Hổ tướng Nguyễn Hữu An trong hồi ký "Chiến trường mới" có thuật lại một chương về trