để đảm bảo nền dân chủ, nhưng Cleisthenes vẫn không yên tâm. Cuối cùng, ông tung ra một "sát chiêu": Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm (Ostracism).

Sắc lệnh này là một biện pháp bổ sung cực đoan và gây tranh cãi lớn cho hệ thống của Cleisthenes.

Nội dung của Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm mộc mạc đến mức phát khóc: Họp, bỏ phiếu, đuổi người.

Vậy bạn sẽ hỏi: Đuổi ai? Tại sao? Dựa vào đâu?

Câu trả lời là: Bất cứ ai. Không cần biết tại sao. Dựa vào ý chí cá nhân của tôi.

Cách làm cụ thể là, thành Athens tổ chức Đại hội Công dân không định kỳ, mọi người tự do biểu quyết sẽ lưu đày ai. Bạn viết tên người đó lên mảnh gốm vỡ và giao cho Đại hội. Sau đó, công khai kiểm phiếu. Cleisthenes quy định, khi triệu tập Đại hội, chỉ cần có 6.000 người đến họp là có thể bắt đầu bỏ phiếu. Chỉ cần số phiếu của một người quá bán thì người đó phải nhanh chóng thu dọn hành lý và cút đi. Bất kể người đó hiện đang giữ chức vụ gì, hay hậu quả sau khi người đó đi sẽ ra sao, chỉ cần phù hợp với nguyên tắc bỏ phiếu bằng mảnh gốm này, ai cũng phải cút đi ngay lập tức, vô điều kiện. Sau khi bị lưu đày, tài sản và gia đình của bạn ở thành Athens sẽ không bị ảnh hưởng. Bản thân bạn phải lưu đày 10 năm ở bên ngoài mới được phép quay về Athens. Khi trở về, bạn vẫn là công dân Athens, vẫn có thể tham gia chính trị, có thể bầu cử và được bầu cử. Tất cả các quyền của bạn sẽ được phục hồi và tôn trọng. Coi như chưa từng có chuyện gì xảy ra trước đó.

Bạn có thấy ý tưởng này quá kỳ quặc không? Lão già Cleisthenes này đang nghĩ gì vậy?

Làm như vậy vẫn là để ngăn chặn chuyên chính.

Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm của Cleisthenes quả thực là một sát chiêu lớn để ngăn chặn sự trỗi dậy trở lại của chuyên chính, nhưng nó cũng không thể tránh khỏi việc trở thành công cụ đấu tranh chính trị. Trên con đường Athens chuyển mình và trỗi dậy sau này, Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm đã nhiều lần được sử dụng để thanh trừng đối lập, đả kích kẻ thù chính trị. Đây chính là lý do khiến nó gây tranh cãi. Chúng ta sẽ còn đề cập đến nhiều lần sau này.

Nhưng dù sao đi nữa, sau khi Cleisthenes hoàn thành việc sửa đổi một vài thể chế trên, tư tưởng của ông đã được quán triệt, khả năng các nhà lãnh đạo bất hợp pháp như chuyên chính xuất hiện trở lại cũng rất mong manh. Đến đây, công cuộc cải cách của Cleisthenes đã hoàn tất toàn bộ.

Từ Cải cách Hiến pháp của Solon, đến sự trỗi dậy kinh tế của Peisistratus, rồi đến Cải cách Dân chủ của Cleisthenes, Athens đã trải qua ba giai đoạn: khắc phục khủng hoảng, trỗi dậy kinh tế và dân chủ định hình. Từ một thành bang nhỏ bé vô danh, Athens đã vươn lên trở thành một cường quốc hạng nhất trong thế giới Hy Lạp. Nền móng chính trị và kinh tế của Athens từ đây được đặt vững chắc, tạo tiền đề để Athens phát triển hơn nữa thành một siêu cường. Trong thời gian tiếp theo, Athens đã luôn áp dụng hệ thống này, cho đến khi bị Vương quốc Macedonia thôn tính vào năm 322 TCN, kéo dài hơn 200 năm. Athens không chỉ tạo ra thời kỳ hoàng kim rực rỡ khi còn tồn tại, mà còn cung cấp một mô hình thực tế cho sự phát triển của các thể chế chính trị phương Tây sau này.

Đến đây, hành trình trỗi dậy của hai gã khổng lồ trong thế giới Hy Lạp đã được giới thiệu xong. Sparta và Athens đã trở thành cường quốc, nhưng muốn trở thành siêu cường thì còn phải trải qua rửa tội bằng máu và lửa, bằng chiến tranh. Giống như một con dao tốt luôn cần phải được mài bằng đá mài mới có thể sắc bén. Và hòn đá mài này có tên là Ba Tư. Quá trình mài giũa chính là hai cuộc Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư.

Bài viết hôm nay hơi dài, hơi lan man, nhưng không thể không viết, vì đó là những dấu ấn không thể phải mờ trên hành trình trỗi dậy và tỏa sáng của văn minh Hy Lạp. Yên tâm, rất nhanh sẽ đến những sự kiện bạn vẫn mong chờ như Marathon, Thermopylae, 300 Dũng sĩ Sparta, Hải chiến Salamis, Trận chiến Plataea rồi.
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
477
Động cơ
33,199 Mã lực
Vậy là giáo sư đã giải đáp, tất cả nguyên do đã bắt đầu từ tên đầu sỏ cải cách Solon. Cần bắt khẩn cấp tên này! Tiếp đó sau đây Sparta sẽ thắng Athent. Và ta sẽ bắt nốt 2 tên đầu sỏ khác là Socrate và Arisote vì chúng là 2 nhà tư tưởng nguy hiểm. Còn tên Ba Tư kia thì chính là tên 1 Răng bây giờ, may mà đế quốc Mỹ đã đập chết nó không cho ngóc đầu dậy chứ không thì tên 1 Răng này đã làm loạn Trung Đông từ xưa. Xạ thu =)).
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
1764720084673.png


Sức mạnh quân sự Sparta vẫn tăng lên không ngừng sau cải cách Lycurgus, Athens thì phát triển toàn diện cả bộ binh, thủy quân, văn hóa nghệ thuật nhờ sự xuất hiện của hàng loạt vĩ nhân. Bây giờ chúng ta tạm thời rời xa biển Aegean, chuyển ánh mắt về phía Đông một chút để tìm hiểu về đối thủ của họ: Đế quốc Ba Tư.

Trong lịch sử, Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư xảy ra hai lần, cách nhau mười năm, đây là cuộc đối đầu chiến tranh đầu tiên giữa phương Đông và phương Tây trong lịch sử nhân loại.

01
⚔️
Ba Tư chính là tiền thân của Iran ngày nay.

Ba Tư khởi nguyên từ một nơi gọi là Fars ở Iran ngày nay, vị trí đại khái là ở Tây Nam Iran. Khu vực này được xem là nơi địa linh nhân kiệt của Iran, bởi vì hai thời kỳ cường thịnh nhất trong lịch sử Iran là triều đại Achaemenid và triều đại Sasanid ban đầu đều trỗi dậy từ vùng Fars. Phát âm cổ của Fars là Parse, sau quá trình giao lưu với văn hóa Hy Lạp đã phát triển thành tiếng Hy Lạp là Persis, và cuối cùng biến thành từ tiếng Anh ngày nay là Persia, phiên âm Hán Việt là Ba Tư.

Khi giao tiếp với người Iran ngày nay, bạn sẽ có cảm giác dường như mỗi người Iran đều tỏa ra một niềm kiêu hãnh từ tận đáy lòng, đặc biệt là khi họ đối diện với nhóm người Ả Rập ở Trung Đông, cảm giác khác biệt này càng trở nên rõ rệt. Nếu bạn nghĩ họ đều là người Hồi giáo nên xem họ là cùng một nhóm người, thì người Iran sẽ nói với bạn rằng bạn đã nhầm.

Sự khác biệt giữa Iran và các dân tộc Ả Rập ở Trung Đông rất nhiều, nhưng khác biệt chủ yếu là ba điểm gồm dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo.

Dân tộc: Trong mắt người Iran, dân tộc Ba Tư có mức độ văn minh cao hơn và lịch sử lâu đời hơn so với dân tộc Ả Rập. Khi người Ba Tư khai sáng đế chế lớn ở Á-Âu-Phi, người Ả Rập vẫn còn đang ăn cát trong sa mạc, chúng tôi tiên tiến hơn các anh rất nhiều.

Ngôn ngữ: Người Iran là dân tộc Aryan, nói tiếng Aryan, là một nhánh của ngữ hệ Ấn-Âu. Người Ả Rập là dân tộc Semitic, nói tiếng Semitic. Sự khác biệt về ngôn ngữ dẫn đến gen văn hóa cũng khác nhau. Người Ả Rập phổ biến xuất thân du mục, trong khi gen văn minh của Iran hiện đại hay Ba Tư cổ đại là định cư và nông nghiệp. Logic nền tảng của hai nền văn minh là không giống nhau.

Tôn giáo: Về tôn giáo, mâu thuẫn nội bộ giữa phái Sunni và Shia trong thế giới Hồi giáo đã đối địch nhau hàng ngàn năm. Thủ lĩnh của phái Sunni là Ả Rập Xê Út, còn người đứng đầu của phái Shia chính là Iran. Với tư cách là lãnh đạo của phái Shia, Iran có ảnh hưởng rất lớn trong các vấn đề tôn giáo Hồi giáo. Đương nhiên, Iran không ưa gì nhóm các quốc gia Ả Rập Sunni xung quanh. Tóm lại, ở Trung Đông, Iran luôn tỏ ra khác biệt và vượt trội.

Nếu bạn hỏi niềm kiêu hãnh này đến từ đâu, thì nguồn gốc sâu xa chính là nhân vật chính của chúng ta ngày hôm nay: Cyrus Đại đế và triều đại Achaemenid Ba Tư do chính tay ông gây dựng.

Ba Tư tọa lạc ở vùng Lưỡng Hà ngày nay. Đồng bằng phù sa được tạo thành bởi hai con sông lớn Euphrates và Tigris là khu vực trung tâm của nền văn minh Mesopotamia. Nơi đây đất đai vô cùng màu mỡ. Vùng đất Canaan được mô tả là “chảy đầy sữa và mật ong” trong Kinh Cựu Ước cũng là một phần khu vực này. Điều này cho thấy điều kiện để sản sinh ra văn minh ở nơi đây là vô cùng ưu đãi, do đó đã khai sinh ra nền văn minh sớm nhất của nhân loại, văn minh Sumer, cùng với văn minh Ai Cập trở thành những cái nôi văn minh sớm nhất trong lịch sử, đi trước Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Quốc.

Nhưng nơi đây có một đặc điểm rất khác so với các khu vực văn minh khác, đó là hoàn toàn không có rào chắn tự nhiên nào.

Các nền văn minh khác ít nhiều đều có một chút rào chắn tự nhiên, có thể dựa vào đó để bảo vệ an ninh của mình. Ví dụ Ai Cập có sa mạc Sahara, Hy Lạp có Địa Trung Hải, Ấn Độ có dãy núi Hindu Kush, Trung Quốc có cao nguyên Thanh Tạng, còn Mesopotamia thì không có gì cả, là một vùng đất hoàn toàn bằng phẳng. Mà nơi này lại vô cùng giàu có, nên dù là thần tiên hay ma quỷ đều có thể đến đây thử sức và tìm vận may. Tình hình này chắc chắn gây ra một vấn đề, thời gian chiến tranh nhiều, thời gian hòa bình ít. Vì vậy, khi tìm hiểu về văn minh Lưỡng Hà, người ta cảm thấy rất đau đầu vì có quá nhiều bộ lạc, quá nhiều tên người, quá nhiều địa danh, quá nhiều cuộc chiến, quá nhiều sự kiện, và mối quan hệ giữa chúng lại quá phức tạp, đọc lên chỉ thấy đau hết cả đầu.

Nếu gạt bỏ những tình tiết phụ, có thể khái quát về mạch phát triển của văn minh Lưỡng Hà như thế này:

Sumer
➡️
Akkad
➡️
Babylon Cổ
➡️
Hittite
➡️
Assyria
➡️
Tân Babylon
➡️
Ba Tư.

Quen không? Tất cả các đế chế này đều xuất hiện trong game AoE RoR, chỉ trừ Akkad, có thể thấy vùng Lưỡng Hà bá thế nào.

02
⚔️
Để kể về Ba Tư, chúng ta bắt đầu từ Assyria.

Assyria là một cường quốc lớn ở Lưỡng Hà, tồn tại suốt hàng trăm năm, thời kỳ lãnh thổ rộng lớn nhất đã từng cai trị toàn bộ khu vực Mesopotamia, huy hoàng một thời. Trong lịch sử Assyria đã liên tiếp xuất hiện 6 vị quân chủ có nhiều thành tựu, mở rộng lãnh thổ Assyria đến mức cực đại. Nhưng dù là ai đi nữa, họ đều tuân theo một đặc điểm chung của người Assyria: cực kỳ dũng mãnh.

Nếu ngày nay bạn đến thăm Bảo tàng Anh ở London, trong khu vực Trung Đông, có một loạt phù điêu trưng bày cảnh săn bắn của người Assyria. Triển lãm gồm hàng chục bức phù điêu đá được ghép nối với nhau, chiếm hai bức tường. Bạn đi dọc từ đầu đến cuối có thể thấy rõ toàn bộ quá trình săn bắn tập thể hoành tráng của người Assyria thời bấy giờ.

Lý do phải nói về nhóm hiện vật này không phải vì giá trị nghệ thuật của nó, mà là vì nội dung. Nếu bạn quan sát kỹ các bức phù điêu, bạn sẽ thấy đối tượng săn bắn của nhóm người Assyria này rất đặc biệt, họ chỉ hứng thú với một loại con mồi: sư tử.

Tập tục săn sư tử của người Assyria ban đầu là hành vi tự nhiên của bộ lạc. Sau này, khi đế quốc ngày càng lớn mạnh, người cai trị cố tình định hình hình thức săn bắn này, coi đó là trọng tâm phát triển văn hóa tinh thần của người Assyria. Thông qua hoạt động tập thể này, họ nâng cao tinh thần đoàn kết và khẳng định tinh thần thượng võ. Không khó để tưởng tượng, một nhóm người dũng mãnh như vậy sẽ đối xử với những người bị họ chinh phục như thế nào.

Sư tử chúng ta còn không coi vào đâu, lũ dân đen các ngươi là cái thá gì?

Với lối tư duy này, Assyria từ trên xuống dưới là một cỗ máy bạo lực, việc cai trị quốc gia hoàn toàn không có kỹ thuật cao. Đọc lịch sử Assyria, những từ ngữ xuất hiện nhiều nhất là hình phạt tàn khốc và chinh phục. Mức độ bạo ngược của các hình phạt tàn khốc và sự khát máu trong chinh phục của họ là hiếm thấy trong lịch sử nhân loại.

Có thể hình dung, việc kiểu cai trị này gặp vấn đề chỉ là vấn đề thời gian.

Sau khi vị quân chủ hùng mạnh cuối cùng của Assyria là Ashurbanipal qua đời, Đế quốc Assyria nhanh chóng suy tàn. Đồng thời, những người Chaldea láng giềng đã trỗi dậy. Năm 626 TCN, Chaldea chiếm thành Babylon dưới sự cai trị của Assyria và thành lập triều đại Tân Babylon. Năm 612 TCN, Tân Babylon chiếm kinh đô Nineveh của Assyria. Bảy năm sau, năm 605 TCN, quân đội Tân Babylon đang ở đỉnh cao dưới sự lãnh đạo của Nebuchadnezzar II nổi tiếng, đã đánh bại quân đội Ai Cập trong trận Carchemish. Số ít binh lực còn lại của Assyria cũng bị tiêu diệt sạch trong trận chiến này. Kể từ đó, Đế quốc Assyria từng một thời bất khả chiến bại đã hoàn toàn diệt vong. Toàn bộ quá trình chỉ mất 21 năm. So với thời gian tồn tại của nó, sự sụp đổ của nó nhanh như người yêu cũ trở mặt, điều này không thể tách rời khỏi sự cai trị đẫm máu của nó.

Sau khi diệt Assyria, toàn bộ khu vực bước vào thời đại Tân Babylon làm chủ. Bên cạnh đại ca Tân Babylon có một tiểu đệ là Vương quốc Media, Media ngay từ đầu đã kiên quyết đi theo Babylon chinh chiến khắp nơi. Bây giờ đại ca đã mạnh, tiểu đệ cũng được hưởng vinh quang, từ một quốc gia nhỏ bé không đáng chú ý, bỗng chốc trở thành một cường quốc. Nhờ vậy, Media cùng với đại ca Tân Babylon và người láng giềng phía Bắc là Lydia trở thành ba đế quốc lớn ở khu vực Mesopotamia.

Ba Tư chính là đàn em của Vương quốc Media này.

Như vậy, Ba Tư ban đầu chỉ là một quốc gia nhỏ bé, là tiểu đệ của tiểu đệ của Tân Babylon. Vậy Ba Tư làm thế nào trở thành một siêu cường quốc oai hùng như vậy?

03
⚔️
Sự lột xác của Ba Tư bắt đầu từ một giấc mơ.

Một đêm nọ, vua Astyages của Media nằm mơ một giấc mơ hơi khó xử. Ông mơ thấy con gái mình đi tiểu, nhưng nước tiểu vừa chạm đất lại biến thành lũ lụt lớn, nhấn chìm toàn bộ vương quốc. Tỉnh dậy, ông vội vàng tìm thầy cúng giải mộng, kết quả cho thấy đây là điềm đại hung, tượng trưng cho việc đứa cháu mà con gái ông sinh ra sau này sẽ hủy diệt vương quốc Media. Astyages nghe xong liền lo lắng, quyết định gả con gái mình đi thật xa cho một quý tộc Ba Tư tên là Cambyses I. Astyages tính toán rất rõ ràng, Ba Tư là đệ của ta, một bộ lạc yếu ớt, người mà ta gả con gái cho cũng không phải là quý tộc mạnh nhất trong bộ lạc đó, vậy thì con cái của ngươi sau này cũng không thể đe dọa quốc gia của ta.

Không lâu sau khi lấy chồng, con gái Astyages sinh được một bé trai, đó chính là Cyrus.

Astyages cứ ngỡ mọi chuyện đã kết thúc. Nhưng rồi một đêm nọ, ông lại mơ một giấc mơ khác, vẫn là con gái ông, nhưng lần này không phải là hành vi xấu hổ nữa, mà là từ bụng con gái ông mọc ra một cây nho che phủ toàn bộ Mesopotamia. Tỉnh dậy, Astyages lại tìm người giải mộng, kết quả vẫn như lần trước: Đứa cháu ngoại của ngươi, sau này sẽ tiêu diệt tất cả mọi người, bao gồm ngươi, ông ngoại của nó!

Những tình tiết tiếp theo rất quen thuộc, bạn còn nhớ Hoàng hậu và Bạch Tuyết chứ?

Astyages gần như suy sụp, liền phái một vị tướng dưới quyền là Harpagus, chỉ thị cho ông ta đi giết người diệt họa. Harpagus tìm đến vợ chồng Cambyses I, nhưng lại không đành lòng xuống tay. Cuối cùng, ông ta lén mang Cyrus bé nhỏ đến một nơi rất xa. Tình cờ ở đó có một cặp vợ chồng vừa mới sinh một đứa con trai nhưng đã mất, họ liền nhận nuôi Cyrus rồi giao thi thể đứa con đã chết của họ cho Harpagus mang về báo cáo.

Thế là Cyrus sống sót.

Lớn lên thành thiếu niên, Cyrus mắt to mày rậm, thể chất cường tráng, trở thành thủ lĩnh của lũ trẻ trong vùng. Một hôm, bọn trẻ này chơi đồ hàng, Cyrus đóng vai vua, lấy roi quất đứa trẻ là con một quý tộc lớn trong vùng. Cha mẹ của đứa trẻ quý tộc đương nhiên không chịu, liền bắt Cyrus đưa lên công đường. Vì liên quan đến quý tộc lớn, vụ án này đã làm kinh động cung đình. Thân thế của Cyrus bị phanh phui trong quá trình xét xử, và vua Astyages nhờ đó biết được đứa cháu ngoại của mình vẫn chưa chết.

Sau khi xác minh thân phận của Cyrus, Astyages lập tức nổi sát tâm. Ngay vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc này, một thầy cúng bên cạnh Astyages, có lẽ là không muốn chủ nhân gây thêm tội lỗi, đã thuyết phục ông chủ rằng: Cháu ngoại của ngài đã trở thành vua trong trò chơi rồi, trong thực tế sẽ không thể trở thành vua nữa, vì Ba Tư có câu “Không ai có thể xưng vương hai lần”. Nó đã không thể trở thành vua được nữa thì còn đe dọa gì được ngài? Dù sao cũng là cháu ngoại của ngài, máu mủ ruột thịt, giết thì tội nghiệp, chi bằng cứ giữ lại. Astyages nghe vậy động lòng, Cyrus nhờ thế thoát nạn, được gửi trả về Ba Tư.

Trở về Ba Tư, Cyrus được khôi phục thân phận quý tộc, sau đó kế thừa tài sản gia đình. Vài năm tiếp theo, Cyrus trẻ tuổi đã xắn tay áo lên và nỗ lực điều hành đất nước, cũng chính là bộ tộc. Bước đi quan trọng nhất là vào năm 559 TCN, ông đã dẫn dắt bộ tộc của mình thống nhất thành công 10 bộ lạc của Ba Tư. Điều này không chỉ làm uy tín của Cyrus ngày càng tăng, mà còn khiến Ba Tư chính thức trở thành một thể thống nhất. Dưới sự cai trị của Cyrus, trật tự nội bộ Ba Tư được duy trì, cuộc sống diễn ra suôn sẻ.

Vốn dĩ những ngày tháng như vậy rất tốt đẹp, nhưng với một người tài năng như ông, ông trời nhất định không để ông sống một cuộc đời an nhàn như vậy.

Không lâu sau, một ngày nọ, ông nhận được một lá thư, một lá thư khuyên ông làm phản.

Người viết thư tên là Harpagus.

Tôi biết những cái tên này rất khó nhớ, nhưng chắc là bạn vẫn cảm thấy quen quen đúng không?

Đúng, chính là vị tướng Media được phái đi giết Cyrus, nhưng lại không thể hạ thủ.

Mặc dù Astyages không làm khó Cyrus nữa, nhưng khi nhìn thấy Harpagus, ông lại rất bực vì Harpagus dám cãi lời mình. Thế là, Astyages làm một việc vô cùng độc ác.

Trong một bữa tiệc cung đình, Astyages lập kế lừa con trai của Harpagus đến một nơi hẻo lánh và giết chết, sau đó ra lệnh cho nhà bếp băm thịt đứa trẻ thành món ăn, đặt trước mặt Harpagus để ông ta ăn.

Nếu là người bình thường gặp cảnh này, hoặc là sụp đổ ngay tại chỗ, hoặc là cầm vũ khí lên liều mạng. Nhưng Harpagus lại không phải là người bình thường. Ông ta mặt không đổi sắc, vẫn ăn hết, ăn xong còn nói rằng nô tài tội đáng muôn chết, thánh thượng trừng phạt đúng tội, tạ ơn thánh thượng, vạn tuế vạn vạn tuế blah blah. Astyages thấy Harpagus có thái độ nhận lỗi rất tốt, nghĩ rằng tên này thật biết điều, thế là không truy cứu nữa. Harpagus vẫn giữ chức quan, vẫn quản lý binh lính, vẫn nắm giữ quyền lực.

Qua chuyện này, có thể thấy chỉ số thông minh của Astyages không được cao lắm.

Chính vì mối thù giết con này, nên mới có việc Cyrus nhận được lá thư khuyên ông làm phản. Trong thư, Harpagus cam kết, chỉ cần Cyrus làm phản, ông ta sẽ làm nội ứng.

Cyrus nhận được thư, cân nhắc kỹ lưỡng, thấy rằng ông ngoại của mình thật sự quá tồi tệ. Nếu ông ta khởi binh, cơ hội chiến thắng sẽ rất lớn.

Vậy thì làm phản!

Cyrus quyết định làm phản, thế là thực hiện một cuộc động viên trước chiến đấu đầy sáng tạo.

Một ngày nọ, ông triệu tập toàn bộ tộc nhân, mỗi người đều mang theo dụng cụ cày cuốc, đến vùng ngoại ô. Cyrus chỉ vào một mảnh đất hoang, yêu cầu tộc nhân lập tức khai khẩn mảnh đất này, không được hỏi tại sao, bảo làm thì làm, không phục thì chịu. Tất cả mọi người dưới sự chỉ huy của ông đã làm việc hết sức mình suốt cả ngày, ai nấy đều mệt rã rời. Đến tối thu dọn công cụ, Cyrus không trả một xu tiền công, không nói một lời ấm áp nào, phất tay xua họ đi như xua một cái rắm. Tộc nhân tuy không dám hỏi, nhưng trong lòng vô cùng bực bội.

Ngày hôm sau, Cyrus lại triệu tập tộc nhân đến, nhưng lần này không đưa họ đi cuốc đất nữa, mà đến một khu vườn. Khi tộc nhân bước vào, họ thấy một bữa tiệc thịnh soạn đã được chuẩn bị sẵn, khắp nơi là trái cây tươi ngon, các món ăn ngon và đủ loại rượu ngon, còn có ca múa phục vụ. Lần này Cyrus niềm nở chào đón, nhiệt tình mời mọi người vào ăn uống. Mặc dù tộc nhân cảm thấy tên nhóc này chắc chắn có ý đồ gì đó, nhưng đã đến rồi thì cứ ăn no cái đã. Thế là nhóm người Ba Tư này thoải mái ăn uống, bữa tiệc kéo dài suốt cả ngày, tận hưởng một lần xa hoa hiếm có.

Sau khi ăn uống no say, Cyrus đứng dậy và hỏi mọi người một câu hỏi: Các ngươi cảm thấy cuộc sống ngày hôm qua tốt hơn, hay cuộc sống ngày hôm nay tốt hơn?

Thế mà cũng hỏi được.

Mục đích của Cyrus chính là muốn đạt được hiệu ứng này.

Cyrus nói, người Ba Tư chúng ta bây giờ đang bị người Media cai trị, cuộc sống của chúng ta giống hệt như ngày hôm qua. Chúng ta làm việc đến mức thổ huyết, trong mắt người Media là đáng đời, vì họ coi chúng ta là nô lệ, nô lệ thì đáng bị kỳ thị, bị ngược đãi cũng là lẽ đương nhiên. Đó là hoàn cảnh hiện tại của người Ba Tư chúng ta.

Còn cuộc sống ngày hôm nay, ai cũng thấy nó tốt, nhưng nếu chúng ta không kháng cự, cuộc sống sung sướng này sẽ không tự động tìm đến. Người Media ngày nào cũng sống cuộc sống như thế này, còn chúng ta chỉ có thể đứng nhìn. Nhưng hôm nay, Cyrus ta hứa với mọi người, nếu mọi người sẵn lòng đứng cùng chiến tuyến với ta, ta nhất định có thể dẫn dắt mọi người lật đổ người Media đang đè nặng lên chúng ta, ta cam đoan sau này mọi người ngày nào cũng có thể sống cuộc sống như ngày hôm nay.

Lúc này, nhóm người Ba Tư đã hiểu ra, đây là đang động viên mình làm phản!

Làm hay không làm?

Mọi người nhìn nhau, một hồi im lặng.

“Nếu thất bại sẽ bị chém đầu.” Có người nhắc nhở Cyrus.

“Nếu không làm, cuộc sống hiện tại của các ngươi có khi còn không bằng bị chém đầu.” Cyrus nhắc nhở họ.

Nhìn lại quần áo rách rưới trên người, rồi nhìn rượu thịt trong tay.

Mẹ nó, làm thì làm, sợ x gì!

Năm 553 TCN, Cyrus người Ba Tư tập hợp quân đội ở vùng Fars, giương cao cờ phản loạn, chính thức tuyên chiến với Đế quốc Media…

04
⚔️
Cuộc chinh phạt Media và sự ra đời của Đế quốc Ba Tư

Kẻ đầu tiên bị hạ gục chính là ông ngoại của Cyrus: Astyages.

Thành thật mà nói, việc đánh bại Media chẳng tốn chút công sức nào. Bởi vì qua những gì đã kể ở phần trước, không khó để mọi người nhận ra rằng Astyages là một kẻ thiểu năng. Sự cai trị của Media lúc bấy giờ chỉ còn dựa vào quán tính để tiếp tục, bên trong đã sớm hỗn loạn, chỉ chờ một cơ hội để lật đổ.

Quả nhiên, ngay khi Cyrus khởi binh, các bộ tộc của Media không phản loạn thì cũng quy phục. Một Đế quốc Media rộng lớn chỉ trong vòng 3 năm đã kết thúc. Trong trận quyết chiến then chốt nhất, Astyages lại giao quân quyền cho Harpagus. Harpagus vốn đã có ý định làm phản, giờ ngươi lại trao cả quân đội cho y, còn có món quà gặp mặt nào quý giá hơn thế này chăng? Harpagus cũng không khách sáo, vừa đối mặt hai đội quân đã công khai đầu hàng. Cảnh tượng đó chẳng khác nào một cuộc hội quân hơn là một trận chiến.

Harpagus sau khi quy hàng đã nhận được sự tin tưởng và tôn trọng tuyệt đối từ Cyrus. Cyrus ủy quyền cho Harpagus tiếp tục dẫn dắt đội quân này tiến thẳng về kinh đô Media.

Astyages nghe tin lập tức hoảng loạn mất hết phương hướng. Tuy nhiên, phản ứng đầu tiên của lão già này không phải là tổ chức kháng cự hay bỏ trốn, mà là xử tử tất cả những đại thần từng khuyên ông không nên giết Cyrus, cứ như thể làm vậy là có thể cứu vãn được cục diện. Sau đó, ông ta cưỡng bức tất cả người dân trong thành, bất kể nam nữ già trẻ, đều phải ra tuyến đầu, hòng thực hiện sự kháng cự cuối cùng. Nhưng người dân vừa không có sức chiến đấu chuyên nghiệp, vừa không muốn tiếp tục bán mạng cho lão già này, họ hoặc là bỏ trốn hoặc là đầu hàng. Trong phút chốc, Astyages mất hết lòng dân, cuối cùng thành bị phá và ông bị bắt.

Gặp Astyages bị bắt sống, Harpagus đương nhiên chủ trương trừng phạt nghiêm khắc, nhưng Cyrus lại không giơ cao lưỡi đao tàn sát. Dù sao đó cũng là ông ngoại của mình, dù có hỗn xược đến mấy, tình thân vẫn còn đó. Cyrus đích thân ra mặt, dành nhiều công sức để thuyết phục Harpagus, cuối cùng giam lỏng ông ngoại, cung phụng đầy đủ, chỉ yêu cầu ông không được ra ngoài gây họa nữa mà thôi.

Năm 550 TCN, Cyrus hoàn toàn chinh phục Đế quốc Media. Trên cơ sở này, Cyrus chính thức thành lập Đế quốc Ba Tư. Là vị quân chủ khai quốc, ông được sử sách gọi là “Cyrus II”. Do gia tộc của Cyrus ở Ba Tư thuộc về một gia tộc cổ xưa tên là Achaemenid, nên trong lịch sử, vương triều Ba Tư do ông sáng lập được gọi là Vương triều Achaemenid, để phân biệt với Vương triều Sasan của Ba Tư do Ardashir I sáng lập 800 năm sau đó.

05
⚔️
Cuộc chiến với Lydia và sự trừng phạt của Thần linh

Sau khi diệt Media, mục tiêu tiếp theo đương nhiên là láng giềng hùng mạnh phía Tây của Media: Lydia.

Điều thú vị là Lydia lại chủ động tìm đến trước khi Cyrus kịp hành động.

Chuyện là thế này: Lydia và Media từng xảy ra một trận chiến lớn vài chục năm trước. Kết quả là ngay ngày giao tranh, một hiện tượng nhật thực đã xuất hiện trên bầu trời. Đây là một điềm báo đại hung vào thời đó. Cả hai bên đều cho rằng đây là ý trời không hài lòng khi thấy họ đánh nhau và muốn trừng phạt, vì vậy họ vội vã rút quân. Sau đó, cả hai bên đều cảm thấy nếu ý trời đã như vậy thì còn đánh đấm gì nữa, chi bằng kết thông gia. Thế là quốc vương Lydia lúc bấy giờ, tức là cha của quốc vương hiện tại Croesus, đã gả con gái mình cho thái tử Media. Thái tử này chính là ông ngoại khốn nạn Astyages của Cyrus. Vì vậy, sau khi hai vị quốc vương đời trước qua đời, hai vị quốc vương mới là anh rể và em vợ của nhau.

Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Ba Tư được Quốc vương Croesus của Lydia xem là một mối đe dọa lớn. Sau khi chiếm được Media, Cyrus đang bận rộn với công tác dọn dẹp hậu kỳ, vì xung quanh vẫn còn nhiều bộ lạc thần phục Media chưa được dẹp yên hoàn toàn. Do đó, Cyrus chưa kịp triển khai kế hoạch xuất quân đánh Lydia. Croesus thấy có cơ hội, muốn nhân lúc ông không phòng bị mà đâm sau lưng Cyrus, đồng thời trả thù cho em vợ.

Để đảm bảo không có gì sai sót, trước khi xuất quân, Croesus đã cử người đến đền thờ Delphi để cầu xin thần dụ (người xưa rất mê tín, mọi việc trọng đại đều cần hỏi ý thần, chỉ khi được thần linh cho phép thì việc làm mới có cơ sở). Thần dụ mà ông nhận được rất thú vị:

Thần dụ nói: Nếu ngươi tấn công Ba Tư, ngươi sẽ hủy diệt một đế quốc.

Thần dụ này chẳng khác gì không nói. Bởi vì cả Ba Tư và Lydia đều được coi là đế quốc, chiến tranh nổ ra chắc chắn một bên thắng một bên thua, và một trong hai đế quốc sẽ bị hủy diệt. Vì vậy, Croesus còn khá tỉnh táo, ông cử người đến Delphi lần thứ hai. Lần này, câu hỏi của ông rất cụ thể: Vị trí quốc vương Lydia có thể truyền lại lâu dài không?

Thần dụ nói: Khi một con la trở thành Quốc vương Media, đó là lúc ngươi, Croesus, phải chạy trốn.

Nghe vậy, Croesus liền yên tâm: La thì làm sao có thể làm quốc vương được? Vậy có nghĩa là Lydia sẽ không bao giờ bị tiêu diệt, vậy thì khi chiến tranh với Ba Tư nổ ra, kẻ bị hủy diệt nhất định là Ba Tư rồi.

Thế là, tự cho mình đã được thần linh chúc phúc, Croesus tràn đầy tự tin phát động chiến tranh, dẫn quân tấn công bất ngờ vào vùng Cappadocia do Ba Tư kiểm soát (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay).

Đây chính là bối cảnh Lydia chủ động tìm đến giao chiến.

Cyrus nghe tin, lập tức quay về cứu viện. Hai bên có cuộc chạm trán trực diện đầu tiên trên một bình nguyên ở Cappadocia.

Lúc bấy giờ, quân đội Lydia rất thiện chiến, nhưng Cyrus đã sử dụng chiến thuật “biển người”, dùng binh lực áp đảo để chống đỡ cuộc tấn công dữ dội của Croesus. Trận chiến này vô cùng khốc liệt, cả hai bên đều chịu thương vong nghiêm trọng nhưng không bên nào bị đánh bại, coi như bất phân thắng bại.

Sau trận chiến, Croesus cảm thấy binh lực không đủ. Ông thấy Cyrus cũng chịu thương vong lớn, nên suy đoán gã trai trẻ này cũng cần nghỉ ngơi. Thế là ông ra lệnh rút quân về Sardis, kinh đô của Lydia, muốn dưỡng sức rồi quay lại.

Nhưng Cyrus dường như càng đánh càng hăng, không nghỉ ngơi chút nào, ông lập tức dẫn quân tiến thẳng vào lãnh thổ Lydia.

Croesus tức đến nghẹn lời: Tên khốn nhà ngươi sao không hành động theo lẽ thường chứ?

Trong tình thế bất đắc dĩ, Croesus đành phải huy động toàn bộ tinh nhuệ. Hai bên hội chiến tại Bình nguyên Thymbra bên ngoài thành Sardis.

Croesus vẫn còn tự tin vào trận này, bởi Lydia là một thế lực hùng mạnh ở vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ, nguyên nhân là do quân đội của họ có sức chiến đấu rất mạnh mẽ, chính xác hơn là lực lượng kỵ binh của họ.

Lydia nổi tiếng với những con ngựa chất lượng tốt. Trong thời đại vũ khí lạnh, đây là nguồn tài nguyên chiến lược quan trọng. Từ xưa đến nay, kỵ binh luôn là sự đảm bảo về sức sát thương và khả năng cơ động của quân đội nhờ lợi thế tốc độ và sức mạnh, tương đương với lực lượng thiết giáp hạng nặng ngày nay. Nhờ những nguồn lực này, Lydia đã thành lập lực lượng kỵ binh cầm thương được xếp vào hàng mạnh nhất lúc bấy giờ. Thời đó vẫn chưa phát minh ra bàn đạp yên ngựa, người lính chiến đấu trên lưng ngựa mà chân không có điểm tựa, toàn bộ cơ thể ở trạng thái mất cân bằng. Điều này đòi hỏi người lính vừa phải ngồi vững trên ngựa, vừa phải tạo ra sức sát thương khi đang phi nước đại, đây là binh chủng kỹ thuật cao, cần sự hỗ trợ và huấn luyện chuyên nghiệp, không phải quân đội quốc gia nào cũng có được. Vì vậy, kỵ binh luôn là tinh nhuệ của Lydia, cũng là năng lực cạnh tranh cốt lõi giúp Lydia trở thành cường quốc quân sự ở Trung Đông.

Cyrus muốn thắng, buộc phải giải quyết lực lượng kỵ binh này.

Lúc này, Harpagus lại phát huy vai trò quan trọng, ông đã đưa ra một ý tưởng cho Cyrus: lạc đà.

Harpagus nói: Ngựa có một điểm yếu, đặc biệt dễ bị hoảng sợ bởi các yếu tố bên ngoài. Lạc đà có một mùi kỳ lạ không thể xua tan, ngựa không thể chịu được. Nếu ngựa ngửi thấy mùi này trên chiến trường, chúng chắc chắn sẽ hoảng sợ và không nghe lệnh, khi đó lực lượng kỵ binh Lydia sẽ tan tành (giờ thì các bạn đã biết tại sao lạc đà gặp ngựa chém, cung R, sọc đơn… là được cộng đam rồi đấy)

Cyrus làm theo.

Ông rút toàn bộ ngựa ở tiền tuyến về phía sau, sau đó cho các kỵ sĩ Ba Tư ngụy trang những con lạc đà của đội vận tải hậu cần thành chiến mã rồi đưa lên. Kết quả đúng như Harpagus dự đoán, vừa giao chiến, những con ngựa bên phía Lydia ngửi thấy mùi lạc đà lập tức hoảng loạn, quay đầu xông thẳng vào đội hình quân mình. Bất đắc dĩ, những kỵ binh này chỉ còn cách xuống ngựa, cầm vũ khí chiến đấu như bộ binh, đội hình và sĩ khí ngay lập tức bị rối loạn hoàn toàn. Cyrus và Harpagus thấy cơ hội đến, lập tức ra lệnh toàn quân xuất kích, phía trước là binh lính cưỡi lạc đà mở đường, phía sau là bộ binh vững vàng tiến tới, đến đâu càn quét đến đó. Nhờ vậy, kết quả thắng thua không còn nghi ngờ gì nữa. Đơn vị tinh nhuệ của Lydia bị tiêu diệt hoàn toàn, quân Ba Tư truy kích tàn quân Lydia đến tận chân thành Sardis, chiến thắng của Ba Tư đã ở rất gần.

Sardis là một trong những thành phố lớn nhất vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ, tường thành được xây dựng rất cao và dày, trong thành còn dự trữ đầy đủ lương thực. Croesus thua trận, liền cố thủ trong thành như một con rùa rụt cổ. Quân đội Cyrus tuy sĩ khí cao nhưng nhất thời cũng bó tay với tường thành Sardis. Cuộc bao vây kéo dài 14 ngày vẫn chưa hạ được thành, chiến sự bế tắc tại đó.

Đúng lúc này, quân Ba Tư phát hiện một mặt tường thành Sardis được xây dựa vào vách đá. Vì dưới chân tường là vực sâu vạn trượng, người thường sẽ không chọn tấn công từ phía này nên người Lydia hầu như không bố trí quân phòng thủ ở đây. Cyrus đã thành lập một đội cảm tử, leo lên vách đá cheo leo từ phía này, bất ngờ tấn công và nhanh chóng mở được cổng thành phía bên kia. Lúc này, quân Ba Tư chờ sẵn bên ngoài ồ ạt tràn vào, cuối cùng hạ được Sardis, Croesus bị bắt sống.

Sau khi phá thành, Cyrus không làm khó dễ người dân trong thành Sardis. Khi gặp Croesus bị bắt, ông cũng ra lệnh đại xá, tha mạng cho vị quốc vương này và giữ ông lại bên mình làm cố vấn cấp cao.

Croesus sau khi thất bại, nhớ lại nội dung thần dụ Delphi trước khi khai chiến, ông vô cùng buồn bã, đích thân đến Delphi để hỏi tội: Ngươi nói khi lừa lai làm quốc vương Media thì Lydia mới bị tiêu diệt, giờ chưa thấy la đâu, tại sao ta lại thất bại? Ngươi không phải đang lừa dối ta sao?

Và câu trả lời của thần dụ khiến người ta kinh ngạc: Mẹ của Cyrus là con gái của Quốc vương Media, cha là quý tộc Ba Tư. Thân phận của hai người không ngang nhau, đứa con trai Cyrus sinh ra có thân phận không cao như quý tộc Media cũng không thấp như quý tộc Ba Tư, mà ở vị trí trung gian. Vậy hình ảnh của Cyrus chẳng phải giống như con la được sinh ra từ sự giao phối giữa ngựa và lừa sao? Cyrus tiêu diệt Media, chẳng phải tương đương với việc con la trở thành Quốc vương Media sao?

Nói cách khác, đây là ẩn dụ, hiểu chưa? Ngươi hiểu ý của thần một cách máy móc, đây là chủ nghĩa giáo điều điển hình. Bản thân ngươi không nghe ra được, thất bại là đáng đời, không thể trách thần được.

06
⚔️
Vị Quốc vương Lydia này mặc dù không phải là một lãnh đạo xuất sắc, nhưng lại là một mưu sĩ kiệt xuất.

Đừng xem ông là bại tướng, hình ảnh của người này trong cuốn Lịch sử của Herodotus là khá tốt. Herodotus dường như cũng có một sự ưu ái đối với ông, dành nhiều bút mực để viết về ông. Bản thân người này có rất nhiều câu chuyện, chẳng hạn như ông là người đầu tiên trên thế giới đưa ra khái niệm bản vị vàng. Cuộc thảo luận giữa ông và nhà lập pháp Solon của Athens về “hạnh phúc” là một đoạn đối thoại nổi tiếng trong lịch sử triết học phương Tây. Chuyện là Croesus đã khoe khoang về sự giàu sang và quyền lực của mình, sau đó hỏi Solon rằng ai là người hạnh phúc nhất mà Solon từng gặp. Solon lần lượt nêu tên những người đã sống một cuộc đời có ý nghĩa và kết thúc một cách vinh quang, mà không hề nhắc đến Croesus. Khi Croesus tức giận hỏi tại sao mình không được kể đến, Solon đã giải thích rằng hạnh phúc không chỉ dựa trên sự giàu có hay quyền lực hiện tại, mà phải đợi đến khi cuộc đời kết thúc một cách tốt đẹp, như chúng ta thượng gọi là “cái quan định luận”.

Sau khi trở thành mưu sĩ, Croesus quả thực tỏa sáng rực rỡ. Trong thời đại của Cyrus, ông đã khuyên Cyrus quản lý quân đội nghiêm khắc, không nên tàn sát bừa bãi, đồng thời đóng góp nhiều kế sách về chiến lược và chiến thuật, lập được công lao to lớn, đến mức cuối cùng trở thành trọng thần được Cyrus phó thác con côi. Sau khi Cyrus mất, đối mặt với bạo chúa Cambyses II, ông lại thể hiện kỹ năng vô song trong việc tồn tại chốn quan trường, thành công tự bảo vệ mình trước kẻ thất thường Cambyses II, và nhiều lần kín đáo khuyên can, giúp Cambyses II bớt làm đi nhiều việc thất đức.

Có một chuyện có thể chứng minh IQ và EQ của gã này cao đến mức nào.

Một lần Cambyses II mở tiệc chiêu đãi quần thần. Trong bữa tiệc, cậu em chã này đã hỏi một câu hỏi mà tất cả các hoàng đế từ xưa đến nay đều hỏi:

“Ta và cha ta, ai tài giỏi hơn?”

Những người dưới trướng này ai cũng tinh ranh, đều biết ông chủ muốn nghe gì, nên quần thần đồng thanh nói, khởi bẩm chúa công, ngài vượt trội hơn xa tiên đế. Bởi vì tiên đế Cyrus chỉ chinh phục đất liền, còn ngài còn kiểm soát cả biển cả, gần đây lại còn chinh phục Ai Cập blah blah!

Lúc này, chỉ có Croesus chậm rãi nói một câu:

“Theo ý vi thần, Thánh thượng không bằng Tiên đế.”

Những người bên cạnh đều chết lặng vì sợ hãi. Cambyses II là kẻ thế nào, ngươi không biết sao? Lão già ngươi có phải uống say rồi không, chán sống rồi hả? Nhiều người thậm chí đã chuẩn bị sẵn sàng để thu liệm cho lão già này. Lúc này, lão ta không nhanh không chậm nói thêm một câu:

“Cyrus Đại đế có một người con trai xuất sắc như ngài, còn ngài đến nay vẫn chưa có một người con trai nào có thể sánh bằng, xem ra Thánh thượng còn cần phải cố gắng hơn nữa!”

Cả hội trường kinh ngạc!

Cambyses II vừa nãy còn mặt mũi tối sầm, nghe lời này liền hưng phấn như được cắn thuốc, những đại thần phía dưới lấy lại tinh thần, nhìn Croesus như nhìn thấy thần tiên giáng trần, lũ lượt tranh nhau nói hùa theo.

Những lời tâng bốc của quần thần kia, hoặc là quá thẳng thừng, hoặc là quá sến sẩm, tóm lại là một chữ: tầm thường. Hãy nhìn câu nói của lão già này xem, cấu trúc có mở có đóng, tiết tấu có căng có chùng, tình tiết có chê trước khen sau, hiệu quả hơn xa những lời nịnh hót tầm thường! Có thể nói đây là lời nịnh hót ở trình độ cao nhất trong lịch sử, không có câu thứ hai.

Người này đã có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử sau này. Một hành động của ông đã ảnh hưởng đến Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ nhất, từ đó thay đổi lịch sử. Mời mọi người hãy nhớ kỹ người này, còn ông đã làm gì, chúng ta sẽ sớm nói đến.

Và lúc này đối với Cyrus, sau khi chinh phục Lydia, Ba Tư chỉ còn lại mục tiêu cuối cùng: Đế quốc Tân Babylon, bá chủ vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ.

Đại công cáo thành, chỉ còn một bước.

07
⚔️
Chiến thắng kịch tính tại Babylon và danh xưng "Vua của Vũ trụ"

Cyrus chinh phục Babylon đầy kịch tính.

Babylon cũng là một người chơi lớn trong nền văn minh Trung Đông, với lịch sử kéo dài hơn một thiên niên kỷ và nhiều câu chuyện. Bạn chỉ cần nhớ hai nhân vật là đủ.

Đầu tiên là Hammurabi nổi tiếng. Quốc gia mà ông cai trị được gọi là Vương quốc Babylon Cổ, vào khoảng năm 1750 TCN. Ông được biết đến nhiều nhất với “Bộ luật Hammurabi”. Bộ luật này được khắc trên một khối đá bazan màu xanh rêu, là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Nó bao gồm nguyên tắc “phục thù tương xứng” (mắt đền mắt, răng đền răng), cũng như tư duy chứng cứ và tư duy khế ước đã ảnh hưởng đến lịch sử nhân loại trong hàng nghìn năm. Hiện bộ luật này được lưu giữ tại Bảo tàng Louvre ở Pháp, thuộc cấp độ bảo vật quốc gia.

Thứ hai là Nebuchadnezzar II, cai trị Đế quốc Tân Babylon, đã được nhắc đến khi giới thiệu về Assyria. Về nhân vật này, chỉ cần nói một điều: Giấc mơ của cựu lãnh đạo Iraq Saddam Hussein chính là khôi phục sự huy hoàng và vinh quang mà Nebuchadnezzar II từng có. Vườn treo Babylon, được mệnh danh là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, chính là công trình do vị vua này chủ trì xây dựng để làm vui lòng một người phụ nữ trong thời gian trị vì của ông. Việc một công trình như vậy cần bao nhiêu quốc lực để duy trì ở Trung Đông 2700 năm trước cũng phần nào phản ánh sự hùng mạnh của Babylon dưới thời vị vua này. Đế quốc Tân Babylon dưới sự cai trị của ông là “anh cả” tuyệt đối của vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ.

Một đối thủ như vậy, theo lẽ thường phải là một miếng xương khó gặm. Vì vậy, khi quân Cyrus áp sát thành Babylon, trong lòng ông đã chuẩn bị sẵn sàng cho một trận chiến ác liệt. Tường thành Babylon quá cao và dày, quân phòng thủ trong thành cũng đông đảo, lương thảo dự trữ đủ dùng trong vài năm. Theo lẽ thường, không thể hạ thành Babylon mà không trải qua một trận chiến long trời lở đất, máu chảy thành sông.

Nhưng khi một người đang ở thời kỳ thăng hoa, ngay cả vận may cũng đứng về phía họ.

Ngay khi Cyrus sắp xếp đội hình chuẩn bị dốc sức chiến đấu, cổng thành Ishtar màu xanh lam nổi tiếng của Babylon bỗng nhiên tự mở ra. Một nhóm người bước ra, hô lớn vạn tuế khi thấy Cyrus và quỳ lạy. Các tướng sĩ Ba Tư nhìn cảnh tượng đó kinh ngạc đến sững sờ. Mãi sau, quần thần Ba Tư mới định thần lại và xác nhận: Họ đã chiếm được Babylon, thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ, mà không tốn một binh một tốt!

Thì ra, sau khi Nebuchadnezzar II qua đời, Tân Babylon nhanh chóng suy tàn, không còn xuất hiện một vị vua mạnh mẽ hay một nhân vật quyền lực nào nữa. Sự hưởng lạc bắt đầu sinh sôi từ bên trong, tham nhũng lan nhanh như tế bào bệnh tật đến mọi ngóc ngách của cơ thể đế quốc, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, sức mạnh quốc gia bị xói mòn. Đến thời Cyrus, Đế quốc Tân Babylon đã trở thành một cái vỏ rỗng không. Lúc này, quốc vương Babylon đã thực hiện một loạt các biện pháp cải cách nội bộ, hy vọng xoay chuyển tình thế, nhưng lại vấp phải sự bất mãn mạnh mẽ của tầng lớp lợi ích đặc quyền trong nước. Trong đó, lợi ích của giới tăng lữ bị tổn hại nghiêm trọng nhất. Thế là, sự phẫn nộ của nhóm người này tích tụ đến một mức độ nhất định, họ dứt khoát mở cửa thành đầu hàng Cyrus. Babylon cứ thế thực hiện “giải phóng hòa bình”.

Cho đến lúc này, bản đồ Đế quốc Ba Tư trải dài từ Bán đảo Sinai (ở Ai Cập, chỗ kênh đào Suez) đến Vịnh Ba Tư, gần như chiếm toàn bộ vùng Lưỡng Hà. Với lãnh thổ rộng lớn, dân số đông đúc và kinh tế khổng lồ, nó đã vượt qua các “anh cả” Trung Đông tiền nhiệm, trở thành Đế quốc số một thế giới đúng nghĩa vào thời điểm đó. Sự nghiệp chinh chiến của Cyrus đạt đến đỉnh cao, và vì thế Cyrus đã tự phong cho mình một danh hiệu chưa từng có: “Vua của Vũ trụ”.

Theo vị trí địa lý, sau khi cơ bản thống nhất vùng Lưỡng Hà, mục tiêu chinh phục tiếp theo của Ba Tư, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là Ai Cập.

08
⚔️
Trận chiến cuối cùng và sự ra đi của Cyrus Đại đế

Tuy nhiên, ngay khi Cyrus chuẩn bị tấn công Ai Cập, một bộ lạc nhỏ không mấy nổi bật ở phía Đông đế quốc, người Massagetae, đã nổi dậy.

Cyrus buộc phải dẫn quân đi dẹp loạn. Cuộc xuất chinh này thoạt nhìn chỉ là để giải quyết một rắc rối nhỏ, nhưng nó đã trở thành trận chiến cuối cùng của Cyrus Đại đế.

So với Ba Tư, nền văn minh của người Massagetae tương đương với một bộ lạc nguyên thủy. Xét về sức mạnh tổng hợp, họ chắc chắn không phải đối thủ của Ba Tư, nhưng đặc tính của người man rợ quyết định rằng nhóm người này đều là những kẻ không sợ chết, loại người dám xông lên chỉ với một viên gạch nhặt được trên mặt đất, tuyệt đối không dễ đối phó. Thủ lĩnh của nhóm người này lại là một phụ nữ đã mất chồng, góa phụ của tù trưởng bộ lạc trước đây. Bạn có thể tưởng tượng, trong một bộ lạc nguyên thủy man rợ như vậy, một góa phụ có thể trấn áp được nhóm người liều mạng này, thì bản thân người phụ nữ đó phải phi thường đến mức nào. Chúng ta thường nói kẻ hung bạo sợ kẻ ngang tàng, kẻ ngang tàng sợ kẻ liều mạng. Và nữ tù trưởng Massagetae này thuộc loại liều mạng. Vì vậy, khi Cyrus dẫn quân đến, sự kháng cự của nữ tù trưởng này cực kỳ ngoan cường, hai bên giằng co trong một thời gian dài, thương vong rất nghiêm trọng. Sau một trận chiến lớn, Cyrus đã bắt sống con trai bà. Ban đầu ông nghĩ rằng người phụ nữ này sẽ phải nhượng bộ, nhưng bà ta đã cử sứ giả đến gặp Cyrus, không những không có ý khuất phục mà còn tuyên bố: hoặc thả người, hoặc chiến đấu sống mái với ông. Con trai bà ta cũng là một người cứng rắn, đã tìm cơ hội tự sát, không gây thêm rắc rối cho mẹ mình. Và sự giận dữ của một người phụ nữ mất con, ai cũng có thể hiểu được. Kết quả là trong trận chiến tiếp theo, gần như toàn bộ người Massagetae đều trở thành binh lính, xông vào quân đội Ba Tư như những con quỷ khát máu điên cuồng. Trận chiến kéo dài từ sáng đến tối, binh sĩ hai bên ngã xuống la liệt. Quân Ba Tư, kể từ khi bắt đầu chinh phạt, chưa bao giờ gặp một trận chiến quy mô lớn và thương vong nghiêm trọng đến vậy, nhưng Cyrus không có ý định lùi bước, ông cầm đao, cưỡi ngựa chiến xông pha ở tuyến đầu. Quân đội Ba Tư được truyền cảm hứng từ thủ lĩnh của họ, gầm thét vang trời, xông thẳng về phía trước.

Đúng lúc này, một cây lao xuyên qua ngực Cyrus.

Vị vua Ba Tư đã ngoài 60 tuổi phun ra máu tươi, quán tính mạnh mẽ hất ông văng khỏi lưng ngựa, ngã ngửa xuống chiến trường đầy cát. Các tướng sĩ của ông vội vã chạy đến, dùng thân mình che chắn cho nhà vua của họ. Cyrus rõ ràng có thể nhìn thấy ánh mắt kinh hoàng và tiếng gào khóc đau đớn của họ, nhưng ông không nghe thấy tiếng họ kêu gào, cũng không thể nói được một lời nào. Thời gian lúc này dường như quay ngược lại, trong tâm trí ông ngày càng hiện lên những khoảnh khắc trong cuộc đời huyền thoại của mình. Ông dùng chút sức lực cuối cùng muốn đứng dậy nhưng không thể. Ông chỉ có thể nghe thấy tiếng tim mình đập nặng nề. Cuối cùng, ông cảm thấy hơi thở ngày càng khó khăn, ánh sáng trong mắt ông, cùng với ánh tà dương đổ máu, dần dần tắt lịm.

Vị minh chủ một thời, Cyrus Đại đế, đã kết thúc cuộc đời huyền thoại của mình như thế.

Có người nói rằng cuộc đời chinh chiến của Cyrus cuối cùng lại thất bại dưới tay một người phụ nữ như vậy thì thật đáng tiếc, nếu không hồ sơ cuộc đời ông sẽ vô cùng hoàn hảo.

Nhưng, là một hoàng đế trên chiến trường, nam chinh bắc phạt là số mệnh của ông, và xét ở một góc độ nào đó, việc hy sinh ngoài chiến trường chính là kết cục tốt đẹp nhất của ông. Cuộc đời Cyrus đã đủ rực rỡ, sự nghiệp mà ông tạo dựng đã đặt nền móng cho Vương triều Achaemenid của Đế quốc Ba Tư kéo dài 220 năm, an ủi cả đời ông đã là quá đủ rồi, hà tất phải câu nệ việc có hoàn hảo hay không.

Viết đến đây là gần 10.000 chữ, hơn 20 trang A4. Nếu bạn đã có thể đọc đến tận đây, vui lòng ủng hộ người đăng một like, và đừng quên theo dõi trang để không bỏ lỡ các phần tiếp theo nhé.

09
⚔️
Vấn đề cuối cùng chúng ta cần bàn là, từ một thủ lĩnh bộ lạc địa phương, Cyrus chỉ mất 25 năm để sáng lập một đế quốc khổng lồ như vậy, ông đã dựa vào “bí kíp” độc đáo nào để làm được điều đó?

Bí kíp của ông là: khoan dung và nhân hậu.

Nhìn lại cuộc đời chinh chiến của ông, dù là đối với ông ngoại Astyages hay đối với các bộ lạc bị chinh phục khác, trừ khi bất đắc dĩ, phần lớn thời gian ông luôn giữ thái độ bao dung đối với những người bị chinh phục. Hơn nữa, nếu phân tích sâu hơn phong cách này của Cyrus, bạn sẽ thấy: ông càng khoan dung, sự nghiệp chinh chiến của ông càng thuận lợi; ông càng tôn trọng những người bị chinh phục, bản đồ đế quốc của ông càng mở rộng.

Điều này có vẻ đi ngược lại lẽ thường, nhưng logic thực ra rất đơn giản. Có thể giải thích bằng một từ đang thịnh hành trên khắp thế giới ngày nay: Hiệu ứng bánh đà (Flywheel Effect).

Hiệu ứng bánh đà là một tư duy kinh doanh do tỷ phú Jeff Bezos, người sáng lập Amazon, đề xuất. Đại ý là có một bánh răng khổng lồ và nặng nề, bạn phải tốn rất nhiều sức để đẩy nó. Nhưng nếu bạn kiên trì đẩy bánh răng này theo cùng một hướng, lúc ban đầu có thể tốn sức mà không có kết quả, bánh xe quay rất chậm, nhưng theo thời gian, bạn sẽ thấy bánh xe quay ngày càng nhanh, bánh xe có thể tự quay bằng quán tính và tích lũy thế năng, còn sức lực bạn bỏ ra lại ngày càng ít.

Mối quan hệ giữa sự khoan hậu của Cyrus và sự phát triển sự nghiệp đế quốc của ông chính là sự thể hiện của một bánh đà tín nhiệm.

Cyrus hoàn toàn có thể dựa vào vũ lực để càn quét thiên hạ, nhưng chinh phục bằng vũ lực có một di chứng: khó quản lý. Một khi những người bị chinh phục có cơ hội, họ sẽ nổi dậy, điều này làm tăng chi phí quản lý, ngược lại cũng ảnh hưởng đến tốc độ bành trướng, cuối cùng buộc phải dùng đến thủ đoạn đồ thành để đảm bảo ổn định. Ba lần Tây chinh của người Mông Cổ vào thế kỷ 14 là ví dụ rất điển hình. Điểm thông minh của Cyrus nằm ở chỗ ông đã nắm bắt được tinh hoa quản lý của “củ cà rốt và cây gậy”:

Một mặt, ông dựa vào quân đội hùng mạnh, tạo ra sự đe dọa bằng vũ lực đối với các khu vực bị chinh phục, không ai dám hành động liều lĩnh.

Mặt khác, ông xoa dịu các thế lực đối lập và giành được sự công nhận bằng cách bảo vệ tài sản và tính mạng của người dân ở các khu vực bị chinh phục, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo địa phương.

Ban đầu, mọi người nghĩ ông đang “làm màu”, hiệu quả còn hạn chế. Nhưng kiên trì làm như vậy lâu dài, khi ngày càng nhiều nơi bị chinh phục, việc “làm màu” có thể tạo thành uy tín, cuối cùng chuyển hóa thành lợi thế dư luận khổng lồ. Dần dần, tất cả mọi người sẽ hình thành một kỳ vọng ổn định về Cyrus: chống đối sẽ chết, quy phục thì cuộc sống vẫn tiếp diễn. Nếu đã như vậy, ai sẽ thực sự liều mạng chống lại nữa?

Trong đó, chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc của ông là vô cùng sáng suốt.

Đối với nhân loại, tín ngưỡng là chỗ dựa tinh thần kiên cố nhất. Một dân tộc sẽ không dễ bị đánh bại khi có tín ngưỡng, và khi người dân bị chinh phục, việc buộc họ cải đạo có lẽ còn đau khổ hơn cả việc tiêu diệt thể xác. Cyrus, với tư cách là một chính trị gia vĩ đại, hiểu rõ sức mạnh của tôn giáo. Vì vậy, mỗi khi ông chinh phục một nơi, có hai kỷ luật phải tuân thủ:

Thứ nhất, tuyệt đối không được cướp bóc các đền thờ địa phương (mặc dù nơi đó thường có rất nhiều châu báu). Không chỉ không được quấy nhiễu, đối với một số đền thờ đặc biệt quan trọng, Cyrus còn phải đích thân viếng thăm, trước khi rời đi còn tặng quà cho đền thờ để thể hiện sự tôn trọng.

Thứ hai, tự do tín ngưỡng, không bắt buộc thay đổi tôn giáo, tất cả những người bị đàn áp tôn giáo đều được khoan dung.

Ví dụ điển hình nhất là khi ông chinh phục Babylon, ông lập tức trả tự do cho toàn bộ người Do Thái bị Nebuchadnezzar II nô dịch để họ trở về Jerusalem. Ông trả lại các vật thánh của Do Thái và cấp tiền giúp họ xây dựng lại Đền thờ. Hành động nhân từ này sau đó đã được viết vào kinh điển Do Thái giáo là “Cựu Ước”. Cho đến ngày nay, Cyrus vẫn giữ một vị thế cao quý trong lòng người Do Thái. Và vào thời điểm đó, những hành động này đã mang lại cho ông uy tín rất lớn, từ đó tạo ra hai lợi ích lớn:

Hiệu quả bành trướng tăng mạnh: Vì sự khoan hậu, khi ông xuất chinh, người khác đã mở cửa thành đầu hàng mà không cần động đến vũ lực.

Chi phí quản lý giảm đáng kể: Ông không quấy nhiễu dân chúng, không thay đổi tôn giáo của họ, nhờ vậy người dân có thể thật lòng quy phục, nội bộ yên ổn.

Hai điều này bổ sung cho nhau, mới có thể giải thích tại sao một đế quốc khổng lồ như vậy lại có thể hoàn thành việc bành trướng chỉ trong 25 năm. Hiệu quả như vậy tuyệt đối không thể đạt được nếu chỉ dựa vào vũ lực.

Chính nhờ bí kíp này, Cyrus mới trở thành nhân vật chính trị vĩ đại nhất của văn minh Lưỡng Hà và Hy Lạp trước thời Alexander Đại đế. Ngay cả bản thân Alexander cũng vô cùng ngưỡng mộ Cyrus Đại đế suốt đời. Sau này, khi Alexander Đại đế chinh phục Ba Tư, ông đã đối xử rất tôn trọng với hoàng gia Ba Tư, một phần vì sự kính trọng đối với Cyrus. Cũng chính nhờ bí kíp này, lịch sử mới trao cho ông danh hiệu “Cyrus Đại đế”. Cần biết rằng, những nhân vật được lịch sử thế giới phong danh hiệu Đại đế (The Great) như Caesar, Charlemagne, Suleiman, Peter I, ai mà không phải là người tung hoành ngang dọc, danh tiếng vang dội sử sách? Việc được sánh vai với những người này cho thấy vị thế lịch sử của ông. Cho đến ngày nay, Cyrus vẫn là tượng đài tinh thần của người Iran, được tôn vinh là “Cha đẻ của Iran”. Ông xứng đáng với những vinh dự này.

Chúng ta hãy cùng nhìn lại tuyên bố hùng hồn của ông: “Ta là Cyrus, Vua của vũ trụ, Vua vĩ đại, Vua hùng mạnh, Vua của Babylon, Vua của Sumer và Akkad, Vua của bốn phương trên thế giới.”

Phần sau chúng ta sẽ tìm hiểu về cuộc đời của con trai Cyrus, bạo chúa Cambyses II.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
1764720161627.png


01
Cambyses II kế vị và chinh phục Ai Cập

Có người nói, tuổi càng cao, trải nghiệm càng nhiều, trực giác về tương lai càng chính xác.

Câu này rất phù hợp với Cyrus. Trước trận quyết chiến với bộ lạc Massagetae, trong lòng Cyrus dường như đã có linh cảm không lành. Do đó, ông đã gọi Croesus đến trước mặt, ủy thác ông chăm sóc cho con trai mình là Cambyses, đồng thời dặn dò Cambyses dù có chuyện gì xảy ra cũng phải tôn trọng Croesus. Sau khi dặn dò xong những điều này, Cyrus đã tử trận trên chiến trường.

Sau khi biết tin Cyrus qua đời, dựa vào uy tín của một lão thần, theo di nguyện của Cyrus, Croesus đã phò tá Cambyses lên ngôi. Do Cambyses được đặt tên giống ông nội (vị quý tộc hạng hai được gả công chúa Media trong phần trước, các bạn còn nhớ chứ?), thế nên sau này sách sử gọi ông là Cambyses II để dễ phân biệt, chứ thời đó cả thế giới đều vẫn gọi ông là Cambyses.

Cambyses sau khi đăng cơ, về đối ngoại, ông đã kế thừa chính sách bành trướng của người cha Cyrus. Việc đầu tiên ông làm là tổ chức một trận quyết chiến nữa với người Massagetae. Sau nhiều trận chiến cam go, dựa vào sức mạnh tổng hợp quốc gia hùng hậu, cuối cùng ông đã dẹp tan được sự phản kháng của người Massagetae. Cambyses đón hài cốt của cha là Cyrus trở về quê hương Fars, xây dựng lăng mộ cho Cyrus Đại đế. Di tích này ngày nay được xếp vào danh sách Di sản Văn hóa Thế giới.

Sau khi giải quyết xong những yếu tố bất ổn này, Cambyses ngay lập tức dẫn quân tấn công Ai Cập. Lúc bấy giờ, Ai Cập đang trong thời kỳ Vương triều thứ 26 cai trị. Vương triều này từng có thời kỳ huy hoàng, từng đánh ra khỏi châu Phi, xuất quân vào Trung Đông. Nếu không nhờ bá chủ Trung Đông lúc bấy giờ là Nebuchadnezzar II đủ mạnh mẽ để chặn đứng đợt tấn công này của người Ai Cập, tiến trình văn minh Trung Đông có thể đã bị thay đổi. Nhưng đến thời Cambyses, vương triều này ngày càng khép kín, đất nước suy yếu, đối mặt với cuộc tấn công mãnh liệt của Ba Tư, hầu như không có sự kháng cự nào đáng kể. Cambyses không mất nhiều công sức đã chiếm được toàn bộ Ai Cập, đồng thời đưa nhiều khu vực lân cận Ai Cập, như vùng Libya và các thành phố cứ điểm do người Phoenicia xây dựng, vào phạm vi ảnh hưởng của mình. Cho đến lúc này, lãnh thổ Đế quốc Ba Tư đã mở rộng sang châu Phi, từ nội địa châu Á tiến đến bờ biển Địa Trung Hải. Một đế quốc tầm thế giới đã manh nha hình thành, đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Đọc đến đây, bạn có thể nghĩ rằng Cambyses làm cũng không tồi, có vẻ người kế nhiệm này khá đáng tin cậy.

Nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài mà thôi.

Những công trạng này của Cambyses thực chất là quốc sách đã được Cyrus Đại đế hoạch định từ trước. Nếu xét kỹ, những công trạng này chính là kết quả của sự phát triển theo quán tính từ các chiến lược đã định của Cyrus, mà không phải là do Cambyses tự mình làm nên. Cambyses chẳng qua chỉ là người thực thi trên cương vị của mình, không có tính sáng tạo, và độ khó của thách thức cũng không lớn.

Điều thực sự thể hiện bản chất của người này chính là một loạt hành động đối nội. Chính trị nội bộ của Ba Tư dưới thời ông trị vì là một mớ hỗn độn, điều này không thể tách rời khỏi tính cách và trạng thái tinh thần của ông. Nói tóm lại, Cambyses là một người quái đản.

02
Một vị vua bạo ngược gây rối loạn đất nước

Tại sao lại nói vậy?

Cambyses được Cyrus đặt tên theo tên cha mình là Cambyses. Thật trớ trêu, ông nội Cambyses là một quý tộc hiền lành, ôn hòa, nhưng đến đời Cambyses II, cái tên này lại trở thành từ đồng nghĩa với bạo chúa. Tuy nhiên, các bạo chúa mà chúng ta thường hình dung, dù họ có tàn nhẫn và khát máu đến đâu, mục đích của việc họ làm đều là để duy trì sự ổn định của đất nước, đảm bảo quyền lực vận hành. Nhưng Cambyses lại khác. Rất nhiều việc ông làm đều là những sự kiện chính trị lớn có thể gây ra hỗn loạn trong nước, nói cách khác, đều là những việc phá hoại sự ổn định của đất nước.

Chúng ta hãy xem vị bạo chúa này đã làm những chuyện tồi tệ gì:

Xúc phạm người chết ở Ai Cập:
Sau khi chinh phục Ai Cập, có lần ông tham quan lăng mộ của một vị Pharaoh. Đột nhiên ông ra lệnh cho binh lính đào xác ướp Pharaoh lên, đánh đập công khai mà không có bất kỳ lý do nào. Bất kể tôn giáo và văn hóa nào trên thế giới đều tôn trọng việc người đã khuất phải được yên nghỉ. Hơn nữa, Ai Cập còn là nền văn minh coi trọng nhất sự an nghỉ của linh hồn người chết, nếu không họ đã không tốn nhiều công sức để xây dựng những kim tự tháp vĩ đại. Quần thần Ba Tư sau khi chinh phục Ai Cập đã làm rất nhiều công tác xoa dịu dân chúng, duy trì ổn định, nhưng việc làm này của Cambyses chẳng khác nào chọc giận dân chúng, lật tung sự ổn định dân tình mà họ khó khăn lắm mới xoa dịu được.

Khinh miệt thần linh Hy Lạp:
Ông không tôn trọng người Ai Cập, và người Hy Lạp cũng vậy. Trong lãnh thổ Đế quốc Ba Tư có nhiều thành bang Hy Lạp. Dưới thời Cyrus tại vị, nhờ thực hiện chính sách khoan dung tôn giáo, những người Hy Lạp này vẫn giữ được quyền tế lễ các vị thần Hy Lạp. Các vị thần Zeus, Apollo đều có đền thờ độc lập. Vốn dĩ hai bên hòa thuận, nhưng khi Cambyses đến, mọi chuyện thay đổi. Có lần ông đến thăm đền thờ Hephaestus. Vị thần này là một trong 12 vị chủ thần trên đỉnh Olympus, chồng của Thần Tình yêu Aphrodite, chủ yếu phụ trách việc rèn đúc và luyện kim, gọi đơn giản là thần thợ rèn. Vị thần này có một khiếm khuyết về thể chất, ông vừa lùn lại vừa què. Cambyses thấy vị thần này quá xấu xí, liền hướng về tượng thần chửi bới một hồi, châm chọc chua ngoa, nói những lời khó nghe nhất, hoàn toàn không để ý đến cảm nhận của người Hy Lạp bên cạnh.

Những hành động vô lý như vậy đã khiến quần thần xung quanh đau đầu không thôi, thêm vào đó Cambyses lại còn nhỏ nhen, tính cách nhạy cảm và đa nghi, những chuyện ông ta gây ra càng khiến trời đất phẫn nộ.

Giết bò thần của Ai Cập:
Lúc bấy giờ, trong truyền thuyết Ai Cập có một loại thần thú, toàn thân màu đen, có đốm trắng đặc biệt trên trán, có hình chim ưng trên lưng, đuôi có hai màu và lưỡi có vết bớt hình bọ cánh cứng. Theo truyền thuyết Ai Cập ghi lại, con bò cái có đặc điểm này là thần thú quý hiếm được trời ban. Việc phát hiện ra nó được coi là một sự kiện rất trang nghiêm và trọng đại. Dưới thời Cambyses, người Ai Cập đã phát hiện ra một con. Đây là một điềm lành trăm năm hiếm có, người Ai Cập vô cùng thành kính thờ cúng con bò thần này, đồng thời dân chúng ca hát nhảy múa, mở tiệc ăn mừng. Điều này khiến Cambyses không vui, ông cho người dắt con bò này đến trước mặt, không nói một lời, rút kiếm chém xối xả. Người Ai Cập chứng kiến cảnh này thì vô cùng đau đớn, căm hận ngút trời. Các đại thần dưới trướng gãi đầu gãi tai, không hiểu tại sao một con bò lại có thù oán gì với ông ta. Chờ đến khi Cambyses chém thỏa thích, ông quay lại nói với các đại thần: “Mấy ngày trước ta vừa thua trận khi đánh Ethiopia, thế mà bây giờ bọn nô lệ này còn mở tiệc? Trong lòng bọn chúng còn coi ta là lãnh đạo hay không?”

Các đại thần nhìn nhau, chỉ biết thở dài.

Đến giai đoạn sau, trạng thái điên loạn của Cambyses đã đến mức trầm kha, những việc ông làm càng thêm tàn bạo và đẫm máu. Ví dụ, có một quan chức báo cáo công việc cho ông, ông nghi ngờ quan chức nói dối, liền phát minh ra một phương pháp “kiểm tra nói dối”. Ông gọi con trai của vị đại thần báo cáo lên đại điện, trong lúc vị quan đang báo cáo, ông đột nhiên bắn một mũi tên giết chết con trai của vị quan, sau đó mổ bụng ngay tại chỗ. Nếu mũi tên trúng tim, chứng tỏ đại thần nói thật, nếu không là nói dối.

Nhiều nhà sử học sau khi nghiên cứu các tài liệu lịch sử liên quan đều cho rằng Cambyses là một bệnh nhân tâm thần. Nếu không, về mặt logic không thể giải thích được tại sao gã này lại làm nhiều chuyện tàn bạo và thiếu suy nghĩ đến vậy.

Nhưng bất kể có bị tâm thần hay không, dưới sự cai trị của ông ta, tất cả mọi người ở Ba Tư đều có chung một nhận định: Cuộc sống này không thể tiếp diễn được nữa!

Đến lúc này, ngoài những trọng thần được Cyrus phó thác như Croesus thỉnh thoảng còn dám khuyên can vài câu (và tí thì bị giết), các quan chức khác nhìn thấy ông ta chỉ biết im thít. Trong một thời gian, cuộc sống của quan lại trong cung điện Ba Tư vô cùng khốn khổ.

03
🔪
Cuộc binh biến và cái chết bất ngờ của Cambyses II
Ngay khi Cambyses đang lên cơn cuồng loạn ở Ai Cập, đại bản doanh cuối cùng đã xảy ra chuyện.

Tin tức về một cuộc chính biến đã lan truyền từ triều đình Ba Tư. Có người ở quê nhà châu Á đã tự xưng vương, chống lại Cambyses. Sau đó, các quốc gia trước đây thần phục Ba Tư như Media, Babylon, Elam cũng đồng loạt nổi dậy hưởng ứng người làm chính biến này. Đế quốc Ba Tư đã đến thời khắc nguy hiểm nhất.

Và tất cả những điều này, lại do một giấc mơ gây ra.

Không lâu sau khi Cambyses kế vị, một đêm nọ, ông nằm mơ thấy em trai ruột của mình là Smerdis đội vương miện, ngồi trên ngai vàng Ba Tư, và Smerdis trở nên to lớn vô cùng, đầu chạm đến tận trời xanh. Cambyses tỉnh dậy sợ đến chết khiếp, lập tức cử tâm phúc tin cậy nhất quay về kinh đô Ba Tư, bí mật giết chết Smerdis. Sau khi loại bỏ mối họa lớn trong lòng, Cambyses tưởng rằng mọi chuyện đã ổn thỏa, liền ở lại Ai Cập tận hưởng cuộc sống phóng túng.

Sách sử ghi lại, trong cung điện Ba Tư có hai tăng lữ (Magi), chuyên phụ trách các công việc nội bộ của cung đình. Trong đó có một tăng lữ tên là Gaumata, có ngoại hình gần như giống hệt Smerdis (Có lẽ không phải ngẫu nhiên, mà là Gaumata trước đó được triều đình Ba Tư cố ý lựa chọn để khi cần có thể đóng giả Smerdis). Có lần, Gaumata phạm một lỗi nhỏ bị Cambyses phát hiện. Theo tính khí tồi tệ của vị chúa này, Gaumata chắc chắn sẽ mất mạng. Nhưng vì còn có nhiệm vụ đóng giả Smerdis khi cần thiết, nên hắn không bị giết, nhưng Cambyses đã cắt đi hai tai của hắn và tiếp tục để hắn ở lại phục vụ trong cung.

Khi Smerdis bị bí mật xử tử, hai người này thấy cơ hội đã đến, vì Smerdis bị giết một cách bí mật, người ngoài hoàn toàn không biết. Cambyses lại không ở yên tại trung ương, điều này tạo không gian cho hai người này gây chuyện. Hai người bàn bạc, dựng lên một cuộc chính biến cung đình giả mạo. Gaumata đóng giả Smerdis, công khai tuyên bố với toàn thể Ba Tư là người kế thừa ngai vàng của Cyrus, kêu gọi quân đội thiên hạ khởi binh chống lại Cambyses.

Vì Cambyses đã gây ra quá nhiều chuyện quá đáng trong những năm gần đây, sự oán hận tích tụ quá sâu. Giờ có một ngòi nổ, cuộc bạo loạn đã tích tụ lâu ngày cuối cùng không thể che giấu được nữa. Các quân phiệt địa phương và các khu vực bị chinh phục liên tiếp nổ ra phản loạn. Đế quốc Ba Tư vốn thịnh vượng vài năm trước, trong chốc lát đã trở nên đại loạn.

Cambyses nghe tin, vừa kinh hoàng vừa giận dữ, vội vàng dẫn quân quay về cứu kinh đô Susa. Khi đang hành quân đến lãnh thổ Syria, Cambyses vô tình bị chính thanh kiếm của mình cứa vào đùi. Vài ngày sau, vết thương bị viêm nhiễm nặng. Vài ngày nữa, Cambyses cuối cùng không qua khỏi. Một bạo chúa một thời, đã kết thúc triều đại ngắn ngủi 7 năm của mình theo cách này.

Việc Cambyses chết không ai quan tâm, nhưng việc đất nước ông ta quản lý sắp sụp đổ mới là vấn đề nhiều người quan tâm. Và trong cuộc khủng hoảng lớn này, một người đã trỗi dậy, ông chính là vị lãnh đạo thế hệ thứ ba của Đế quốc Ba Tư: Darius I.

04
👑
Sự trỗi dậy của Darius I và cuộc chính biến “Bảy người bạn”
Darius cũng đến từ gia tộc Achaemenid, nhưng gia đình ông là một nhánh nhỏ của gia tộc hiển hách này, quan hệ huyết thống với dòng chính Cyrus không quá gần. Tuy nhiên, cha của ông là hậu duệ của một quý tộc Ba Tư lâu đời, có năng lực phi thường, đã quen biết Cyrus từ rất sớm và luôn theo sát Cyrus chiến đấu sau khi khởi binh. Sau khi Ba Tư thành lập quốc gia, ông từng giữ chức Tổng đốc Fars. Đây là căn cứ địa của gia tộc Achaemenid. Việc Cyrus để cha Darius làm tổng đốc khu vực này chẳng khác nào giao cả mộ tổ cho ông, điều này cho thấy Cyrus tin tưởng người này đến mức nào.

Nhờ mối quan hệ của người cha, Darius đã được Cyrus Đại đế đặc biệt quan tâm từ nhỏ. Sự trưởng thành và rèn luyện của ông đều nhận được sự phân bổ tài nguyên hàng đầu của Ba Tư. Sau này, Cyrus điều ông vào làm việc trong quân Cấm vệ, có nghĩa là phụ trách bảo vệ an ninh cho hoàng tộc và cung đình, đủ thấy Cyrus đã dày công bồi dưỡng ông. Dưới thời Cambyses tại vị, ông đã cải tổ và mở rộng đội quân Cấm vệ này, nâng cấp thành một đơn vị đặc nhiệm đáng sợ, đó chính là quân đội tinh nhuệ nhất của Đế quốc Ba Tư: Đội quân bất tử (ảnh).

Việc tuyển chọn đội quân này cực kỳ nghiêm ngặt: không những phải có võ công giỏi, mà việc kiểm tra lý lịch chính trị còn nổi tiếng là khắt khe, vì phải đảm bảo lòng trung thành. Darius ngay từ đầu đã giữ chức phó chỉ huy của Đội quân bất tử. Khi viễn chinh Ai Cập, chỉ huy trưởng bất ngờ tử trận, Darius ngay lập tức tiếp quản chức vụ chỉ huy đội quân tinh nhuệ nhất này, phục vụ trực tiếp lãnh đạo tối cao. Điều này có nghĩa là Cambyses đã giao cả tính mạng mình cho Darius. Vì vậy, năng lực, địa vị và mức độ tin cậy của Darius có thể hình dung được.

Một quý tộc trẻ tuổi như Darius, luôn theo sát lãnh đạo cao nhất, không chỉ có kiến thức sâu rộng mà còn có quan hệ xã giao rộng rãi. Nhiều năm hòa mình trong giới cấp cao của đế quốc đã rèn luyện nên một Darius tài giỏi, khôn khéo. Trong quá trình giao thiệp với hết nhóm người cấp cao này đến nhóm người cấp cao khác trong đế quốc, Darius đã tích lũy được một mạng lưới quan hệ sâu rộng. Dần dần, xung quanh Darius tụ tập một nhóm bạn bè cùng độ tuổi, kinh nghiệm và xuất thân với ông, bảy thành viên cốt lõi đã tạo thành một nhóm bí mật gọi là “Bảy người bạn”.

Đúng vào thời điểm then chốt khi Cambyses bất ngờ chết, Darius ngay lập tức nhận ra kẻ đang ở trong cung Susa chỉ là hàng giả, bởi vì nhiều năm làm việc ở cấp cao đã giúp ông biết được hàng thật đã bị làm thịt. Nắm được thông tin then chốt này, Darius ngay lập tức dẫn “Bảy người bạn” quả quyết quay về Susa. Với sự phối hợp của một số người trong nội bộ cung đình, bảy người đã xông vào cung, giết chết Gaumata và đồng bọn ngay tại chỗ. "Cha đẻ của môn sử học" phương Tây Herodotus khi mô tả đoạn này đã không tiếc lời tô vẽ, Darius trong ngòi bút của ông là người có dũng có mưu, tràn đầy phẩm chất lãnh đạo, gay cấn như tiểu thuyết võ hiệp. Điều này đã tích lũy cho ông uy tín quan trọng để cuối cùng nổi bật lên và leo lên ngôi vị cao nhất.

“Bảy người bạn” sau khi chính biến thành công tự nhiên nắm giữ quyền lực tối cao của đế quốc. Tiếp theo, về vấn đề ai sẽ trở thành lãnh đạo tối cao của đế quốc, vài người quyết định để ý trời định đoạt.

Phương pháp cụ thể là: Họ hẹn nhau vào một buổi sáng, mỗi người cưỡi ngựa đến một địa điểm được chỉ định, sau đó tập trung những con ngựa đứng cạnh nhau, còn người đứng bên cạnh. Chờ xem ngựa của ai hí lên đầu tiên, thì chủ nhân của con ngựa đó là người được trời ban ơn, và người đó sẽ lên ngôi lãnh đạo tối cao.

Darius đã dùng một chút thủ đoạn và là người cười cuối cùng.

Ý tưởng này do một người chăn ngựa của Darius nghĩ ra. Người chăn ngựa này đã dẫn con ngựa đực của Darius đến địa điểm được chỉ định vào đêm hôm trước, đồng thời còn dẫn theo một con ngựa cái đang động đực. Đến nơi, người chăn ngựa để con ngựa cái line tục quyến rũ con ngựa đực. Sau đó, người chăn ngựa đưa cả hai con ngựa về. Sáng hôm sau, Darius cưỡi con ngựa đực đến địa điểm. Họ xếp ngựa thành một hàng và đứng chờ bên cạnh. Đúng lúc này, người chăn ngựa của Darius dẫn con ngựa cái hôm qua “tình cờ” đi qua. Con ngựa đực của Darius vừa ngửi thấy mùi của con ngựa cái ngày hôm trước, liền hí lên liên tục. Nhờ vậy, Darius giành chiến thắng và lên ngôi vua.

Năm 521 TCN, Darius chính thức trở thành lãnh đạo thế hệ thứ ba của Đế quốc Ba Tư, sử gọi là Darius I.

Tuy nhiên sách sử là do con người viết ra, vì vậy có một thuyết âm mưu là Smerdis vẫn còn sống, không hề có tình tiết Cambyses nằm mơ và bí mật xử tử Smerdis. Sau khi Cambyses chết bất ngờ, Smerdis nghiễm nhiên trở thành người thống trị tối cao của đế quốc. Nhưng “Bảy người bạn” do Darius cầm đầu đã lợi dụng lúc loạn lạc xông vào cung, phát động chính biến, giết chết Smerdis, sau đó bịa đặt câu chuyện Smerdis đã bị xử tử, người bị giết là kẻ giả mạo. Sau đó, Darius đường hoàng lên ngôi Vua Ba Tư. Nói cách khác, Darius chính là kẻ cướp ngôi.

Dù thế nào đi nữa, Darius cuối cùng đã thành công ngồi lên vị trí lãnh đạo tối cao của Đế quốc Ba Tư. Sau đó, ông bắt đầu cuộc cải cách Darius nổi tiếng. Là lãnh đạo thế hệ thứ ba của Đế quốc Ba Tư, và là vị quân chủ có nhiều thành tựu nhất của Vương triều Achaemenid, thời kỳ đỉnh cao của Ba Tư sắp đến.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
1764720236956.png


Sau khi Darius lên ngôi, ông đưa mắt nhìn một lượt, tình hình cả nước tồi tệ đến mức không thể tồi tệ hơn.

Nội bộ triều đình dưới sự tàn phá của nhiều năm chính sách tàn bạo đã trở nên hỗn loạn, hiệu suất thấp kém, quan lại lòng người ly tán, ai nấy đều chỉ lo giữ mình; các Tổng đốc địa phương nhân cơ hội cát cứ, không nghe chỉ huy từ trung ương; những vùng đất bị chinh phục trước đó nhân cơ hội làm loạn, khói lửa chiến tranh nổi lên bốn phía; đời sống xã hội bị vò xé, bách tính khổ không thể tả. Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Đế quốc Ba Tư biến thành một mớ hỗn độn thù trong giặc ngoài, mà tất cả những điều này chỉ cách thời điểm Cyrus Đại đế qua đời có 7 năm.

Tuy nhiên, nếu không có đống đổ nát này thì cũng không thể hiện được trình độ trị quốc kiệt xuất của Darius.

Sau khi phân tích kỹ lưỡng tình hình trong và ngoài nước, Darius bắt đầu thực hiện một loạt các biện pháp quan trọng.

1️⃣
Bước thứ nhất: Lấy vợ.

Ông cưới phụ nữ thuộc gia tộc Cyrus, mà lại cưới một lúc 6 người.

Gia tộc của Darius tuy hiển hách, nhưng dù sao cũng chỉ là chi thứ của gia tộc Achaemenid (A-khai-mê-nít), cách chi chính của Cyrus một khoảng khá xa. Trong một quốc gia chiếm hữu nô lệ coi trọng huyết thống, bố bạn là ai quan trọng hơn nhiều so với việc bạn là ai. Những lão thần huân quý và hoàng thân quốc thích trên triều đều là những người cùng Cyrus nếm mật nằm gai đi lên, trong lòng họ chỉ phục Cyrus, anh là một kẻ ngoại đạo đột nhiên leo lên ngôi báu, đám kiêu binh hãn tướng đương nhiên sẽ tìm mọi cách để thách thức tính chính danh quyền lực của anh. Nói theo ngôn ngữ bình dân dễ hiểu là: "Mày là cái thá gì?"

Hiểu rõ mấu chốt này, rồi nhìn lại mục đích chính trị của việc Darius chọn kết hôn vào lúc này sẽ thấy rất rõ ràng: Những người ông cưới toàn bộ là huyết thống trực hệ của Cyrus, bao gồm con gái, cháu gái, em gái của Cyrus. Như vậy, ông từ một người ngoài biến thành người nhà của Hoàng đế khai quốc. Lần này các người không thể nói ta là người ngoài nữa nhé? Hơn nữa cưới một lúc 6 người, cũng đồng nghĩa với việc có thêm mấy tầng bảo hiểm: Ngộ nhỡ bà trước ngỏm thì còn bà sau thế vào. Không làm con rể thì làm cháu rể hoặc em rể đều được, tóm lại đám các người đừng hòng lôi chuyện xuất thân ra để chỉ trích tôi nữa. Đồng thời, việc mía ngọt đánh cả cụm còn ngăn chặn những người đàn ông khác cưới được những người phụ nữ cao quý này rồi trở thành đối thủ cạnh tranh tiềm năng của Darius. Chỉ bằng việc kết hôn đơn giản như vậy, tính an toàn và tính hợp pháp cho quyền lực của Darius đã được tăng cường đáng kể.

Tính khôn vãi!

2️⃣
Bước thứ hai: Bình định phản loạn.

Sau khi giải quyết được những nghi ngờ từ tầng lớp cao cấp trong nội bộ đế quốc, Darius cuối cùng cũng có thể rảnh tay để trấn áp phản loạn. Cầm quân đánh trận là công việc đúng chuyên môn của Darius, kinh nghiệm chỉ huy Đội quân bất tử đã phát huy tác dụng to lớn trong quá trình bình định phản loạn này. Darius nhanh chóng xây dựng được một đội quân có sức chiến đấu cực mạnh. Mặc dù cả đất nước đã bị tổn thương nguyên khí, nhưng uy quyền của trung ương Đế quốc Ba Tư dẫu sao vẫn còn, đội quân này đại diện cho chính quyền trấn áp mạnh mẽ, cũng là sự cổ vũ tích cực cho sĩ khí, do đó Darius nhanh chóng chiếm được thế chủ động trên chiến trường. Nhìn lại phía đối phương, thế lực cát cứ của các quân phiệt địa phương dù mạnh đến đâu cũng không thể chống lại bộ máy trung ương đế quốc khổng lồ, còn các cuộc khởi nghĩa ở những vùng bị chinh phục đa phần là thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào, bản thân chưa có sự chuẩn bị đầy đủ, tình trạng đục nước béo cò chiếm đa số, quyết tâm sống mái với trung ương không cao, nên rất dễ bị đánh bại từng bộ phận.

Vì vậy, sau vài năm Darius liên tục xuất binh trấn áp, ngọn lửa phản loạn khắp nơi trên lãnh thổ Ba Tư đều bị mạnh mẽ dập tắt. Lịch sử ghi lại trong quá trình này, Darius đã đạt được thành tích huy hoàng: 19 trận thắng liên tiếp, bắt sống 9 thủ lĩnh quân phản loạn.

Để kỷ niệm kỷ lục ngầu lòi này, Darius đã ra lệnh cho người ta khắc lại đoạn lịch sử huy hoàng từ lúc tiêu diệt Gaumata (hay là chính Smerdis?) đến khi bình định phản loạn lên một vách núi cạnh ngôi làng có tên là Behistun. Đó chính là tấm bia nổi tiếng: Bia ký Behistun (ảnh).

Về nội dung, "Bia ký Behistun" là một bài văn khoe khoang chán ngắt. Darius không chỉ viết về việc giành được 19 trận thắng liên tiếp như thế nào, mà còn cho khắc họa hình ảnh của các thủ lĩnh phản loạn bị bắt giữ. Trong hình, 9 tên trùm phản loạn bị trói quặt tay, đứng thành một hàng bị giải đến trước ngai vàng của Darius để nhận sự trừng phạt của nhà vua. Darius nhìn xuống những kẻ thất bại này với vẻ đắc ý mãn nguyện. Kiểu tự lăng xê "có hình có chữ" thế này vào thời đại đó tuyệt đối thuộc về sự đổi mới trọng đại trong công tác tuyên truyền, đủ thấy Darius đã tốn bao nhiêu tâm tư cho việc đánh bóng tên tuổi. Hơn nữa, để vượt mặt Cyrus, Darius đã tự phong cho mình một danh hiệu kêu như chuông trong bia ký: Vua của các vị Vua (King of Kings). Rõ ràng là nhằm vào danh hiệu "Vua của Vũ trụ" của Cyrus. Mặc dù nhìn tổng thể, Darius quả thực công lao trác tuyệt, nhưng việc tự phong cho mình cái danh hiệu như thế khi còn sống dường như cũng không được hay cho lắm.

Tuy nhiên, những điều này không quan trọng, bởi vì giá trị quan trọng nhất của "Bia ký Behistun" không nằm ở nội dung mà nằm ở ý nghĩa khảo cổ. Bài văn bia này được viết bằng ba loại chữ viết: tiếng Ba Tư cổ, tiếng Elamite cổ và tiếng Babylon cổ. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với công tác khảo cổ học ngày nay. Chữ hình nêm là loại văn tự lưu thông chính ở vùng Lưỡng Hà thời bấy giờ, bắt nguồn sớm nhất từ chính quyền do người Sumer thiết lập, trải qua nhiều năm tiến hóa, xuất hiện rất nhiều biến thể thuộc các thời kỳ và bộ lạc khác nhau. Nghĩa là, tuy các biến thể này đều thuộc chữ hình nêm, nhưng sự khác biệt giữa chúng là rất lớn, người ta không thể thông qua việc giải mã chữ viết của một thời kỳ để đọc hiểu toàn bộ tư liệu lịch sử vùng Lưỡng Hà. Nhưng đến năm 1835, một sĩ quan người Anh 25 tuổi tên là Rawlinson, khi tham quan làng Behistun đã phát hiện ra quy luật đối chiếu của ba loại văn tự trong bài văn này. May mắn thay, tiếng Ba Tư cổ trong đó là loại mà các học giả thời bấy giờ có thể giải mã được. Rawlinson đã nắm lấy manh mối này, qua 20 năm nghiên cứu ngược, ông đã giải mã được tiếng Elamite cổ và tiếng Babylon cổ trên "Bia ký Behistun", sau đó lần theo dấu vết, cuối cùng giải mã thành công nguồn gốc của chữ hình nêm, cũng là chữ viết của nền văn minh sớm nhất mà nhân loại phát hiện được cho đến nay: văn minh Sumer. Đến đây, diện mạo ban đầu của vùng Lưỡng Hà cách đây 7.000 năm, cũng như quá trình phát triển, diễn tiến và những gì nó đã trải qua, tất cả đều được phơi bày trước mắt chúng ta. Vì vậy, bất kể nội dung của "Bia ký Behistun" có nhàm chán đến đâu, giá trị khảo cổ mà những dòng chữ này để lại cho toàn nhân loại vẫn là không thể đo đếm được. Nhìn khắp lịch sử phương Tây, chỉ có báu vật của Bảo tàng Anh ở London mới có thể so sánh được: Phiến đá Rosetta (cũng được viết bằng 3 loại chữ là chữ Ai Cập và hai loại chữ Hy Lạp cổ đại)

Thật là công đức vô lượng!

3️⃣
Bước thứ ba: Cải cách triều đình.

Sau khi bình định nội loạn, Darius lập tức bắt tay vào thực hiện hàng loạt biện pháp cải cách, cuối cùng đưa quốc lực của Đế quốc Ba Tư lên đến đỉnh cao lịch sử. Đây chính là cuộc Cải cách cung đình Darius lừng danh.

Nội dung cải cách của Darius nói ra cũng không phức tạp, đó là tăng cường tập quyền trung ương.

Thứ nhất, ông chia Đế quốc Ba Tư thành 20 tỉnh dựa trên mức độ phồn vinh, yếu tố lịch sử, thành phần dân tộc... và quy định tổng mức thuế mà mỗi tỉnh phải nộp cho trung ương hàng năm. Như vậy, cả đất nước không còn là trạng thái lỏng lẻo của liên minh các bộ lạc bị chinh phục nữa, mà là một cấu trúc quản trị lấy trung ương làm hạt nhân, từ trên xuống dưới. Mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa phương được thiết lập, có công cụ quản lý rồi thì lực ly tâm sẽ bị triệt tiêu.

Thứ hai, đã phân chia các tỉnh thì nhân sự đứng đầu hành chính của mỗi tỉnh phải do trung ương bổ nhiệm. Biện pháp này bây giờ nhìn thì rất bình thường, nhưng vào thời đó có thể nói là một bước đi mang tính đột phá. Bởi vì khi đó bất kể ai chinh phục được một vùng đất, việc cai trị địa phương vẫn phải dựa vào các quý tộc hào cường bản địa. Chính sách của Darius có nghĩa trung ương có thể phái quan lại trực tiếp cai trị, cũng có thể bổ nhiệm hào cường địa phương cai trị, nhưng phải được trung ương gật đầu. Điều này làm suy yếu quyền phát ngôn của thế lực địa phương, quyền uy và thế mạnh của trung ương từ đó được củng cố.

Thứ ba, tách biệt quân sự và chính trị. Darius quy định, mọi quyền lực của quân đội địa phương đều đến từ triều đình Ba Tư, nghĩa là trung ương Ba Tư nắm quyền quân sự trong tay mình. Trong những năm Darius bình định phản loạn, thế lực cát cứ địa phương bành trướng. Giờ đây Darius quy định, quan chức hành chính có thể do hào cường địa phương đảm nhiệm, thậm chí còn được thế tập, nhưng quyền quân sự thì các người không được đụng vào. Người đứng đầu quân sự phải do nhân sự được trung ương chỉ định đảm nhiệm, được trung ương chính thức bổ nhiệm mới được làm việc. Chiêu này về cơ bản đã đoạn tuyệt khả năng địa phương ôm quân cát cứ, huyết mạch an toàn của đế quốc được triều đình Ba Tư nắm chắc, mối đe dọa phản loạn ở địa phương nhờ đó giảm đi đáng kể.

Thứ tư, giải quyết xong quân sự, tiếp theo là kinh tế. Darius phát hành một bộ tiền tệ hoàn toàn mới, quy định các kiểu tiền tệ linh tinh phèng dùng trước đây trên toàn lãnh thổ Ba Tư đều bị hủy bỏ, từ nay việc lưu thông hàng hóa của đế quốc toàn bộ sử dụng bộ tiền tệ tiêu chuẩn; đồng thời, do tình trạng lỏng lẻo trước kia, đơn vị đo lường trong đời sống hàng ngày của các bộ lạc không giống nhau, Darius phất tay một cái, chỉ thị triều đình Ba Tư ban hành một hệ thống đo lường thống nhất trên toàn quốc, sau này những đơn vị đo lường linh tinh của địa phương các người đều bị hủy bỏ. Ý nghĩa của việc thống nhất đo lường không chỉ nằm ở việc nâng cao hiệu quả vận hành các công việc của đế quốc, mà còn thông qua tiêu chuẩn thống nhất để phá vỡ các rào cản thương mại giữa các bộ lạc và thuộc quốc trước kia. Mọi người dùng cùng một loại tiền, giao dịch và nộp thuế theo cùng một bộ tiêu chuẩn, đây chẳng phải là thiết lập thị trường thống nhất toàn quốc sao? Điều này chắc chắn có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với kinh tế thương mại. Vùng Lưỡng Hà vốn dĩ là nơi coi trọng buôn bán, giỏi về kinh doanh, những biện pháp cải cách tài chính thuế vụ này của triều đình Ba Tư chắc chắn là liều thuốc trợ tim cho thương mại dân gian, kinh tế Ba Tư nhanh chóng phục hồi từ đống đổ nát chiến tranh, tài chính đế quốc ngày càng sung túc.

4️⃣
Bước thứ tư: Xây dựng đất nước.

Có tiền rồi, Darius phát động một phong trào xây dựng trong nước, trong đó bao gồm việc xây dựng kinh đô mới Persepolis. Thành phố này trải qua 60 năm xây dựng mới hoàn thành, sau này trở thành một trong bốn thủ đô lớn của Đế quốc Ba Tư. Từ những phát hiện khảo cổ hiện nay có thể thấy, kinh đô này cực kỳ hùng vĩ tráng lệ, có thể tưởng tượng được khí thế năm xưa, nơi này cũng đã được liệt vào di sản văn hóa thế giới.

Nhưng điều đáng quan tâm nhất không phải là kinh đô, mà là một loại cơ sở hạ tầng trọng yếu: đường cao tốc.

Đế quốc Ba Tư lúc bấy giờ đã trở nên vô cùng rộng lớn, văn kiện và thông tin từ địa phương mỗi ngày đều cần được gửi đến hoàng cung của Darius trong thời gian sớm nhất, tầm quan trọng của giao thông ngày càng hiện rõ. Trên nền tảng con đường Khorasan đã có trước đó của Ba Tư, Darius tu sửa đường sá, mở rộng thành phố Sardis, nơi này nhờ đó cũng trở thành tiền đồn giao lưu giữa Đế quốc Ba Tư và văn minh Hy Lạp tại khu vực châu Á. Darius không ngừng hoàn thiện mạng lưới đường bộ, kết nối mạng lưới đường chất lượng cao đến các thành phố chủ chốt của đế quốc, trong đó 5 thành phố lớn của Ba Tư (Persepolis, Susa, Ecbatana, Babylon, Sardis - lưu ý là trong 5 thành phố lớn thì có 3 thành phố là thủ đô, còn một thủ đô là cố đô tương đối nhỏ và cổ kính nên không lọt top 5 thành phố này. Do 34 thời đó quá rộng lớn, các thủ đô được xây dựng ở các vùng khí hậu khác nhau, mùa hè nóng chuyển đến một thủ đô, mùa đông lạnh chuyển đến một thủ đô, lúc tế lễ lại làm ở một thủ đô khác) đều có mạng lưới đường bộ kết nối. Hiệu suất giao thông nội bộ đế quốc được nâng cao đáng kể, và sự nâng cao này không chỉ thể hiện ở lĩnh vực kinh tế, mà còn ở lĩnh vực chính trị. Nhờ sự kết nối hiệu quả của mạng lưới đường bộ, sự giao lưu và liên hệ giữa các thành phố vốn lỏng lẻo trở nên thường xuyên và chặt chẽ, lực ngưng tụ và cảm giác đồng nhất của cả đế quốc nhờ đó được nâng cao, nền tảng cai trị của đế quốc được củng cố và tăng cường.

Người La Mã sau này đã lĩnh hội sâu sắc sự tinh diệu trong cách làm này của người Ba Tư. Trong khi bản đồ Đế quốc La Mã ngày càng mở rộng, người La Mã đã trải đường, cầu, hầm đến các thành phố lớn nhỏ và thôn quê của đế quốc. Những mạng lưới giao thông này xuyên suốt cơ thể đế quốc, giống như mạch máu giúp thu thập và phân tán tài nguyên, thông tin của đế quốc một cách hiệu quả. Sự giao lưu và liên hệ trong nội bộ Đế quốc La Mã trở nên mật thiết không thể tách rời, Đế quốc La Mã như được đả thông hai mạch Nhâm Đốc, càng ngày càng mạnh. Thế nên mới có câu nói "Mọi con đường đều dẫn đến Rome", mà Darius chính là người vỡ lòng cho họ.

5️⃣
Bước thứ năm: Mở rộng ra bên ngoài.

Dưới tác động của hàng loạt chính sách tích cực, Ba Tư nhanh chóng hồi máu, quốc lực được phục hồi, lại bắt đầu mở rộng ra bên ngoài. Lần này, quân đội Ba Tư tiến thẳng về phía đông, xuyên qua đèo Khyber đến tận Ấn Độ, lưu vực sông Ấn bị Ba Tư chinh phục, bản đồ đế quốc mở rộng từ Trung Á sang Nam Á. Về phía tây, bằng các thủ đoạn răn đe kết hợp chinh phục, ông không chỉ chinh phục các thành bang Hy Lạp ở khu vực Tiểu Á phía đông biển Aegean, mà còn từng tiến vào khu vực Macedonia, Thessaly ở phía bắc Hy Lạp, bản đồ mở rộng đến khu vực châu Âu. Đến đây, đế quốc tầm thế giới đầu tiên chính thức định hình, lãnh thổ không chỉ trải dài qua ba châu lục Á - Phi - Âu mà còn bao trùm 4 trong số 5 nền văn minh chủ yếu của nhân loại thời bấy giờ (Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ, Hy Lạp), là đế quốc đầu tiên trong lịch sử nhân loại hoàn thành sự nghiệp vĩ đại này.

Thành tựu của Darius có nhiều nét rất giống với Tần Thủy Hoàng. Cả hai đều dùng vũ lực chinh phục xung quanh, đều thực hiện thống nhất đất nước, thống nhất đo lường, tăng cường tập quyền trung ương, củng cố sự vận hành quyền lực của đế quốc về mặt tổng thể. Mà cuộc cải cách của Darius sớm hơn Tần Thủy Hoàng gần 200 năm (nhân tiện, khi nào dòng thời gian bên này chạy đến năm 230 TCN, Tàn Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, mình sẽ mở tiếp series lịch sử Trung Quốc, cho hai bên chạy song song, mời các bạn đón xem).

Mặc dù cách xa ngàn dặm, lại cách nhau cả trăm năm, sự lựa chọn của Darius và Tần Thủy Hoàng thật sự giống nhau đến kinh ngạc, nhiều người cảm thán về sự trùng hợp của lịch sử. Tuy nhiên, đây chính là sự lựa chọn tất yếu của sự phát triển quốc gia thuộc nền văn minh nông nghiệp lục địa.

6️⃣
Định vị Quốc giáo.

Trong nhiệm kỳ của mình, Darius đã xác định địa vị chí tôn của Hỏa giáo (Zoroastrianism) bằng hình thức Quốc giáo của Ba Tư.

Hỏa giáo, tục gọi là Bái Hỏa giáo. Tôn giáo này chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử tôn giáo thế giới. Trước hết vì nó là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở Tây Á thời bấy giờ, và cũng là nguồn gốc của Mani giáo mà các dân tộc Tây Á sau này tin theo (Mani giáo chính là Minh giáo trong "Ỷ Thiên Đồ Long Ký" của Kim Dung). Thứ hai, nó là một trong số ít tôn giáo trên thế giới lúc đó sùng bái chỉ một vị thần, điều này tạo nên sự tương phản lớn với tư tưởng đa thần của Ai Cập, Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc và các nền văn minh Lưỡng Hà khác. Sự sùng bái một thần và thuyết nhị nguyên đối lập mà Cơ đốc giáo trỗi dậy ở Trung Đông sau này đều chịu ảnh hưởng của Hỏa giáo. Có thể nói trước Cơ đốc giáo, Hỏa giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất thế giới.

Người sáng lập Bái Hỏa giáo tên là Zarathustra, những năm đầu đời đã có giao tình sâu sắc với Darius, Darius vô cùng kính phục ông. Tuy nhiên, sự sùng kính của Darius đối với ông không phải là nguyên nhân dẫn đến việc đưa Bái Hỏa giáo lên làm quốc giáo Ba Tư, mà là vì những triết lý được giáo nghĩa của Bái Hỏa giáo cổ vũ rất phù hợp với nhu cầu thực tế của Ba Tư.

Ba Tư là dân tộc sùng bái nông nghiệp, Đế quốc Ba Tư là quốc gia lục địa lấy nông nghiệp và định cư làm cơ sở kinh tế xã hội, có sự khác biệt về bản chất so với các quốc gia thành lập từ các bộ lạc du mục khác xung quanh. Trước khi có Bái Hỏa giáo, chủ thần của người Ba Tư là Ahura Mazda (vâng, có thể bạn đã biết, đây chính là nguồn gốc hãng xe Mazda của Nhật) đã là vị thần tượng trưng cho mặt trời và mùa màng bội thu. Mà Bái Hỏa giáo chính là tôn giáo sùng bái nông nghiệp. Điều này có lợi ích to lớn đối với việc dẫn dắt và vận hành quốc sách của Đế quốc Ba Tư. Vì vậy, Ba Tư và Bái Hỏa giáo quả thực là cặp đôi hoàn hảo.

Từ đây có thể thấy sự khác biệt trong cách hiểu về tôn giáo giữa Darius và Cyrus. Cyrus e ngại tôn giáo, cho rằng tôn giáo cần được tôn trọng vì sức phá hoại tiềm tàng của tôn giáo rất mạnh, làm không khéo sẽ nguy hại đến sự ổn định của cai trị, sự khoan dung của ông đối với tôn giáo là hy vọng giảm thiểu tối đa những rắc rối không cần thiết. Còn Darius thì tiến thêm một bước, ông nhìn ra mặt tích cực của tôn giáo, có thể vận dụng tôn giáo để đoàn kết và dẫn dắt người dân, tiến về hướng mà quốc gia mong muốn. Tôn giáo trong tay Darius là một công cụ vừa tay. Mặc dù vẫn ứng phó cẩn thận, tôn trọng sự khác biệt của các tôn giáo, nhưng so với Cyrus, cách hiểu và sử dụng tôn giáo của Darius rõ ràng cao hơn một bậc.

Như vậy, trải qua nhiều năm vất vả gây dựng, Darius cuối cùng đã đưa Đế quốc Ba Tư từ tình cảnh nguy hiểm bên bờ sụp đổ thời Cambyses trở về an toàn. Đế quốc dưới sự cai trị của ông một lần nữa khôi phục vinh quang thời đại Cyrus, quốc lực đạt đến đỉnh cao, Darius nhờ đó trở thành một bậc hùng chủ sau Cyrus, sử sách cũng đánh giá cao và dành nhiều lời khen ngợi cho ông.

Nếu câu chuyện dừng lại ở đây, ví dụ như Darius độ kiếp phi thăng, thì thành tích cầm quyền của ông và hình tượng ông để lại cho lịch sử, có thể gọi là hoàn hảo.

Nhưng mà không.

Quyền lực là thứ kiểm nghiệm nhân tính tốt nhất, bởi vì quyền lực tuyệt đối chính là sa đọa tuyệt đối (Hạng Thiếu Long).

Darius đã không trụ vững.

Thành công chưa từng có, vô số hoa tươi và tiếng vỗ tay, bản đồ đế quốc ngày một lớn, cảm giác thành tựu và thỏa mãn này khiến Darius coi trời bằng vung: Thiên hạ không có gì Darius ta không làm được, không lấy được, nếu có, thì chỉ là ta chưa nghĩ tới, chưa nhìn thấy mà thôi.

Quyền lực, của cải, địa vị, vinh quang, hoa tươi, tiếng vỗ tay... tất cả những thứ này, ta không những phải sở hữu, mà ta muốn nhiều hơn, ta muốn tất cả.

Thiên hạ là của ta, đây mới là sứ mệnh của ta với tư cách "Vua của các Vua", sứ mệnh duy nhất!

Khi ông biết được bên kia biển Aegean có một nơi gọi là Hy Lạp, ở đó vẫn có người chưa biết tên Darius ta, vẫn còn nhiều nơi chưa phải là lãnh thổ của Đế quốc Ba Tư?

Phải chinh phục!

Thế là, cuộc đại chiến quyết định vận mệnh của hai đế quốc sắp bắt đầu, đó chính là hai cuộc Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lừng danh. Đối với Hy Lạp, đây là cuộc chiến trỗi dậy, văn minh Hy Lạp nhờ cuộc chiến này mà thăng hoa, Hy Lạp cổ đại cũng nhờ hai cuộc chiến này mà bước vào thời đại hoàng kim. Còn đối với Ba Tư, đây là hành động mở ra chiếc hộp Pandora, sau chiến tranh, Đế quốc Ba Tư bắt đầu trượt dốc từ đỉnh cao, vận nước bắt đầu điêu tàn.

Khai vị đã xong, tiếp theo sẽ sang món chính: Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư.
 

Isu_zu

Xe lăn
Biển số
OF-12249
Ngày cấp bằng
24/12/07
Số km
10,344
Động cơ
590,033 Mã lực
Làm gì mà ám ảnh thế, thế giới đâu chỉ có Hy - La và Hoa Hạ. Vó ngựa Mông Cổ từng tung hoành Á Âu, rốt cuộc để lại được gì. Văn minh Trung Hoa cũng chỉ ảnh hưởng đến góc mấy quốc gia Đông Á, thế thôi. Còn đa thê, vẫn đang duy trì ở nhiều quốc gia chả có tí liên quan Tàu khựa.
Chính xác là như cụ nói. Ngạn ngữ có câu: Tái ông thất mã!
 

Kiên Khùng

Xe container
Biển số
OF-785718
Ngày cấp bằng
27/7/21
Số km
6,743
Động cơ
721,993 Mã lực
Làm gì mà ám ảnh thế, thế giới đâu chỉ có Hy - La và Hoa Hạ. Vó ngựa Mông Cổ từng tung hoành Á Âu, rốt cuộc để lại được gì. Văn minh Trung Hoa cũng chỉ ảnh hưởng đến góc mấy quốc gia Đông Á, thế thôi. Còn đa thê, vẫn đang duy trì ở nhiều quốc gia chả có tí liên quan Tàu khựa.
Đến cuối TK19 cũng có mấy mẫu Hy La ở VN đâu.
Chỉ là 1 phần của văn minh phương Tây.
Ưng ý với còm của mợ!
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
477
Động cơ
33,199 Mã lực
Giáo sư Kiên Khùng có ý kiến chỉ đạo gì về tên đầu sỏ Hy Lạp không?
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
589310299_122115593955029493_1986502208281603488_n.jpg


Khi Darius đắc ý đứng trong hoàng cung Susa, nhìn tấm bản đồ mà quần thần dâng lên, tưởng tượng đến biển Aegean xanh thẳm cùng những thành bang Hy Lạp lấp lánh như những viên ngọc trai, trong lòng ông quả thực ngứa ngáy không yên.

Dục vọng chinh phục Hy Lạp từ khi nhen nhóm trong lòng ông chưa bao giờ tắt. So với cương vực đế quốc rộng lớn và dân số khổng lồ hiện tại của ông, Hy Lạp chỉ là một mảnh đất bé tẹo, Darius chưa bao giờ nghĩ đến chuyện thất bại.

Tất cả những thứ này chắc chắn phải thuộc về ta!

Thậm chí chẳng cần dùng đến vũ lực, chỉ cần uy hiếp là giải quyết được vấn đề.

Sự uy hiếp này gọi là: Đất và Nước.

Trong hệ thống thần thoại của người Ba Tư, vị đại thần sáng tạo ra con người tên là Ahura Mazda, tương đương với Zeus của Hy Lạp. Truyền thuyết kể rằng ngài dùng đất và nước làm nguyên liệu, nặn ra con người đầu tiên giống như nặn đất sét, sau đó vùng Lưỡng Hà mới có sự sống và văn minh. Vì vậy, trong tâm trí người Ba Tư, nước và đất tượng trưng cho tất cả những gì thuộc về con người. Nếu bạn dâng hai thứ này cho người khác thì cũng đồng nghĩa là thần phục và chấp nhận làm nô lệ. Người Ba Tư yêu cầu các thành bang ven biển Aegean giao nộp đất và nước, chính là muốn họ thần phục Ba Tư, phải nghe Ba Tư sai khiến.

Darius phái các sứ giả đi đến các khu vực lớn ở bờ tây biển Aegean, bảo với họ rằng ở phương Đông có một vị "Vua của các Vua", tài năng thao lược của ngài là "tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả", ân đức của ngài như nắng mưa soi rọi vạn dân, uy danh của ngài đáng được tất cả mọi người tôn kính, bao gồm cả đám nhà quê đến từ những nơi nhỏ bé như các người. Lũ hai lúa các người chỉ có thần phục Darius vĩ đại thì mới có được sự phồn vinh.

Hầu như tất cả các thành bang đều ngoan ngoãn dâng lên đất và nước, sự việc tiến triển thuận lợi y như dự tính của Darius.

Tuy nhiên, chỉ là "hầu như".

Nếu không có Athens và Sparta, thì lịch sử của Darius đã hoàn mỹ rồi.

Athens và Sparta cùng lúc từ chối Darius vĩ đại, hơn nữa cách thức từ chối lại thể hiện vô cùng rõ nét khí chất của hai thằng này.

Sparta là điển hình của dân xã hội đen. Mấy gã đàn ông thô lỗ này hỏi lại: "Mày muốn đất và nước chứ gì? Không thành vấn đề". Họ dẫn sứ giả Ba Tư đến bên cạnh một cái giếng nước, rồi buông một câu: "Đất và nước mày muốn ở hết dưới đó đấy, tự xuống mà lấy."

Nói xong, giơ chân đạp thẳng gã Ba Tư xuống giếng, không nói thêm một câu. Nhanh gọn, sảng khoái! (Đây là một cảnh kinh điển trong phim 300, hẳn các bạn đều còn nhớ)

Còn Athens đích thị là dân văn vở, con tằm nó ăn lá dâu, nó nhả ra tơ. Sau khi sứ giả Ba Tư trình bày mục đích, vị tướng quân của Athens trước tiên trả lời bằng một tràng ngôn ngữ ngoại giao, bày tỏ sự phản đối kịch liệt đối với Ba Tư. Tiếp đó bắt đầu công tác giáo dục tư tưởng dài dòng văn tự cho sứ giả Ba Tư, từ quy luật vũ trụ nói đến tình hình quốc tế, từ luân thường đạo lý xã hội nói đến quan hệ vợ chồng, chứng minh sự hoang đường và nguy hại trong yêu cầu đòi đất và nước của Ba Tư. Tiếp theo, để giúp đám người Ba Tư này nhận thức được tội ác của mình từ sâu trong linh hồn, Athens triệu tập Đại hội công dân, thông báo bộ mặt xấu xa của người Ba Tư cho toàn thể nhân dân. Nhân dân Athens xôn xao phẫn nộ, nhất trí yêu cầu xét xử đám vô lễ này. Để thuận theo ý nguyện nhân dân, Athens mở tòa án, thành lập bồi thẩm đoàn, quy trình xét xử không thiếu bước nào, mỗi khâu đều làm rất kỹ lưỡng, hành hạ mấy gã Ba Tư tội nghiệp lên bờ xuống ruộng. Kết luận cuối cùng: Có tội, tử hình, thi hành ngay lập tức. Đợi đi hết cái quy trình này xong, họ mới giải đám sứ giả đến vách núi, giơ chân đạp xuống.

Cuối cùng cũng vẫn là một cú đạp, nhưng quy trình của Athens nó pờ rồ, hàn lâm, pháp trị và thâm thúy hơn hẳn đám cục súc bên kia.

Nhưng bất kể phong cách làm việc khác nhau thế nào, rõ ràng là cả Athens và Sparta đều đếch quan tâm đến Darius.

Bọn ranh con này một lần nữa lại làm tổn thương lòng tự trọng của Darius!

Khoan đã, sao lại là "một lần nữa"?

Bởi vì mấy năm trước, bọn này đã làm tổn thương Darius một lần rồi.

Chuyện này kể ra thì dài dòng.

Khi bản đồ Đế quốc Ba Tư ngày càng mở rộng, vòi bạch tuộc của đế quốc đã vươn từ vùng Lưỡng Hà nội địa ra đến vùng duyên hải, khu vực này gọi là Ionia. Mọi người xem ảnh sẽ thấy, vị trí của khu vực này vô cùng vi diệu.

Ionia về mặt địa lý thuộc châu Á, nhưng ở vùng rìa của văn minh Lưỡng Hà, khoảng cách đến trung tâm văn minh Lưỡng Hà tương đối xa. Ngược lại, vì mảnh đất này là phần gần châu Âu nhất của vùng Tiểu Á, nên lại có quan hệ mật thiết với vùng văn hóa Hy Lạp ở bên kia biển. Trong thời kỳ đầu của văn minh Hy Lạp, nơi này đã có quan hệ mật thiết với phía Hy Lạp thông qua thương mại, thậm chí ngay cả những chuyện như chiến tranh hay cãi vã cũng liên quan mật thiết đến Hy Lạp, ví dụ như trận chiến thành Troy. Cùng với làn sóng thuộc địa hóa hải ngoại lần thứ hai của Hy Lạp phát triển mạnh mẽ, người Hy Lạp dần bước ra khỏi bản thổ, tản mát đến khắp nơi ven biển Aegean để lập nên các thành bang, và khu vực Ionia là một trong những điểm đến chính. Các thành bang này đều theo kiểu Hy Lạp, rất khác với hình thái nhà nước quy mô lớn kiểu phương Đông của Ba Tư. Ngay cả cái tên Ionia của vùng đất này đã mang đậm đặc sắc phương ngữ Hy Lạp.

Nói cách khác, người Ionia về mặt địa lý thì là châu Á, nhưng về mặt tâm lý thì hướng về châu Âu.

Điều kiện địa chính trị này quyết định ba đặc điểm của khu vực Ionia:

Kinh tế phát triển. Bản thân Ionia đất đai màu mỡ, lại nằm ở giao điểm của ba nền văn minh, sự giao lưu tương tác thường xuyên tất yếu thúc đẩy thương mại và nông nghiệp phồn vinh.

Văn hóa phồn vinh. Sự va chạm của các tư tưởng tất yếu thúc đẩy văn hóa phát triển. Rất nhiều nhà tư tưởng và nhà khoa học lừng danh trong lịch sử Hy Lạp đều do mảnh đất này cống hiến, như Pythagoras, Thales, Hippocrates, Anaximander, Anaximenes và cả sử gia vĩ đại Herodotus mà chúng ta nhắc đến nhiều lần, tất cả đều đến từ vùng Ionia.

Mâu thuẫn và bất đồng rất nổi cộm. Vì nhiều nền văn minh va chạm nhau ở đây, mỗi nền văn minh để giữ vững hoặc mở rộng ảnh hưởng, tất yếu sẽ tranh giành không gian sinh tồn và quyền phát ngôn. Mối quan hệ cạnh tranh này chắc chắn sẽ nảy sinh mâu thuẫn do chèn ép lẫn nhau, khi mâu thuẫn không thể xoa dịu, đó là lúc xung đột bùng nổ.

Dưới bối cảnh sâu xa đó, một cuộc bạo loạn chống Ba Tư đã nổ ra tại một thành bang tên là Miletus, mở màn cho cuộc đại chiến giữa thế giới Hy Lạp và thế giới Ba Tư.

Miletus nằm ở vị trí trung tâm của Ionia (xem ảnh). Cùng với sự hình thành của vành đai thương mại biển Aegean, Miletus dần phát triển thành một trong 12 thành bang Hy Lạp chủ chốt của Ionia. Miletus từng rất bá, thương mại phồn vinh, kinh tế phát triển, văn hóa rực rỡ, đặc biệt triết học từng một thời dẫn dắt cả giới tư tưởng Hy Lạp. Nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại là Thales xuất thân từ đây, tư tưởng triết học "vạn vật bắt nguồn từ nước" của ông đã đưa ra khái niệm "bản nguyên" của thế giới, ảnh hưởng đến sự phát triển triết học hơn hai ngàn năm sau, cuối cùng hình thành một nhánh quan trọng của triết học là Bản thể luận. Và vào thời đó, Thales và học trò của ông đã khai sáng trường phái Miletus, lần đầu tiên thiết lập tư tưởng duy vật chất phác trong thế giới Hy Lạp, xứng đáng là ông tổ của chủ nghĩa khoa học phương Tây. Không khó để tưởng tượng, địa vị giang hồ của thành bang này lúc bấy giờ cao đến mức nào.

Tuy nhiên, cũng giống như các thành bang Ionia khác, điểm khó xử của Miletus nằm ở chỗ cách Thượng đế quá xa, mà cách Ba Tư quá gần.

Cùng với sự trỗi dậy của Ba Tư ở phía Đông, dưới yêu cầu "đất và nước" của vua Ba Tư, Miletus không tránh khỏi số phận, bị Ba Tư nuốt chửng vào bản đồ đế quốc. Nhưng mọi người đừng tưởng rằng Miletus từ đó ôm mối thâm thù đại hận, một lòng một dạ chống lại Ba Tư. Chuyện đó không có đâu, vì Miletus dù sao cũng là một thành bang thương mại, miễn là không cản trở việc làm ăn sinh sống, chỉ là thành bang đổi người cai trị mà thôi. Sự thực dụng của thương nhân quyết định rằng trong tình huống bình thường, Miletus sẽ không dễ dàng bạo loạn.

Nguyên nhân thực sự của cuộc phản loạn không phải là cái gọi là chính sách tàn bạo, mà là phản ứng dây chuyền gây ra bởi một vở kịch "cẩu huyết".

Sau khi Miletus quy thuận Ba Tư, lãnh tụ thành bang tên là Histiaeus (His-ti-ai-ớt) có quan hệ khá tốt với Darius, Darius có việc gì cơ bản cũng rủ Histiaeus chơi cùng. Có lần Darius đánh nhau với bộ lạc du mục Scythia (Xki-thia), Histiaeus lập công lớn, Darius vui vẻ thưởng ngay cho Histiaeus một mỏ bạc ở gần Miletus. Thế là Miletus càng thêm phát đạt, cuộc sống một thời vô cùng sung túc. Nhưng được một thời gian, Darius ngẫm lại thấy không ổn. Miletus vốn đã phồn vinh, lại có rừng rậm bao phủ, có thể nói điều kiện phát triển hải quân được trời ưu ái (bản thổ Ba Tư không có hải quân). Giờ lại cho hắn thu nhập từ mỏ bạc này, chẳng khác nào hổ mọc thêm cánh? Nếu hắn ra sức phát triển sức mạnh quân sự kinh tế, chẳng bao lâu nữa lông cánh cứng cáp, lỡ hắn muốn làm chuyện gì đó thì chẳng phải quá nguy hiểm sao? Darius càng nghĩ càng sợ, bèn viết cho Histiaeus một bức thư tràn đầy tình cảm, nói rất nhớ ông ta, mời ông ta đến gặp. Histiaeus không biết có chuyện gì, nhận thư xong liền hớn hở chạy đến bên lãnh đạo. Vừa đến nơi, Darius lật mặt ngay, ngoài mặt thì Darius nói rất đường hoàng: "Bên cạnh ta thiếu một tham mưu cao cấp, nghĩ đi nghĩ lại chỉ có Histiaeus ngươi là hợp nhất, ngươi xem quan hệ chúng ta tốt thế này, hay là ngươi đừng ở địa phương nữa, theo ta về trung ương đi."

Histiaeus là một con cáo già chính trị, nghe xong hiểu ngay: Đây chẳng phải là giam lỏng sao!

Nói một cách công bằng, Darius làm việc này quá không tử tế, không có bằng chứng mà nghi kỵ lung tung. Nhưng lúc này Histiaeus đã như dê vào miệng cọp, muốn chạy là không thể. Thế là Histiaeus xui xẻo bị đưa về thủ đô Susa của Đế quốc Ba Tư.

Sau khi Darius bắt giữ Histiaeus, ông giao Miletus cho Aristagoras, cháu trai kiêm con rể của Histiaeus. Vị công tử này tuy là người nhà của Histiaeus nhưng lại rất thân với người Ba Tư, đặc biệt trước mặt Darius thì vô cùng biết điều, lại rất nghe lời, nên giao Miletus cho hắn cai quản Darius rất yên tâm. Phải nói vị Aristagoras này, Darius nhìn đâu cũng thấy ưng, chỉ có một điểm, Aristagoras làm việc không dùng não. Nhưng Darius không cho rằng đây là vấn đề gì to tát, thanh niên mà, bồng bột một chút cũng bình thường.

He he.

Aristagoras tiếp quản Miletus chưa được bao lâu, một quốc đảo trên biển Aegean tên là Naxos tìm đến tận cửa.

Naxos là một hòn đảo trong biển Aegean (xem ảnh), dân số tương đối đông, có cảng tránh gió tự nhiên, vị trí địa lý nằm ở trung tâm tuyến đường thương mại trên biển của vài nền văn minh, cơ sở phát triển thương mại được trời ưu ái. Từ thời đại Crete, nơi đây đã tràn ngập không khí thương mại nồng đậm, mang lại khối tài sản khổng lồ cho thành bang. Hơn nữa Naxos nằm sâu trong biển Aegean, lợi thế địa lý giúp họ giữ vị thế siêu nhiên đứng ngoài cuộc trong quá trình trỗi dậy của Ba Tư. Thành bang không chịu ảnh hưởng của biến động cục diện bên ngoài, người Naxos luôn duy trì cuộc sống sung túc giàu có.

Nhưng không có đe dọa từ bên ngoài không có nghĩa là trời yên biển lặng.

Thương mại phồn vinh, tài sản khổng lồ của Naxos cố nhiên là lợi ích to lớn. Nhưng, ai có thể nắm quyền kiểm soát thành bang này, ai có thể hoàn toàn quyết định quyền sở hữu và hướng đi của số tài sản này, đó mới là lợi ích lớn nhất. Vì lợi ích này, nội bộ Naxos hình thành nhiều băng đảng tranh giành quyền lãnh đạo. Đã là cạnh tranh thì có kẻ thắng người thua. Kết quả phe thất bại trong cuộc đấu tranh không cam tâm, lên kế hoạch quay lại, lúc này họ hướng mắt về người hàng xóm phía Đông: Miletus.

Những người Naxos này đến Miletus tìm Aristagoras, hy vọng Miletus xuất binh giúp họ đánh bại đối thủ, đoạt lại quyền cai trị Naxos. Để đền đáp, Naxos sẽ thần phục Miletus. Aristagoras vừa nghe chuyện này trong lòng đã rục rịch: Độ giàu có của Naxos cả biển Aegean ai cũng biết, nếu nơi này thuộc về hắn, chẳng phải thực lực Miletus tăng lên đáng kể sao?

Càng nghĩ càng sướng, Aristagoras nhận lời ngay tắp lự: Cứ để đấy cho tôi.

Tiễn người Naxos đi xong, Aristagoras lập tức chạy đến thủ phủ khu vực phía Tây Đế quốc Ba Tư lúc bấy giờ là Sardis (cố đô của Lydia), gặp Tổng đốc Ba Tư tại địa phương, báo cáo chuyện này. Aristagoras hy vọng Ba Tư có thể cho mượn quân giúp hắn lấy Naxos. Hắn vỗ ngực cam kết hai việc: Chỉ cần Ba Tư xuất binh, mọi quân phí hắn sẽ chịu trách nhiệm; đồng thời, hắn còn biếu Tổng đốc một khoản tiền khổng lồ làm thù lao riêng.

Bàn tính của Aristagoras là: Chỉ cần Ba Tư xuất binh, dựa vào thực lực của Naxos thì khó mà chống đỡ nổi, chỉ cần chiếm được Naxos, tài sản trên đảo đều thuộc về ta, lấy chút ra bố thí cho quân đội Ba Tư và Tổng đốc Ba Tư cũng chỉ là muỗi.

Tổng đốc Sardis báo cáo việc xuất binh lên Darius, Darius phê chuẩn: Đồng ý. Nhận được chỉ thị tối cao, Tổng đốc Sardis lập tức trưng dụng 200 chiến thuyền, phái một viên chiến tướng xuất phát. Đáng lẽ theo kịch bản này mà diễn tiếp thì cả làng cùng vui. Nhưng, ở đây có một vấn đề tế nhị: Đội quân này rốt cuộc do ai chỉ huy?

Đứng trên lập trường của Aristagoras, đương nhiên do hắn quản, dự án này do tôi đề xuất, đương nhiên tôi là lãnh đạo. Tướng lĩnh Ba Tư lại cho rằng, quân đội Ba Tư của chúng ta sao có thể giao cho người ngoài chỉ huy, hơn nữa quân sự là việc kỹ thuật cực kỳ chuyên nghiệp, phải giao cho người chuyên nghiệp làm việc chuyên nghiệp, thằng nhãi này chỉ là một tên "con ông cháu cha", để hắn chỉ huy quân đội chẳng phải trò đùa sao? Hai bên cứ thế mà cãi nhau. Sau đó có một lần quân đội có binh lính vi phạm kỷ luật cần xử lý, hai người vì chuyện xử lý thế nào mà cạch mặt nhau hoàn toàn. Aristagoras nói một tràng những lời sỉ nhục vào mặt tướng quân Ba Tư, trong đó câu gắt nhất là: "Mày chỉ là thằng làm thuê, tao mới là lãnh đạo, ở đời phải biết mình là ai chứ".

Câu nói này vừa thốt ra, Aristagoras cảm thấy cơn giận dồn nén trong ngực đều được trút hết, cảm giác cực kỳ sảng khoái.

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết, những kẻ thích sướng mồm thường chết rất khó coi.

Tướng quân Ba Tư nghe câu này thì thẹn quá hóa giận: Mày là cái thá gì, chẳng qua chỉ là một tên vong quốc bị Ba Tư chinh phục mà thôi, nói dễ nghe thì là quý tộc địa phương, nói khó nghe thì là một tên nô tài cao cấp, lại dám đòi chỉ huy quân đội của chủ nhân, mày liều thật đấy. Lại nói cái dự án này, ý tưởng là do mày đưa ra không sai, nhưng thế thì sao nào, mày chỉ biết vẽ bánh, tiền không, quân đội không, kỹ thuật không, cho mày tí cổ phần là tốt lắm rồi, còn được đằng chân lân đằng đầu, tưởng mình là ông chủ thật à?

Kết cục có thể đoán được, tướng quân Ba Tư cố tình tiết lộ tin đại quân sắp đánh úp cho người Naxos, sau đó không làm nữa. Aristagoras chưa từng cầm quân, giờ bắt hắn nắm binh quyền, lại còn là chỉ huy quân đội Ba Tư, với chút võ mèo cào của hắn làm sao đối phó nổi cục diện phức tạp thế này. Cuộc viễn chinh cứ thế thất bại trong sự nội chiến lục đục.

Tai họa bắt đầu từ đây.

Lúc sướng mồm thì rất đã, giờ kết quả lù lù ra đấy, ông anh này phát hiện một vấn đề nghiêm trọng: Đánh thua trận, Darius trách tội xuống thì làm thế nào? Khoản quân phí đã cam kết thì tính sao?

Đặc biệt là điều thứ hai. Đây là do Aristagoras tự nói, sẵn sàng chịu chi phí ăn ở đi lại cho quân đội Ba Tư, người Ba Tư nghe lọt tai mới xuất binh giúp đánh trận. Nhưng nguồn kinh phí này vốn dự tính là phải đánh chiếm được đảo Naxos, dùng tài sản trên đảo để chi trả. Giờ chiến bại rồi, lấy gì ra trả quân phí?

Đối với Ba Tư mà nói, dự án này thành công thì tốt, thua cũng chẳng mất mát gì lớn, coi như đi du lịch một chuyến, nên quân đội Ba Tư không quá quan trọng thành bại, động lực tự nhiên không đủ. Nhưng Aristagoras thì khác, thành công thì một vốn bốn lời, nhưng thất bại thì không phải đền tiền, mà là đền mạng.

Aristagoras sau khi tỉnh ngộ không khỏi lạnh toát sống lưng. Ngay lúc hắn đang hoang mang lo sợ không yên, thì ông chú kiêm bố vợ Histiaeus đang ở Susa gửi cho hắn một bức thư.

Nội dung thư chắc bạn đoán ra được: Tạo phản.

Từ khi bị Darius lừa đến Susa, quyền lực bị tước sạch, Histiaeus mỗi ngày chẳng có việc gì làm, đương nhiên cũng chẳng ai thèm nhìn ông ta bằng nửa con mắt.

Tuy bị cho ra rìa, nhưng ông ta vẫn có cách nghe ngóng được nhất cử nhất động của Miletus. Giờ phát hiện con rể gặp rắc rối, con cáo già này cảm thấy có thể làm chút chuyện rồi, thế là ông ta phái tên nô lệ tâm phúc mang thư xúi giục tạo phản đến cho Aristagoras.

Aristagoras đang cùng đường tuyệt lộ nhìn thấy thư của Histiaeus thì mừng rỡ khôn xiết, lập tức triệu tập nhiều thành bang quanh Ionia đến Miletus họp. Trong cuộc họp, Aristagoras giả bộ lo cho nước cho dân, lên án chính sách tàn bạo của Ba Tư đã mang lại tai họa nặng nề cho địa phương, sự cai trị của Ba Tư là bất hợp pháp (mặc dù bản thân Aristagoras chính là Tổng đốc Miletus do người Ba Tư bổ nhiệm), tiếp đó tuyên bố Miletus chuyển sang thể chế dân chủ, thoát ly sự cai trị của Ba Tư, và kêu gọi các thành bang khác cùng gia nhập đội ngũ phản kháng.

Thấy Aristagoras nói năng đâu ra đó, các thành bang Ionia khác bị Aristagoras lừa cho tin sái cổ. Nhiều thành bang quanh Miletus cũng đang có nguyện vọng thoát khỏi Ba Tư, thấy Aristagoras là người đầu tiên phất cờ khởi nghĩa, bèn nhao nhao hưởng ứng, bày tỏ nguyện vọng dưới sự lãnh đạo của Aristagoras cùng nhau tiến tới thế giới mới tươi đẹp.

Sử sách ghi lại, Aristagoras trong nháy mắt đã tập hợp được quân đội với hơn 350 chiến hạm, lấy Miletus làm trung tâm, khu vực Ionia làm đại bản doanh bắt đầu mở rộng quy mô lớn ra bên ngoài. Aristagoras dựa vào hai hướng thủy bộ cùng tiến, rất nhanh đã thu phục cả khu vực Ionia, hơn nữa lục quân còn tiến thẳng một mạch, một đường hướng Đông liên tục xâm nhập vào lãnh thổ nội địa của Đế quốc Ba Tư. Quân địa phương Ba Tư không hề có chuẩn bị, bị đánh cho trở tay không kịp, tan tác ngàn dặm, chỉ có thể liên tục rút lui, cuối cùng thậm chí rút khỏi thành phố lớn nhất phía Tây Đế quốc Ba Tư là Sardis, dâng thành phố lớn này cho Aristagoras và người Hy Lạp.

Sự phồn hoa và giàu có của Sardis không phải các thành phố bình thường khác có thể so sánh. Aristagoras và đồng bọn vừa vào thành, lập tức thả cửa cướp bóc trong thành Sardis mấy ngày mấy đêm, lúc đi còn phóng hỏa, đô thị phồn hoa này cuối cùng bị thiêu rụi thành bình địa.

Tin tức truyền đến Susa, Darius nổi trận lôi đình.

Vốn dĩ Darius nghĩ đây chẳng qua chỉ là một cuộc phản kháng cục bộ. Nhưng giờ đến cả Sardis cũng bị công phá thì đây không còn là chuyện nhỏ nữa. Darius lập tức phát động toàn quốc, tổ chức một hạm đội hơn 600 tàu (đều là chiến hạm trưng dụng của người Phoenicia), phối hợp với lục quân khổng lồ của Ba Tư tiến hành phản công. Quân đội trung ương Ba Tư rất nhanh đã thu phục được Sardis.

Tiếp đó, quân đội Ba Tư thừa thắng xông lên, phản công một mạch đến đại bản doanh của Aristagoras là Miletus.

Quân đội trung ương Ba Tư dù sao cũng hơn hẳn về trang bị, sĩ khí và sức chiến đấu, hơn nữa nội bộ quân phản loạn Ionia cũng không đoàn kết, một nắm cát rời sao chống lại được sự tấn công mãnh liệt của quân chính quy Ba Tư, chẳng mấy chốc, Miletus bị công phá.

Có qua thì phải có lại, Miletus bị công phá cũng chịu chung số phận bị cướp bóc mấy ngày mấy đêm. Và để hả giận, người Ba Tư đã tiến hành cuộc trả thù tàn khốc đối với người Miletus: Đàn ông trưởng thành và người già giết không tha. Trong số trẻ con, đứa nào khôi ngô tuấn tú thì thiến hết thành thái giám gửi đi các nơi làm nô lệ, con gái xinh xắn thì gửi vào cung đình Ba Tư làm nữ nô để Darius ban thưởng cho quý tộc, số còn lại bán cho bọn buôn người ngay tại chỗ. Tiếp đó Darius hạ lệnh thiêu rụi toàn thành Miletus, một tòa thành nổi tiếng cứ thế hoàn toàn biến mất khỏi bản đồ trong cơn thịnh nộ của Darius.

Cuối cùng, phải nói đến kết cục của Histiaeus.

Tin Aristagoras tạo phản truyền đến triều đình Ba Tư, Darius tự nhiên phải tìm Histiaeus tính sổ. Mà lão già này lại dùng ba tấc lưỡi lừa được Darius một vố ngoạn mục. Histiaeus nói với Darius, Aristagoras là do bệ hạ bổ nhiệm, nhưng chuyện này không trách bệ hạ nhìn nhầm người, là do thằng ranh con Aristagoras kia thực sự không biết điều, nhưng nói thế nào thằng khốn nạn đó cũng là con rể thần, thần nguyện ý làm khâm sai triều đình, đi khuyên thằng ranh con đó bỏ vũ khí, quay đầu là bờ.

Có thể Darius thực sự già rồi, cú lừa cấp thấp thế này mà cũng tin là thật, lại còn thực sự bổ nhiệm Histiaeus đi khuyên nhủ con rể quý hóa đầu hàng.

Histiaeus nghênh ngang rời khỏi Susa, sau khi trở về khu vực Ionia lập tức kéo một đội quân, trốn đến một nơi gọi là Lesbos trên biển Aegean chiếm núi xưng vương. Trong mấy năm khởi nghĩa Ionia, lão làm cái nghề "đi buôn không vốn". Sau này vào một mùa thu, lúa mì trong lãnh thổ Ba Tư chín rộ, khi lão già này đang cướp ruộng lúa địa phương thì tình cờ gặp một vị tướng Ba Tư dẫn quân đi ngang qua, nhìn thấy hành vi cướp bóc của chúng liền ra tay đánh cho một trận tơi bời. Quân của Histiaeus không phải đối thủ, loáng cái đã bị đánh cho nằm sấp, Histiaeus bị bắt sống.

Histiaeus bị bắt sống bèn khai ra thân phận của mình, được đưa đến chỗ Tổng đốc Ba Tư tại địa phương. Cuối cùng dưới sự chủ trì của vị Tổng đốc này, lão bị xử tử hình, sau đó đầu được gửi về hoàng cung của Darius. Darius tuy giận lão già này bội tín bội nghĩa, nhưng có lẽ vẫn nể tình bạn bè nhiều năm, cuối cùng hạ lệnh hậu táng cho lão.

Đến đây, ngọn lửa phản loạn lớn nhất từ khi Đế quốc Ba Tư lập quốc, dưới sự trấn áp mạnh mẽ của Darius, đã bị dập tắt không thương tiếc.

Mặc dù quá trình và kết cục không phức tạp, nhưng cuộc khởi nghĩa này lại dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng: Darius nảy sinh mối thâm thù đại hận với Athens!

Bởi vì Athens đã can dự sâu vào cuộc xung đột nội bộ này của người Ba Tư.

Hóa ra, để tăng thêm thanh thế cho khởi nghĩa, Aristagoras lúc đó đã cầu viện Athens và Sparta.

Sparta tuy mang danh anh cả Hy Lạp, nhưng lại rất ngại chinh phạt bên ngoài. Phương án hợp lý nhất để chi viện Miletus là dùng lực lượng hải quân, nhưng Sparta không có hải quân, nếu xuất binh chỉ có thể đi đường bộ, phải đi vòng qua Macedonia ở phương Bắc một vòng rất xa mới đến được Ionia. Điều này lại kéo theo vấn đề thứ hai, như chúng ta đã nói trước đó, do vấn đề cơ cấu dân số của Sparta, số lượng nô lệ vượt xa người Sparta, nếu quân đội Sparta ở bên ngoài quá lâu, trong nước sẽ trống rỗng, người Helot sẽ có cơ hội làm loạn. Cân nhắc tới lui, Sparta tìm một lý do đường hoàng để từ chối yêu cầu xuất binh.

Còn người Athens thì rất sảng khoái nhận lời yêu cầu của Miletus, quyết định ngay lập tức phái binh chi viện. Hơn nữa không chỉ mình Athens, họ còn lôi kéo thêm một thành bang đàn em tên là Eretria cũng xuất 5 tàu cùng đi.

Vụ này chọc Darius điên tiết.

Trong mắt người Athens lúc bấy giờ, Miletus là thành bang Hy Lạp, nhân dân trong đó đều là đồng bào Hy Lạp, Athens có nghĩa vụ ra tay giúp đỡ những người Hy Lạp này, vả lại 25 chiếc tàu này chẳng bõ bèn gì trước quân đội Ba Tư, người Athens cho rằng xuất binh chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không tạo thành uy hiếp gì với Ba Tư. Nhưng trong mắt Darius: Miletus là lãnh thổ của Ba Tư, mày xuất binh chính là chống lại tao, không liên quan đến việc mày phái bao nhiêu quân. Phái binh không phải là vấn đề số lượng, mà là vấn đề thái độ.

Hai bên chẳng ai chịu ai, cuộc khẩu chiến cứ thế nổ ra.

Darius bừng bừng lửa giận, Athens các ngươi là cái thá gì mà dám cả gan khiêu khích Ba Tư như vậy? Trong mắt lũ ranh con các ngươi còn có "Vua của các Vua" này không hả? Darius nghiến răng thề nhất định phải dạy cho đám ranh con Athens một bài học.

Sử sách ghi lại, Darius dặn người hầu thân cận, mỗi lần hầu hạ ông ăn cơm đều phải nói bên tai ông một câu: "Bệ hạ, đừng quên người Athens", mà phải nói liền ba lần! Đủ thấy cục tức này to đến mức nào.

Nhưng thời cơ động thủ lúc đó chưa chín muồi. Một là khởi nghĩa Ionia lan rộng, san phẳng Miletus xong, Darius còn phải rảnh tay đi giải quyết những đốm lửa tàn dư này. Hai là lý do chưa đầy đủ. Athens ủng hộ Miletus phản loạn đúng là đáng ghét, nhưng vì lý do này mà xuất binh đánh người ta thì sức thuyết phục chưa đủ, phải tìm lý do khác.

Đợi đến vài năm sau, khi lực lượng phản loạn trong nước Ba Tư bị tiêu diệt hoàn toàn, Darius muốn cho người Hy Lạp đối diện một cơ hội quy thuận hòa bình nữa, thế là mới có cảnh tượng ở đầu bài viết, sứ giả Ba Tư đi khắp Hy Lạp đòi "đất và nước", cũng dẫn đến màn kịch Athens và Sparta công khai xử tử sứ giả của “Vua của các Vua”. Do sứ tiết ngoại giao bị giết, cuối cùng Darius cũng tìm được lý do đường hoàng chính chính: Dám chống đối tao, mà lại còn những hai lần. Không xử lý bọn mày thì sau này tao làm sao mà ngẩng mặt trên giang hồ được nữa, chúng mày cứ đợi đấy cho tao.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
832
Động cơ
798,525 Mã lực
588882685_122115718149029493_1377194976880271805_n.jpg


Năm 491 TCN, quân đội Ba Tư bắt đầu hành trình báo thù.

Sau khi san phẳng cuộc phản loạn ở Miletus, Darius ra lệnh cho quân đội Ba Tư lập tức lên thuyền xuất chinh.

Tuy nhiên, lộ trình hành quân của đội quân này không phải lao thẳng đến Athens, mà trước tiên ghé qua hai nơi khác. Nói đến đây chắc mọi người đều đoán ra được là hai nơi nào: Đảo Naxos và Eretria.

Darius không phải là người hay quên, càng không phải là người tùy tiện tha thứ cho kẻ đã mạo phạm mình (cứ nhìn những hình điêu khắc trên bia ký Behistun là biết). Athens, kẻ lưu manh cầm đầu ủng hộ Miletus phản loạn, lại còn giết sứ giả Ba Tư, thì chắc chắn phải làm thịt rồi, nhưng kẻ a dua a còng Eretria và Naxos, kẻ khiến Ba Tư phải nuốt trái đắng thất bại, đương nhiên cũng không được yên thân.

Tướng lĩnh Ba Tư rất hiểu ý đồ của tủ lạnh, à lãnh tụ, hạm đội rất nhanh đã công hạ hai thành bang này. Ngoài việc cướp sạch sành sanh hai thành bang, họ ra tay với cư dân ở đây cũng không hề có chút từ bi nào: Đàn ông giết sạch, phụ nữ và trẻ em bán hết làm nô lệ. Đáng thương cho Eretria, chỉ phái có 5 chiếc chiến thuyền mà dẫn đến cảnh cửa nát nhà tan, thực sự khiến người ta phải thổn thức.

Nhưng câu chuyện này cũng dạy cho chúng ta một bài học sinh động: Ân oán của các đại ca, đàn em đừng có dại mà chõ mõm vào, không biết lượng sức mình thì kết cục sẽ rất thảm.

Giải quyết xong Eretria, thời gian trôi đến mùa đông năm 491 TCN.

Mùa đông ở vùng Địa Trung Hải lạnh lẽo và hay thay đổi, không thích hợp cho tác chiến quy mô quân đoàn. Quân đoàn Ba Tư bèn đóng quân trên đảo Euboea, đợi sang năm sau khi xuân về hoa nở sẽ phát động tổng tấn công. Điều này cho Athens thời gian để thở. Trong khoảng thời gian này, Athens đã hoàn thành triển khai quân sự, động viên được 9.000 bộ binh hạng nặng, đẩy nhanh huấn luyện chiến thuật và dự trữ vật tư, nghiêm trận chờ giặc.

Nhưng trong mùa đông này, nước cờ quan trọng nhất mà Athens đi, là chọn được một người làm Tổng tư lệnh toàn quân Athens, người này tên là Miltiades (Mil-tai-ơ-điz).

Người này lai lịch không nhỏ, hơn nữa còn gây nhiều tranh cãi.

Miltiades sinh ra trong một gia tộc danh gia vọng tộc khác của Athens: Gia tộc Philaids, thực lực ngang ngửa với gia tộc của Cleisthenes mà chúng ta đã nhắc đến ở phần trước, và hai bên cũng chẳng ưa gì nhau. Trong làn sóng thực dân hải ngoại lần thứ hai của Hy Lạp, gia tộc này cũng góp mặt. Ông nội của Miltiades, cũng tên là Miltiades, tạm gọi là Miltiades ông để phân biệt, đã vượt biển Aegean đến phần châu Á của khu vực Ionia, thiết lập một thuộc địa tên là Chersonese và làm người cai trị thực dân ở đó. Chersonese dựa lưng vào mẫu quốc Athens, giao lưu rất thường xuyên với các bộ lạc châu Á địa phương. Khi đó Đế quốc Ba Tư chưa thành lập, vùng này chưa có cường quyền thống nhất thiên hạ, các bên đánh nhau liên miên. Có lần Chersonese bị một bộ lạc dã man địa phương đuổi đánh, Miltiades ông bại trận bị bắt, sắp sửa bị xử tử. Lúc này Miltiades ông bèn vận dụng các mối quan hệ trong tay, cầu cứu Quốc vương Lydia lúc bấy giờ là Croesus.

Các bạn còn nhớ Croesus không?

Đây chính là "thánh nịnh" kiêm “quân sư kiệt xuất” mà chúng ta đã nói ở Phần 11: Ba Tư - Cyrus Đại đế. Thời của Miltiades ông, Cyrus chưa đánh tới, Croesus vẫn là vua của Lydia. Croesus rất khâm phục tài năng của Miltiades ông nên kết làm bạn tốt. Giờ Miltiades ông bị người ta kề dao vào cổ, là bạn bè như Croesus đương nhiên phải ra tay.

Ông phái một sứ giả, nhắn cho thủ lĩnh bộ lạc dã man kia một câu: "Thả Miltiades ông ra ngay, nếu không ta sẽ xử lý các ngươi như chặt cây tùng vậy".

Đại ý câu này ai cũng hiểu: Miltiades ông là người của tao, mày dám láo nháo với ông ấy thì đừng trách tao không khách khí. Nhưng mà, chặt cây tùng là thế nào thì đám dã man thô lỗ kia nghĩ mãi không ra.

Lúc này, một nhà hiền triết xuất hiện, giải thích: Không có văn hóa là thiệt thòi thế đấy! Cây tùng có một đặc điểm, khả năng tự phục hồi của nó cực kém, một khi bị chặt, vết chặt sẽ không mọc ra chồi non mới nữa. Nói cách khác, khi thân cây tùng bị người ta chặt đứt, nghĩa là cái cây đó chết hẳn.

Cho nên câu này dịch ra tiếng người nghĩa là: Hoặc là thả người, hoặc là tao giết cả nhà mày!

Đám người dã man kia sợ toát mồ hôi hột, xem ra người ta là chơi lớn rồi. Nghĩ đi nghĩ lại, không đáng vì một ông già mà đoạn tử tuyệt tôn, đại trượng phu co được duỗi được, bộ lạc này ngoan ngoãn thả người. Miltiades ông thoát chết.

Câu chuyện này cũng chứng minh một chân lý khác: Lưu manh không đáng sợ, đáng sợ là lưu manh có văn hóa.

Thoát chết trở về, từ đó Miltiades ông sống những ngày thái bình ở Chersonese, một lòng một dạ lo xây dựng, toàn tâm toàn ý lo phát triển. Đến đời thứ ba, tức là đến tay vị Miltiades cháu này (hiện tượng người phương Tây ông cháu trùng tên rất phổ biến, như Cambyses trong phần 12 chẳng hạn), cuộc chinh phục "đất và nước" của Darius cũng lan đến Chersonese. Giống như Miletus, Chersonese với thực lực chênh lệch quá lớn đã ngoan ngoãn quy phục, làm thần dân của Đế quốc Ba Tư. Miltiades cháu nhờ đó có cơ hội theo Darius nam chinh bắc chiến, sát cánh với quân đội Ba Tư lâu ngày nên cực kỳ quen thuộc ngóc ngách của quân đội này, tự nhiên nắm rõ ưu điểm và nhược điểm của họ như lòng bàn tay. Trong cuộc khởi nghĩa Ionia do Miletus cầm đầu, Miltiades cháu đã ngấm ngầm tham gia phản loạn. Đợi khi phản loạn bị dẹp yên, Darius truy cứu và phát hiện ra bằng chứng xác thực Miltiades cháu tham gia phản loạn. Lần này Miltiades cháu tự nhiên không ở Chersonese được nữa, phải quay về mẫu quốc Athens.

Trong những trước đã nói, Croesus từng làm một việc gián tiếp ảnh hưởng đến lịch sử. Bây giờ đã đến lúc đưa ra đáp án: Khi ông ta làm vua Lydia, ông ta đã ra tay bảo vệ gia tộc Miltiades, nhờ vậy mà ba đời sau, Miltiades cháu trở thành thống soái quân đội Athens, đánh bại quân Ba Tư tại Marathon. Sau chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, con trai của Miltiades cháu là Cimon cũng trở thành nhân vật làm mưa làm gió trong lịch sử Athens, được đưa vào cuốn "Cuộc đời các danh nhân Hy Lạp và La Mã" của Plutarch. Từ góc độ này mà nói, việc cứu người năm xưa của Croesus đã gián tiếp thay đổi kết quả chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, cũng ảnh hưởng đến xu thế lịch sử.

Không thể không cảm thán lịch sử thật kỳ diệu, và đây cũng là điểm hấp dẫn của lịch sử.

Khi trở về Athens, ban đầu Miltiades cháu không hề thuận buồm xuôi gió. Theo luật pháp Athens, ông có quyền công dân Athens, có thể tham gia tranh cử Tướng quân. Nhưng do thế hệ trước của gia tộc ông rất thân với Pisistratus, từng đắc tội với gia tộc Cleisthenes, mà Athens hiện tại lại do phe cánh của Cleisthenes nắm quyền, nên con đường trở về của Miltiades cháu chắc chắn là đầy chông gai. Hơn nữa trong thời gian ông cai trị Chersonese lại hỗ trợ Darius chinh phạt, trong mắt người Athens đó là sự phản bội. Điều này tạo ra lực cản cực lớn cho con đường tranh cử của Miltiades cháu . Những người phản đối ông nắm chặt lấy vết đen này không buông, đòi đưa Miltiades cháu ra tòa xét xử.

Đúng lúc này, có hai người đứng ra ủng hộ Miltiades hết mình. Đó là Quan chấp chính quân sự của Athens lúc bấy giờ là Callimachus, và chủ soái của Athens trong cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai sau này - Themistocles (Thơ-mis-tơ-cliz). Đặc biệt là Themistocles, vị anh hùng chói lọi nhất của Athens sau này, khi đó mới chỉ khoảng ba mươi tuổi, thuộc hàng "chiếu dưới" trên chính trường. Nhưng trẻ không có nghĩa là non nớt, Themistocles nhạy bén phát hiện ra ưu thế vô song của Miltiades, ông cho rằng kinh nghiệm của Miltiades khi chinh chiến cùng quân Ba Tư sẽ trở thành lợi thế cốt lõi của quân đội Athens, chủ soái không thể là ai khác ngoài ông ấy. Thế là Themistocles ra sức chạy vạy kêu gọi, tích cực hòa giải, vì việc này ông không tiếc đàm phán gian khổ với phe phản đối chủ yếu lúc bấy giờ, cũng là đối thủ cạnh tranh chính của ông sau này - Aristides (A-ris-tai-điz). Cuối cùng buộc Aristides phải nhượng bộ, không truy cứu Miltiades nữa. Sử sách không ghi lại Themistocles lúc đó đã làm gì hay nói gì, nhưng lịch sử chứng minh quyết sách và hành động của ông lúc đó đúng đắn đến nhường nào. Cứ thế, Miltiades được miễn khởi tố, trúng cử thành một trong mười vị Tướng quân (Strategos) của Athens.

Người thứ hai ủng hộ Miltiades là quan chấp chính quân sự đức cao vọng trọng Callimachus. Khi biết tin Miltiades trúng cử, ông đã đưa ra một quyết định quan trọng: Ủy thác Miltiades trở thành chỉ huy tối cao của quân đội Athens.

Luật pháp Athens lúc bấy giờ quy định, mười vị Tướng quân trong thời chiến cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc dân chủ, mỗi người luân phiên làm Tổng chỉ huy một ngày, mười ngày một vòng lặp. Mục đích thiết kế chế độ này là để tránh việc quân đội bị một cá nhân nào đó kiểm soát quá mức. Nhưng chiến tranh là tình huống cực đoan, mô hình "lần lượt làm cái" thường mang lại nhiều rắc rối không cần thiết, đối với một trận đánh ác liệt, nó thường trở thành gánh nặng tiêu cực. Callimachus đã nhận ra điểm này, ông đề nghị giao toàn quyền chỉ huy của mười tướng quân cho Miltiades. Về lý do và động cơ, ông có cùng suy nghĩ với Themistocles: Miltiades hiểu rõ quân đội Ba Tư. Callimachus nói là làm, là người đầu tiên ký vào giấy ủy thác, Themistocles đi đầu hưởng ứng. Do Callimachus có uy tín cực cao, các tướng quân khác cũng không tiện nói gì thêm. Thế là, khi đại chiến bắt đầu, quyền chỉ huy quân đội Athens đã được tập trung, Miltiades trở thành thống soái tối cao theo đúng nghĩa, còn Callimachus, Themistocles, Aristides làm phó tướng. Ban lãnh đạo quân đội Athens chính thức vào vị trí, chỉ đợi lệnh là "chiến".

Hậu thế chúng ta nhìn lại, hành động này của Callimachus quá then chốt, có thể nói đã quét sạch chướng ngại nội bộ để Athens giành chiến thắng trong trận Marathon. Quyết định này cho thấy Callimachus vừa có con mắt nhìn người, dùng người, vừa có tấm lòng đặt đại cục lên trên hết, lại có sự quyết đoán "làm việc phi thường trong thời khắc phi thường". Có được vị lão tướng ưu tú như vậy, quả thực là phúc của người Athens.

Thời gian trôi đến mùa hè năm 490 TCN, quân đoàn Ba Tư đổ bộ lên đồng bằng Marathon ở phía bắc không xa Athens. Lần này đổ bộ là đội quân tiên phong của Ba Tư, khoảng 15.000 người. Các đơn vị tiếp theo dự kiến sẽ lần lượt đổ bộ sau khi chỉnh đốn xong. Nhận được tin, Miltiades hỏa tốc dẫn đầu 9.000 bộ binh hạng nặng Athens và 1.000 bộ binh từ các đồng minh khác chạy đến Marathon, hai bên đóng quân đối đầu trên đồng bằng ven biển.

Cuộc đại chiến va chạm giữa văn minh phương Đông và phương Tây lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại sắp sửa bùng nổ!

Ban đầu hai bên đều không dám hành động thiếu suy nghĩ, dù sao đây cũng là lần đầu tiên chính thức so găng, mọi người đều đang thăm dò và quan sát. Hai bên trợn mắt nhìn nhau ở Marathon suốt một tuần.

Trong thời gian này, Miltiades đã làm hai việc:

Thứ nhất, ông phái một chàng trai tên là Euripides (tên khác là Pheidippides) chạy một mạch 255 km, từ đồng bằng Marathon đến vùng Laconia nơi Sparta tọa lạc, để xin Sparta xuất binh chi viện. Bởi vì lục quân Sparta vô song thiên hạ, nếu nhận được sự viện trợ của Sparta, áp lực phía Athens sẽ giảm đi rất nhiều.

Tuy nhiên, Sparta đã làm ông thất vọng. Giống như thái độ đối với lời cầu viện của Miletus, người Sparta không hề có ý thức đại cục, điểm nhìn đầu tiên của họ luôn là mối đe dọa từ đám nô lệ Helot trong nước. Đối với việc xuất binh, họ luôn do dự. Cuối cùng, người Sparta cứng nhắc trả lời người Athens rằng: Xuất binh thì được, nhưng hiện tại chúng tôi đang trong một lễ hội thần thánh, phải đợi 7 ngày sau khi tế lễ kết thúc hoàn toàn mới có thể hành động. Athens muốn chúng tôi xuất binh, vậy thì đợi đi.

Sau khi biết câu trả lời của Sparta, Miltiades không có phản ứng gì quá gay gắt, dường như ông chẳng hề ngạc nhiên với kết quả này. Ông chỉ cười khổ một tiếng, rồi làm việc thứ hai. Dựa vào kinh nghiệm và quan sát, ông đã đưa ra phân tích cực kỳ sắc sảo về chiến trường:

➡️
Địa hình: Đặc điểm địa hình Marathon quyết định cuộc đối đầu giữa hai quân đội chắc chắn là cuộc tử chiến giữa bộ binh. Mặc dù Marathon là đồng bằng, nhưng chỉ rộng 8 km vuông, điều này hạn chế kỵ binh phát huy tác dụng. Bởi vì sát thương chính của kỵ binh đến từ lực xung kích do tốc độ và sức mạnh của chiến mã khi khởi động, điều này cần một vùng đất trống rộng lớn để kỵ binh có thể tăng tốc, sau khi bắt được điểm yếu của địch thì tiến hành xung phong, chỉ cần xuyên thủng trận tuyến đối phương là nắm chắc phần thắng. Nhưng đồng bằng Marathon quá nhỏ, chỉ chứa bộ binh chủ lực hai bên đã thấy chật chội, kỵ binh không có điều kiện phát huy ở đây. Vì thế 1.000 kỵ binh đi theo của Ba Tư rõ ràng chỉ có thể làm khán giả.

➡️
Trang bị: Miltiades dựa vào sự hiểu biết về quân đội Ba Tư, khẳng định quân đội Ba Tư ngoài đông người ra thì trình độ trang bị tổng thể không bằng Athens. Trước hết, người Ba Tư rất ít mặc giáp kim loại, ngay cả đội quân tinh nhuệ nhất là quân đoàn bất tử cũng chủ yếu mặc áo choàng dài. Vũ khí tấn công của Ba Tư là giáo và cung tên, khiên là loại khiên tròn nhỏ bằng gỗ. Nhưng cung tên của họ có nhược điểm là lực xuyên thấu không đủ, có thể do hạn chế kỹ thuật luyện kim thời đó, đầu tên Ba Tư gặp kim loại cứng rất dễ gãy. Còn giáo của họ so với người Hy Lạp cũng có nhược điểm là quá ngắn. Giáo dài của người Hy Lạp khoảng 4 mét, còn giáo Ba Tư thường chỉ 2 mét. Kết quả là khi hai quân giáp lá cà, người Hy Lạp thường đâm trúng đối phương trước, còn người Ba Tư muốn đâm trúng đối phương phải trả giá bằng thương vong lớn hơn. So với họ, người Hy Lạp "trâu bò" hơn nhiều, binh chủng chủ lực của Athens gọi là bộ binh hạng nặng Hoplite (vâng, con Y Greek chạy nhanh trong AoE ấy ạ), biệt danh "người đồng". Nghe tên là đủ hình dung ra hình ảnh bộ binh Athens: Giáp bên ngoài làm bằng kim loại nặng, chia thành giáp ngực, giáp tay và giáp chân; khiên tuy cũng làm bằng gỗ nhưng người Hy Lạp làm khiên vừa dày vừa to, bên ngoài còn bọc một lớp đồng. Như vậy dù là tác chiến đơn binh hay dàn trận tiến lên đều được, vừa có thể bảo vệ bản thân hiệu quả, vừa bảo vệ tốt cho đồng đội. Vì vậy, trong mắt Miltiades, quân đội Ba Tư thực chất chỉ chơi chiến thuật biển người, trình độ trang bị kém xa người Hy Lạp.

➡️
Đội hình: Ba Tư áp dụng phương pháp dàn trận truyền thống. Đại quân trung lộ là chủ lực, hai cánh trái phải chịu trách nhiệm yểm trợ. Nghĩa là, số người tập trung ở trung lộ đông nhất, là đơn vị tấn công chính. Quân đội hai cánh chủ yếu lo che chắn, phối hợp, tạo thành lực tấn công bổ trợ, do đó số người tương đối ít, thực lực tấn công và phòng thủ cũng kém hơn một bậc.

Có những phân tích trên, Miltiades đưa ra hai nguyên tắc tác chiến:

➡️
Chiến thuật: Miltiades xác định nguyên tắc hai cánh bao kẹp, hợp vây trung lộ. Nói theo kiểu bóng đá bây giờ là đẩy mạnh hai cánh, khoét vào trung lộ.

➡️
Đội hình: Dựa theo chiến thuật trên, Miltiades bày ra đội hình cũng là ba lộ trái giữa phải, nhưng trung lộ của Miltiades bố trí binh lực ít nhất, còn dồn trọng binh vào hai cánh trái phải. Thoạt nhìn thì hoàn toàn ngược lại với quân đội Ba Tư.

(Sơ đồ dàn trận trận Marathon)

Phương châm tác chiến đã định, tiếp theo là bày binh bố trận.

Miltiades trấn giữ cánh trái, binh lực 4.000 người, thành phần là bộ binh hạng nặng Athens (4.000 con Y Greek).

Themistocles và Aristides cùng chỉ huy trung lộ, binh lực 2.000 người, toàn bộ là bộ binh hạng nặng Athens.

Callimachus phụ trách cánh phải, khoảng 4.000 người. Ngoài lính bản địa Athens còn có binh lực đến chi viện từ Plataea và các đồng minh khác.

Sở dĩ phía Athens bày ra đội hình như vậy, là vì trận Marathon là một cuộc chiến không cân xứng, số lượng quân Athens thua xa Ba Tư. Do hạn chế binh lực nên không thể phát động chiến tranh tiêu diệt cùng lúc đối với cả ba cánh quân Ba Tư, do đó buộc phải có sự đánh đổi. Từ kinh nghiệm về cách dàn trận của quân đội Ba Tư mà Miltiades có được, cách làm khả thi nhất là tập trung sức mạnh, đột phá hai cánh, sau đó hợp quân một chỗ, tiêu diệt trung lộ.

Và việc phân bổ chỉ huy cho ba cánh quân cũng có dụng ý, vì ba cánh quân Athens phải đối mặt với những khó khăn khác nhau:

➡️
Trung lộ: Trung lộ là đội có ít người nhất trong ba cánh quân Athens, còn trung lộ của đại quân Ba Tư mà họ phải đối mặt lại chính là cánh quân mạnh nhất, chênh lệch binh lực giữa hai bên gấp 4 lần. Vì vậy chiến lược của trung lộ chỉ có thể là phòng thủ, để đồng đội ở hai cánh bọc đánh. Một khi vòng vây được thiết lập, các anh sẽ thắng. Đối với trung lộ mà nói, không thua chính là thắng.

➡️
Cánh phải: Cánh phải của Hy Lạp đối diện với cánh trái của Ba Tư. Mà cánh trái Ba Tư lại ở phía gần biển, trên biển còn đang đậu tàu chở quân của Ba Tư. Nói cách khác, cánh trái Ba Tư là lối thoát hiểm của quân đội Ba Tư, một khi chiến sự bất lợi, người Ba Tư sẽ rút lui về tàu đổ bộ ven biển thông qua cánh trái. Cho nên ý chí chiến đấu của quân Ba Tư ở cánh này khá yếu. Nhưng quân Athens bên này cũng bất lợi, cánh quân này là liên quân chắp vá từ Athens và vài thành bang đồng minh, nói khó nghe thì là quân ô hợp. Những người này bình thường chỉ huy, huấn luyện không thống nhất, sĩ khí và tố chất quân sự cũng cao thấp khác nhau, sức chiến đấu rất khó phát huy hiệp đồng. Do đó, đối với cánh phải Hy Lạp, nhiệm vụ của họ là phải dựa vào đội quân "hợp chủng quốc" này tiêu diệt quân cánh trái Ba Tư, cắt đứt đường lui của Ba Tư. Một khi cánh này không hạ được người Ba Tư đối diện, vòng vây sẽ không khép lại được, chiến thuật sẽ phá sản. Vì vậy đối với cánh phải, không thắng chính là thua!

➡️
Cánh trái: Đại quân cánh trái do Miltiades chỉ huy là bên có nhiệm vụ gian khổ nhất, chịu áp lực lớn nhất trong cả trận chiến. Bởi vì so với cánh phải, nhiệm vụ của cánh trái Athens là: Không những phải thắng, mà còn phải thắng nhanh! Chiến thuật yêu cầu họ phải nhanh chóng đánh bại cánh phải Ba Tư, lại nhanh chóng thọc sâu ra sau lưng quân đội Ba Tư, hội hợp với cánh phải tạo thành vòng vây. Vì nhìn từ toàn cục, trung lộ khá mong manh, cho dù Themistocles và Aristides có dũng mãnh, có giỏi đánh đấm đến đâu, đối mặt với đối thủ gấp 4 lần mình, bị đánh thủng chỉ là vấn đề thời gian. Vì vậy trước cục diện này, Miltiades không thể ôm bất kỳ ảo tưởng nào về trung lộ, điều duy nhất ông có thể làm là chạy đua với thời gian, dùng tốc độ nhanh nhất đánh bại quân Ba Tư chắn trước mặt, giành lấy thời gian để bao vây vu hồi. Nếu ông tiêu tốn quá nhiều thời gian trong việc đối đầu hai quân, thì một khi trung lộ không trụ được nữa, chiến thuật hợp vây cũng sẽ phá sản.

Như vậy, sự thể hiện của cánh trái trở thành chìa khóa thắng bại. Đây cũng là lý do Miltiades với tư cách là chủ soái toàn quân phải đích thân trấn giữ cánh trái.

Ngày 12 tháng 9 năm 490 TCN, tại đồng bằng Marathon trên bán đảo Hy Lạp, đại chiến chính thức nổ ra.

Ban đầu, hai quân dàn trận riêng biệt, khoảng cách giữa hai bên chừng 1.500 mét. Miltiades hạ lệnh, toàn quân chạy bộ tiến lên, nhanh chóng tiếp cận quân đội Ba Tư. Tướng quân Ba Tư hạ lệnh cho cung thủ bắn tên. Tuy nhiên mưa tên của Ba Tư dù dày đặc, nhưng điểm yếu không đủ lực xuyên thấu lúc này đã lộ rõ. Người Hy Lạp dựa vào giáp kim loại và khiên đồng khổng lồ đã cứng rắn chặn đứng đợt mưa tên đầu tiên của Ba Tư. Khi chạy đến khoảng cách chừng 100 mét, quân đội Hy Lạp dừng lại, xếp hàng theo đội hình đã bố trí trước đó, chỉ huy ba cánh vào vị trí, toàn quân đột kích. Rất nhanh họ va chạm với quân đội Ba Tư, ba binh đoàn chém giết lẫn nhau.

Diễn biến chiến tranh tiếp theo, y hệt như diễn tập sa bàn, mọi thứ đều nằm trong dự liệu của Miltiades.

Cánh trái đột phá đầu tiên. Bộ binh hạng nặng do Miltiades dẫn đầu khí thế ngút trời, 4.000 con Y đâm nát cánh phải Ba Tư. Miltiades một mặt mặc kệ cho cán phải Ba Tư tan rã, ra lệnh cho quân đội nhanh chóng tiến lên vòng ra phía sau tập hậu rút lui của người Ba Tư, đồng thời lo lắng chờ đợi tình hình chiến sự ở cánh phải.

May thay, tin tốt từ cánh phải truyền đến. Callimachus quả không hổ danh là tướng tài, để kích phát sức chiến đấu của đội quân tạp nham chắp vá tạm thời này, vị lão tướng cũng liều mạng, ông đứng ở hàng đầu tiên của đội ngũ dẫn dắt tướng sĩ xông lên. Nếu như cánh trái so kè về kỹ thuật và chiến thuật, thì cánh phải của Callimachus so kè về lòng dũng cảm, xem ai liều hơn, ai dám khô máu hơn. Cánh phải Ba Tư cuối cùng không trụ nổi, rút chạy về hướng tàu vận tải Ba Tư bên bờ biển.

Trong khi hai cánh lần lượt đột phá, quân trung lộ lâm vào khổ chiến. Đối mặt với người Ba Tư chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng, quân trung lộ ngay từ khi khai chiến đã bị ăn hành ngập mồm, quân địch liên tục ép tới, Themistocles và Aristides chỉ huy quân đội vừa đánh vừa lùi, khổ không thể tả. Nhưng dù liên tục bị đánh, đội hình trung lộ vẫn không bị vỡ, quân đội Ba Tư làm thế nào cũng không thể đánh thủng hoàn toàn phòng tuyến của người Hy Lạp trước mặt, ngược lại còn giống như bị dính keo, bị kìm chân chặt cứng, không rảnh tay để đi chi viện cho hai cánh. Themistocles và Aristides dựa vào tinh thần tử chiến, trụ vững trước sự tấn công mạnh mẽ của chủ lực Ba Tư, tranh thủ được rất nhiều thời gian cho toàn cục.

Cuối cùng, hai cánh Hy Lạp thực hiện hội sư. Đại quân trung lộ Ba Tư trong nháy mắt từ bên tấn công mạnh mẽ biến thành bánh mì kẹp thịt, bị đánh cả trước lẫn sau. Còn quân trung lộ Hy Lạp nãy giờ bị đấm túi bụi thì sĩ khí đại chấn, Themistocles và Aristides thừa thế tổ chức phản công. Khi vòng vây của hai cánh trái phải càng thắt càng chặt, binh lính Ba Tư ngã xuống ngày càng nhiều, ngày càng dày đặc, đội hình tan vỡ, ý chí chiến đấu của binh lính sụp đổ. Binh lính không còn tâm trạng chiến đấu, bắt đầu tháo chạy khỏi chiến trường. Cục diện trận Marathon đến đây đã định.

Khi hoàng hôn buông xuống, sự ồn ào của chiến trường dần dần lắng lại. Kiểm kê chiến trường, bên Ba Tư để lại hơn 6.400 xác chết, còn bên Hy Lạp tử trận 192 người, chênh lệch một trời một vực. Chiến thắng lớn này khiến ngay cả người Sparta sau đó đến muộn, xem qua chiến trường Marathon, cũng phải giơ ngón tay cái like cho người Athens (người viết cũng muốn được like).

Cuộc đại chiến va chạm giữa văn minh phương Đông và phương Tây lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Athens lấy yếu thắng mạnh, kết thúc bằng thắng lợi toàn diện!

Phải nhắc đến một điều, vị chỉ huy cánh phải đức cao vọng trọng Callimachus cũng là một trong 192 chiến binh Hy Lạp hy sinh. Trận này tướng sĩ Athens đều đã liều mình, tướng sĩ trên dưới một lòng, một đi không trở lại, mới có được chiến thắng sảng khoái và oanh liệt đến thế.

Sau khi chiến dịch kết thúc, Miltiades một lần nữa phái Euripides (Pheidippides) chạy về Athens thông báo tình hình chiến trận. Chàng trai trẻ chạy một mạch hơn 40 km, nhìn thấy đồng bào thành Athens, dùng hết sức lực hét lên một câu: "Chúng ta đã chiến thắng", rồi ngã xuống đất đột tử. Lượt chạy thứ hai 42,195 km này chính là nguồn gốc của môn chạy Marathon nổi tiếng. Còn lượt chạy thứ nhất 255 km thì là nguồn gốc của môn chạy siêu bền Spartathlon.

Ngày 12 tháng 10 năm 2019, tại thủ đô Vienna của Áo, vận động viên chạy đường dài 35 tuổi người Kenya là Eliud Kipchoge, với thành tích 1 giờ 59 phút 40 giây, đã trở thành vận động viên đầu tiên trong lịch sử nhân loại chạy Marathon dưới 2 giờ. Cách trận chiến Marathon 2509 năm lẻ một tháng.

Sau trận đấu, Kipchoge hào sảng nói một câu: No Human Is Limited!

Câu nói này cũng rất hợp để nói về các tướng sĩ Athens 2500 năm trước.

Hãy cùng ghi nhớ trận chiến Marathon, ngày 12 tháng 9 năm 490 TCN.

Sau trận chiến, Athens phải đứng giữa hai lựa chọn: Đầu tư cho bộ binh hay cho hải quân, nói cách khác là làm chủ đất liền hay làm chủ trên biển.
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,983
Động cơ
400,348 Mã lực
View attachment 9413616

Trong phần trước, chúng ta đã tìm hiểu và sự nghiệp lẫy lừng của Peisistratus. Có người sẽ hỏi: Chẳng lẽ Peisistratus chưa từng phạm sai lầm nào sao?

Tất nhiên là có.

Trong cuộc đời Peisistratus, những chuyện ngu ngốc ông làm không nhiều, nhưng không phải là không có, hơn nữa sai lầm còn không hề nhỏ. Vào những năm cuối đời, ông đã quá vội vàng chuyển giao quyền lực cho hai người con trai của mình.

Đây là điều cấm kỵ!

Peisistratus giỏi trị nước, người Athens rất công nhận điều đó. Vì vậy, ngay cả khi cái ghế ông có được không chính đáng, mọi người vẫn tuân theo sự lãnh đạo của ông. Nhưng sự công nhận của người Athens đối với ông không có nghĩa là họ cũng công nhận các con trai ông, phải rạch ròi chuyện nào ra chuyện đó chứ?

Ông muốn con trai kế vị, việc đó không phải là không thể, nhưng ít nhất ông cũng phải biết những quy tắc thông thường. Dù thế nào đi nữa, ông cũng nên để chúng bắt đầu hoạt động từ cơ sở, tích lũy kinh nghiệm từng chút một, thậm chí là làm quen với quần chúng cũng tốt. Đợi đến khi rèn luyện gần đủ, từ từ giao thêm gánh nặng, cho đến khi có thể kế vị. Điều này cũng giống như việc chơi game, đánh quái lên cấp, tích lũy điểm kinh nghiệm từng chút một. Nhưng Peisistratus thì không, ông giao quyền ngay lập tức, vừa vào game đã đi đánh boss rồi.

Thành thật mà nói, hai người con trai của Peisistratus cũng khá xuất sắc, ít nhất họ chắc chắn không phải là những công tử bột chỉ biết ăn chơi, nhưng dù sao họ cũng không cùng đẳng cấp với cha mình. Sau khi Peisistratus qua đời, hai người con trai cố gắng duy trì, nhưng cuối cùng vẫn không thể trấn áp được cục diện. Nhiều mâu thuẫn nội bộ của Athens đã bùng nổ, gây ra không ít sóng gió.

Tuy nhiên, cũng chính vì biến cố này mà nhân vật then chốt thứ ba trên con đường trỗi dậy của Athens đã thuận thế bước lên vũ đài, đó là Cleisthenes.

Xuất thân của Cleisthenes thậm chí còn bá hơn cả Peisistratus. Ông đến từ gia tộc hiển hách nhất của Athens, gia tộc Alcmaeonidae. Cleisthenes là một trong những nhân vật kiệt xuất của thế hệ trẻ trong gia tộc.

Nhưng nếu bạn nghĩ rằng Cleisthenes sẽ thuận buồm xuôi gió vì có hậu thuẫn vững chắc thì bạn đã lầm. Con đường Cleisthenes đi cũng đầy rẫy chông gai và khó khăn, giống như Peisistratus. Điểm khác biệt là, trở ngại Peisistratus gặp phải hoàn toàn đến từ nội bộ Athens, còn Cleisthenes, ông phải đối mặt với cục diện nội loạn ngoại xâm, tình cảnh bất lợi hơn.

Và tất cả những điều này, vẫn phải bắt đầu từ hai người con trai của Peisistratus.

Trước khi chết, Peisistratus đã trao quyền lực cai trị Athens cho cả hai người con trai, người anh tên là Hippias, người em tên là Hipparchus. Peisistratus sắp xếp họ cùng nhau cai trị đất nước, người anh chịu trách nhiệm tổng thể, người em chịu trách nhiệm điều hành các công việc cụ thể, tương đương với một Chủ tịch hội đồng quản trị và một CEO. Ban đầu, hai anh em làm khá tốt, thái độ cũng tận tâm, nhưng dù sao kinh nghiệm, uy tín và quan trọng nhất là kinh nghiệm làm việc thực tế của họ còn quá thiếu hụt. Sự cai trị của cả hai ngày càng lộ rõ vẻ mệt mỏi. Và một khi năng lực lãnh đạo suy giảm, thì nhiều thành phần xấu nổi lên và vô số chuyện lớn nhỏ tự động kéo đến.

Quả nhiên, 8 năm sau, năm 519 TCN, liền xảy ra chuyện.

Phía Bắc Athens có một nước láng giềng tên là Thebes (không phải Thebes ở Ai Cập), cũng là một thành bang có lịch sử lâu đời. Những câu chuyện về Thebes trong thần thoại Hy Lạp rất ly kỳ. Tương truyền, một anh hùng tên là Cadmus sau khi giết rồng, chôn răng rồng xuống đất, kết quả răng rồng mọc ra một đám chiến binh. Cadmus cùng những chiến binh này đã thành lập nên Thebes, một trong năm cường quốc lớn của Hy Lạp (cùng với Sparta, Athens, Corinth và Argos). Sau này, chúng ta còn nhiều lần nhắc đến họ.

Năm 519 TCN, Thebes xuất quân tấn công thành bang lân cận Plataea, muốn thôn tính nó. Plataea cầu cứu Athens. Plataea vốn nằm giữa Thebes và Athens. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, nó đóng vai trò là một vùng đệm. Có nó ở đó, hai cường quốc có thể tránh va chạm trực tiếp. Bây giờ Thebes muốn thôn tính Plataea, điều này rất bất lợi cho Athens. Chuyện này truyền đến Athens khiến nội bộ xôn xao. Đây chính là lúc thử thách năng lực lãnh đạo. Hippias nhất thời không biết xử lý ra sao, cuối cùng nghe theo cấp dưới, lựa chọn chiến tranh. Kết quả chiến tranh là Athens chiến thắng Thebes nhờ sức mạnh tổng hợp của quốc gia.

Thebes cảm thấy vô cùng tức giận.

Thebes là đồng minh của Peisistratus khi ông còn lưu vong ở phương Bắc, đã giúp đỡ rất nhiều trong lúc Peisistratus khó khăn nhất, nói là ân nhân của gia tộc Peisistratus cũng không quá lời. Trong thời kỳ Peisistratus cai trị Athens, hai thành bang cũng ủng hộ lẫn nhau, quan hệ rất tốt. Giờ ông bố vừa mất, hai thằng con đã trở mặt với Thebes, nói kiểu gì cũng không chấp nhận được. Sau sự kiện này, Thebes và Athens đã hoàn toàn kết thù, trong các sự kiện lớn nhỏ của thế giới Hy Lạp, Thebes luôn đứng ở vị trí đối lập với Athens, cho dù là hợp tác với Ba Tư trong Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, hay liên minh với Sparta trong Chiến tranh Peloponnese, làm cho Athens phải khó chịu suốt hơn 200 năm. Có thể nói, sai lầm của Hippias đã gieo mầm họa vô tận cho Athens. Athens cứ thế biến một quốc gia vốn hữu nghị thành một quốc gia thù địch, và từ đó trở đi, họ phải luôn đề phòng những hành động bất lợi từ phía Thebes.

Nếu Peisistratus còn sống, ông tuyệt đối sẽ không xử lý như vậy. Peisistratus có uy tín lớn, quan hệ rộng, kinh nghiệm dồi dào, thủ đoạn phong phú trên biển Aegean. Thông qua các biện pháp kinh tế, gây sức ép ngoại giao, hòa giải bên thứ ba, việc thuyết phục Thebes lẽ ra không khó. Ngay cả khi cuối cùng không thể đàm phán, ông cũng sẽ không hoàn toàn trở mặt với Thebes. Còn hai người con trai của Peisistratus nói cho cùng vẫn còn quá non nớt. Họ không có kinh nghiệm vững chắc, không có sự rèn luyện vượt trội, tự nhiên cũng không có khả năng ứng biến tương ứng. Gặp chuyện không biết xử lý thế nào, chỉ có thể bị cấp dưới dắt mũi.

Về ngoại giao thì ông anh đắc tội với láng giềng, còn nội bộ thì ông em cũng gây ra chuyện.

Chúng ta đã đề cập trong phần Sparta rằng đồng tính luyến ái rất phổ biến ở Hy Lạp, và còn là mốt trong giới thượng lưu. Khi đó, người em Hipparchus đang mải mê đấu kiếm với một nam thanh niên trẻ tuổi xinh đẹp. Nghe nói là yêu đến chết đi sống lại, nhưng mấu chốt là, Hipparchus lại là tiểu tam!

Kiểu quan hệ tay ba này, hậu quả cuối cùng thường sẽ rất thảm khốc. Quả nhiên, người bạn trai chính thức sau khi biết mình bị cắm sừng đã nổi cơn thịnh nộ. Trong một buổi họp mặt công cộng, anh ta dùng dao đâm chết tình địch Hipparchus, hơn nữa nam thanh niên nọ cũng tham gia vào vụ ám sát. Theo luật pháp lúc bấy giờ, cả hai bị kết án tử hình ngay lập tức. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đó. Do cái chết của người em, người anh Hippias càng rơi vào tình thế bất lợi.

Vốn cái ghế của Hippias đã lung lay, nay người em lại bị giết vì một chuyện vớ vẩn như vậy, khiến một mình Hippias cai trị Athens rất khó khăn.

Và nhân vật chính của chúng ta trong phần này, Cleisthenes, đã hiên ngang bước ra sân khấu khi Hippias đang bị mắc kẹt trong vô vàn khó khăn.

Cleisthenes xuất thân danh môn, lại là con trai trưởng của gia tộc, nhưng ngay từ khi còn rất trẻ, ông đã phải bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài. Lý do là gia tộc của ông chính là thủ lĩnh Phe Bờ Biển của Athens, gia tộc Alcmaeonidae. Gia tộc này đã thất bại thảm hại trong cuộc đấu tranh với Peisistratus năm xưa, kết quả là buộc phải chạy trốn ra nước ngoài. Ông ngoại của Cleisthenes là một nhà lãnh đạo vĩ đại của thành bang Sicyon gần Athens lúc bấy giờ, thuộc kiểu quý tộc tinh hoa điển hình. Con rể của ông, tức là cha của Cleisthenes, chính là người cha vợ đã gả con gái cho Peisistratus mà chúng ta đã nói ở phần trước. Nói cách khác, Cleisthenes là em vợ của Peisistratus. Nhưng sự tàn khốc của đấu tranh chính trị nằm ở chỗ nó chỉ có lợi ích, không có tình thân. Năm Cleisthenes 19 tuổi, Peisistratus đã sử dụng thủ đoạn vô song của mình để chiến thắng toàn bộ gia tộc Alcmaeonidae. Thế là, Cleisthenes trẻ tuổi cũng đành phải theo cha lưu vong ở nước ngoài.

Đến thời Hippias, Cleisthenes đã 50 tuổi. Suốt mấy chục năm, ông luôn canh cánh trong lòng ý định quay về quê hương. Bây giờ, nhìn thấy cơ hội đã đến, ông lập tức hành động.

Tất nhiên, ông không ngây thơ đến mức nghĩ rằng chỉ bằng sức lực của mình là có thể đánh về được. Dù sao, nền móng Peisistratus đã xây dựng ở Athens quá sâu, ngay cả khi Athens hiện tại đang nội loạn ngoại xâm, họ vẫn có đủ sức để dễ dàng đối phó với Cleisthenes.

Cleisthenes nghĩ đến Sparta.

Sparta lúc bấy giờ là cường quốc số một của thế giới Hy Lạp, lại còn có Liên minh Peloponnese trong tay, sức mạnh quân sự tuyệt đối dẫn đầu. Chính vì nhìn thấy điểm này, Cleisthenes đã tìm đến vua Cleomenes của Sparta. Hai bên gặp gỡ, đàm phán một phen rồi đạt được thỏa thuận, Sparta đồng ý xuất quân giúp Cleisthenes đánh về Athens.

Lục quân Sparta có sức chiến đấu cực kỳ kinh khủng. Hippias tổ chức trọng binh phòng thủ trọng điểm ở khu vực phía Bắc Athens. Thành thật mà nói, Hippias đã chiến đấu rất tốt, thậm chí đã từng đẩy lùi quân đội Sparta, nhưng cuối cùng vẫn không thể chống lại đoàn quân bộ binh hạng nặng của Sparta hung hãn. Họ thua chạy liên tục, quân Sparta truy kích không ngừng, thậm chí còn đánh vào tận thành Athens mà không chịu dừng lại, truy đuổi đến tận Acropolis, dồn Hippias vào một pháo đài trên núi. Lúc này, Cleisthenes mới ra mặt chủ trì đàm phán.

Kết quả đàm phán nhanh chóng được đưa ra: Hippias đầu hàng, từ bỏ mọi chức vụ và quyền lực, vĩnh viễn rời khỏi Athens. Cleisthenes cũng khá rộng lượng, không chơi trò nhổ cỏ tận gốc mà đảm bảo an toàn tính mạng cho Hippias và tất cả tùy tùng của ông ta, phái quân hộ tống họ ra khỏi thành. Sau khi rời Athens, Hippias quay về vùng Thessaly ở phía Bắc, nơi người cha Peisistratus từng kinh doanh. Gia đình họ vẫn còn nhiều tài sản ở đó, con cháu cũng được sống sung túc. Phải nói rằng, điều này nhân văn hơn rất nhiều so với cách làm của các nước phương Đông.

Đến đây, Peisistratus và thời đại do ông khai sáng đã chính thức chấm dứt. Bạn nghĩ rằng Athens sẽ lập tức bước vào thời đại của Cleisthenes đúng không?

Không hề.

Cleisthenes đã quét sạch ảnh hưởng của Peisistratus, nhưng dù sao ông cũng phải dựa vào Sparta mới có thể làm được tất cả những điều này. Bây giờ, Sparta đã vào Athens, liệu họ có chịu khoanh tay mặc kệ chuyện nội bộ của Athens không?

Làm gì có chuyện đó?

Người Sparta tuy thô kệch, nhưng đầu óc chính trị cơ bản vẫn có. Cleisthenes đã giành được Athens nhờ chúng ta, vậy thì phải thiết lập một chính quyền thân Sparta, tầng lớp lãnh đạo phải là những người nghe lời Sparta. Nói cách khác, Cleisthenes sau này phải phục tùng sự lãnh đạo của Sparta. Đứng trên lập trường của Sparta, tôi giúp ông đánh xong trận, thì xong việc tôi cũng phải nhận được chút lợi ích, đó là hợp tình hợp lý, nếu không chẳng phải là tốn công vô ích sao?

Tuy nhiên, Cleisthenes không chịu.

Tôi gọi các anh Sparta đến đây là để đánh thuê, tôi cũng đã trả thù lao cho các anh. Đánh xong rồi, các anh nên thu quân về. Tiếp theo, tôi sẽ cải tạo Athens theo ý tưởng của tôi, đâu đến lượt các anh chỉ tay năm ngón?

Sự bất đồng cứ thế nảy sinh. Kết quả là Sparta dựa vào sức mạnh vũ lực, thẳng thừng loại bỏ vị trí lãnh đạo của Cleisthenes. Vua Cleomenes của Sparta dẫn theo một đội quân trực tiếp tiến vào thành Athens (Athens lúc bấy giờ không có tường thành), can thiệp vào cuộc bầu cử năm đó. Họ đưa một người tên là Isagoras lên, người này đã thắng cử vị trí chấp chính trưởng quan. Đương nhiên ai cũng biết, đây chỉ là một con rối.

Quả nhiên, con rối này vừa lên nắm quyền đã ban hành vài sắc lệnh gây ra một làn sóng phản đối:

Nói một cách đơn giản, đó là "Ba cút đi":

• Phàm là người từng làm việc cho Peisistratus, cút đi;

• Phàm là người trong gia tộc Cleisthenes, cút đi;

• Đại hội Công dân và Hội đồng 400, cút đi.

Nếu xem xét tổng thể ba sắc lệnh này, thì cốt lõi chỉ có một: Đuổi những người ủng hộ cải cách Solon, sao chép lại bộ quy tắc của Lycurgus ở Athens.

Lần này, phần lớn người dân Athens không chịu được nữa. Công dân Athens đồng loạt nổi dậy tấn công, bao vây quân Sparta trong thành Athens. Lúc này, Cleisthenes một lần nữa xuất hiện trong đám đông, vừa đe dọa vừa khuyên nhủ người Sparta. Người Sparta thấy đối phương quá đông, không thể xông ra được, đành phải miễn cưỡng đồng ý lời khuyên của Cleisthenes, dẫn quân rút lui.

Sparta vừa rút, Cleisthenes nhanh chóng xử lý con rối Isagoras và đồng bọn của hắn, kẻ bị bắt, kẻ bỏ trốn. Cleisthenes giành lại quyền kiểm soát cục diện.

Năm 508 TCN, Cleisthenes chính thức được bầu làm chấp chính trưởng quan của Athens. Sau bao nhiêu gian nan trắc trở và đấu tranh nội bộ, Cleisthenes cuối cùng đã nắm chắc quyền lực tối cao của Athens. Nắm đó, ông đã bước sang tuổi 57. Tính từ năm 19 tuổi lưu vong ở nước ngoài, đã trôi qua tròn 38 năm.

Gian nan khổ cực, tôi luyện thành công!

Sau khi đắc cử, Cleisthenes bắt đầu cuộc Cải cách Cleisthenes nổi tiếng. Lần này, chế độ dân chủ của Athens cuối cùng cũng sắp định hình hoàn toàn.

Cuộc cải cách của Cleisthenes đã thừa kế hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống của Solon, nhưng trong khía cạnh thể chế chính trị, ông đã thực hiện một số hoàn thiện tương đối lớn, hoàn toàn ngăn chặn sự trỗi dậy trở lại của nền chuyên chính.

Dựa trên nguyên tắc cốt lõi này, hai chính sách quan trọng nhất mà Cleisthenes thúc đẩy là sáng lập hệ thống hộ tịch và hoàn thiện chế độ lưỡng viện.

Nói đến hệ thống hộ tịch, chúng ta phải nhớ lại một điều đã nói ở phần đầu của Athens: khi Theseus xây dựng thành Athens, người dân sống tập trung theo đơn vị bộ lạc. Mà bản chất của bộ lạc là sự tập hợp các gia đình có quan hệ huyết thống với nhau. Nói cách khác, từ Theseus đến Solon rồi đến Peisistratus, cuộc sống xã hội của Athens luôn lấy huyết thống làm sợi dây liên kết để giao tiếp và tương tác giữa người với người.

Cuộc cải cách của Solon đã làm giảm ưu thế bẩm sinh của giới quý tộc, được coi là một bước tiến, nhưng ưu thế huyết thống của quý tộc vẫn còn. Và cơ cấu xã hội dựa trên huyết thống đặc biệt dễ sinh ra các gia tộc lớn. Những gia tộc giàu có này có thể sử dụng ảnh hưởng ngày càng lớn để dần dần thu được hoặc thậm chí độc quyền các nguồn lực kinh tế, chính trị, cuối cùng sẽ hình thành cục diện một hoặc vài nhà độc quyền. Sau đó, tất yếu sẽ xảy ra xu hướng quyền lực cai trị ngày càng tập trung vào các gia tộc lớn này.

Hiểu rõ điều này, bước đầu tiên của Cleisthenes chính là phá vỡ sự liên kết mạnh mẽ giữa các bộ tộc.

Nói một cách đơn giản, Cleisthenes đã tiến thêm một bước dựa trên cải cách của Solon: thiết lập mô hình quản lý phân khu, làm suy yếu hơn nữa ưu thế của tập đoàn quý tộc.

Các ngươi tập trung theo bốn bộ tộc riêng biệt chứ gì? Bây giờ tôi dựa vào cấu trúc địa hình của Athens, chia ra 10 khu vực. Sau này, việc quản lý cá nhân và gia đình sẽ không còn nhìn vào việc bạn đến từ bộ tộc nào, mà nhìn vào việc bạn đến từ khu vực nào. Bạn được phân vào khu vực nào, chính phủ sẽ cấp hộ tịch cho bạn. Sau này, mọi hoạt động của bạn ở Athens đều lấy hộ tịch làm cơ sở quản lý. Hộ tịch của bạn ở đâu thì thuộc quản lý của khu vực đó, sinh ra, giáo dục, giao tiếp, hôn nhân, tử vong của bạn đều được truy cứu và quản lý thống nhất tại nơi có hộ tịch. Bản chất của cách làm này của Cleisthenes là chuyển mối liên kết giữa người với người từ huyết thống sang địa lý, thông qua việc chia cắt thế lực của quý tộc để đạt được mục đích ngăn chặn sự xuất hiện của các thế lực hùng mạnh. Như vậy, những gia tộc quyền quý này sẽ không thể gây ra sóng gió hoặc tạo ra mối đe dọa lớn đối với chính quyền trung ương.

Thật là cao tay!

Sau khi hoàn thành hệ thống hộ tịch, những thay đổi về thể chế chính trị tương ứng cũng diễn ra một cách hợp lý. Thời Solon, Hội đồng 400 được hình thành từ 100 nghị viên do mỗi bộ tộc lớn bầu ra. Bây giờ, nó được đổi thành Hội đồng 500, gồm 50 người do mỗi khu vực trong số 10 khu vực báo cáo lên. Hơn nữa, 50 người của mỗi khu vực không được bầu ra mà được chọn bằng cách bốc thăm. Điều này biến thành một trò chơi mọi người đều bình đẳng, nghĩa là ai cũng có cơ hội trở thành nghị sĩ của khu vực mình. Bằng cách này, tầng lớp tinh hoa sẽ khó thao túng chính trị hơn. Điều này không chỉ giảm thiểu xác suất những người có ảnh hưởng lớn thường xuyên thắng cử, mà còn mở rộng cơ sở xã hội cho sự tham gia chính trị của toàn dân. Có thể nói là đã tốn rất nhiều tâm sức.

Mục đích chính của Cleisthenes là để ngăn chặn sự xuất hiện của chuyên chính, nhưng hiệu quả khách quan của nó lại là phát minh ra cơ sở xã hội của chính trị dân chủ hiện đại: khu vực bầu cử. Chỉ với riêng điều này, Cleisthenes đã có thể lưu danh sử sách.

Hoàn thành hệ thống hộ tịch, tiếp theo Cleisthenes cũng thực hiện những thay đổi lớn trong tầng lớp lãnh đạo.

Cleisthenes giữ lại nhóm chấp chính quan, nhưng bổ sung thêm chức vụ "Tướng quân".

Cleisthenes quy định, mỗi khu vực bầu ra một chấp chính quan, như vậy số lượng chấp chính quan đã tăng từ 9 lên 10 người. Đồng thời, trên cơ sở 500 nghị sĩ, bầu ra 10 vị Tướng quân, chịu trách nhiệm cụ thể về quân sự và ngoại giao của Athens. Thay đổi này đã khiến quyền lực ban đầu được chia sẻ bởi 9 chấp chính quan bị chia nhỏ thành 20 phần. Hơn nữa, Cleisthenes cố ý tăng cường tiếng nói của "10 Tướng quân" trong các vấn đề của thành bang Athens, nhằm mục đích trấn áp chức năng và uy quyền của nhóm chấp chính quan. Cuối cùng, chấp chính quan chỉ còn phụ trách các công việc hành chính thường ngày trong khu vực bầu cử, trong khi các vấn đề quốc gia quan trọng đều tập trung trong tay 10 Tướng quân. Như vậy, tầm quan trọng của vị trí chấp chính quan vốn luôn bị các gia tộc lớn kiểm soát đã bị suy giảm đáng kể, và thế lực của tập đoàn quý tộc cũng bị suy yếu theo. 10 vị Tướng quân được bầu ra bởi Đại hội Công dân, mà Đại hội Công dân chỉ cần là nam giới đủ 20 tuổi đều có thể tham gia bất kể giàu nghèo, nên 10 vị Tướng quân được bầu ra này thuộc mọi tầng lớp, khó bị tầng lớp quý tộc kiểm soát. Như vậy, quyền lực có thể tương đối phân tán, người xuất sắc trong tầng lớp bình dân có cơ hội vươn lên, sự lưu động giữa các tầng lớp có thể trở nên sôi nổi hơn.

Tiếp theo, Cleisthenes lại mở rộng ngọn lửa cải cách sang cơ chế ra quyết định của thành bang. Tư tưởng cải cách của ông cũng rất rõ ràng: Quần chúng tham gia nhiều hơn, quý tộc đứng sang một bên.

Chúng ta đã đề cập trước đây rằng Athens thực hiện chế độ ra quyết định lưỡng viện ở dạng sơ khai, Hội đồng 400 cộng với Hội đồng Đồi Chiến Thần đã tạo nên cấu trúc cơ bản của việc ra quyết định. Nhưng vấn đề ở đây là, mặc dù Hội đồng Đồi Chiến Thần không phải là một tổ chức chính thức, nhưng do các thành viên bên trong đều là người giàu có hoặc quý tộc, nên tổ chức này có tiếng nói và ảnh hưởng rất lớn khi xem xét các dự luật do Hội đồng 400 đệ trình. Về bản chất, Hội đồng Areopagus gián tiếp nắm giữ quyền phủ quyết. Tiếng nói quá mạnh mẽ của nhóm người này đã khiến hiện tượng giới tinh hoa quý tộc nắm giữ quyền lực không thể thay đổi về căn bản, và những yêu cầu của người bình dân không được đề đạt hiệu quả. Do đó, Cleisthenes đã tập trung vào cấu trúc lưỡng viện này để cải cách.

Cách làm cụ thể là mở rộng phạm vi quyền hạn của Đại hội Công dân và thay thế Hội đồng Đồi Chiến Thần bằng Hội đồng 500.

Ban đầu, Đại hội Công dân chỉ có quyền bỏ phiếu, không có quyền đề xuất, cũng không có quyền phủ quyết, không thể có tiếng nói gì về các vấn đề quân sự và chính trị lớn. Bây giờ, Cleisthenes đã mở rộng mạnh mẽ quyền hạn của Đại hội Công dân, trao phần lớn quyền lực cho Đại hội Công dân, bao gồm quyền lực về tài chính, lập pháp và giám sát, tất cả đều giao cho Đại hội Công dân. Từ đó, Đại hội Công dân thay đổi hoàn toàn, trở thành cơ quan chính trị cốt lõi, quyết định mọi việc lớn nhỏ. Đối với Hội đồng Đồi Chiến Thần, Cleisthenes đã nắm bắt được điểm yếu là nó không phải là tổ chức chính thức, thế là chuyển các chức năng ban đầu thuộc về Hội đồng Areopagus như chức năng tư pháp sang Hội đồng 500. Kể từ đó, Đại hội Công dân chỉ chấp nhận các đề xuất đến từ Hội đồng 500, còn Hội đồng Đồi Chiến Thần trở thành một tổ chức mang tính danh dự, hoàn toàn bị gạt ra ngoài lề.

Những thay đổi như vậy đã khá mạnh mẽ để đảm bảo nền dân chủ, nhưng Cleisthenes vẫn không yên tâm. Cuối cùng, ông tung ra một "sát chiêu": Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm (Ostracism).

Sắc lệnh này là một biện pháp bổ sung cực đoan và gây tranh cãi lớn cho hệ thống của Cleisthenes.

Nội dung của Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm mộc mạc đến mức phát khóc: Họp, bỏ phiếu, đuổi người.

Vậy bạn sẽ hỏi: Đuổi ai? Tại sao? Dựa vào đâu?

Câu trả lời là: Bất cứ ai. Không cần biết tại sao. Dựa vào ý chí cá nhân của tôi.

Cách làm cụ thể là, thành Athens tổ chức Đại hội Công dân không định kỳ, mọi người tự do biểu quyết sẽ lưu đày ai. Bạn viết tên người đó lên mảnh gốm vỡ và giao cho Đại hội. Sau đó, công khai kiểm phiếu. Cleisthenes quy định, khi triệu tập Đại hội, chỉ cần có 6.000 người đến họp là có thể bắt đầu bỏ phiếu. Chỉ cần số phiếu của một người quá bán thì người đó phải nhanh chóng thu dọn hành lý và cút đi. Bất kể người đó hiện đang giữ chức vụ gì, hay hậu quả sau khi người đó đi sẽ ra sao, chỉ cần phù hợp với nguyên tắc bỏ phiếu bằng mảnh gốm này, ai cũng phải cút đi ngay lập tức, vô điều kiện. Sau khi bị lưu đày, tài sản và gia đình của bạn ở thành Athens sẽ không bị ảnh hưởng. Bản thân bạn phải lưu đày 10 năm ở bên ngoài mới được phép quay về Athens. Khi trở về, bạn vẫn là công dân Athens, vẫn có thể tham gia chính trị, có thể bầu cử và được bầu cử. Tất cả các quyền của bạn sẽ được phục hồi và tôn trọng. Coi như chưa từng có chuyện gì xảy ra trước đó.

Bạn có thấy ý tưởng này quá kỳ quặc không? Lão già Cleisthenes này đang nghĩ gì vậy?

Làm như vậy vẫn là để ngăn chặn chuyên chính.

Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm của Cleisthenes quả thực là một sát chiêu lớn để ngăn chặn sự trỗi dậy trở lại của chuyên chính, nhưng nó cũng không thể tránh khỏi việc trở thành công cụ đấu tranh chính trị. Trên con đường Athens chuyển mình và trỗi dậy sau này, Luật Bỏ phiếu bằng Mảnh gốm đã nhiều lần được sử dụng để thanh trừng đối lập, đả kích kẻ thù chính trị. Đây chính là lý do khiến nó gây tranh cãi. Chúng ta sẽ còn đề cập đến nhiều lần sau này.

Nhưng dù sao đi nữa, sau khi Cleisthenes hoàn thành việc sửa đổi một vài thể chế trên, tư tưởng của ông đã được quán triệt, khả năng các nhà lãnh đạo bất hợp pháp như chuyên chính xuất hiện trở lại cũng rất mong manh. Đến đây, công cuộc cải cách của Cleisthenes đã hoàn tất toàn bộ.

Từ Cải cách Hiến pháp của Solon, đến sự trỗi dậy kinh tế của Peisistratus, rồi đến Cải cách Dân chủ của Cleisthenes, Athens đã trải qua ba giai đoạn: khắc phục khủng hoảng, trỗi dậy kinh tế và dân chủ định hình. Từ một thành bang nhỏ bé vô danh, Athens đã vươn lên trở thành một cường quốc hạng nhất trong thế giới Hy Lạp. Nền móng chính trị và kinh tế của Athens từ đây được đặt vững chắc, tạo tiền đề để Athens phát triển hơn nữa thành một siêu cường. Trong thời gian tiếp theo, Athens đã luôn áp dụng hệ thống này, cho đến khi bị Vương quốc Macedonia thôn tính vào năm 322 TCN, kéo dài hơn 200 năm. Athens không chỉ tạo ra thời kỳ hoàng kim rực rỡ khi còn tồn tại, mà còn cung cấp một mô hình thực tế cho sự phát triển của các thể chế chính trị phương Tây sau này.

Đến đây, hành trình trỗi dậy của hai gã khổng lồ trong thế giới Hy Lạp đã được giới thiệu xong. Sparta và Athens đã trở thành cường quốc, nhưng muốn trở thành siêu cường thì còn phải trải qua rửa tội bằng máu và lửa, bằng chiến tranh. Giống như một con dao tốt luôn cần phải được mài bằng đá mài mới có thể sắc bén. Và hòn đá mài này có tên là Ba Tư. Quá trình mài giũa chính là hai cuộc Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư.

Bài viết hôm nay hơi dài, hơi lan man, nhưng không thể không viết, vì đó là những dấu ấn không thể phải mờ trên hành trình trỗi dậy và tỏa sáng của văn minh Hy Lạp. Yên tâm, rất nhanh sẽ đến những sự kiện bạn vẫn mong chờ như Marathon, Thermopylae, 300 Dũng sĩ Sparta, Hải chiến Salamis, Trận chiến Plataea rồi.
Sự khác biệt của Hy Lạp và Phương Đông là gia tộc. Cuối cùng thì các gia tộc lớn ở phương Đông như Trung Quốc vẫn cầm quyền. Còn ở Hy Lạp, những người giỏi làm việc đến chết mà con cháu (trong gia tộc) không đủ tầm thì vẫn bị đuổi , khổ thay
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top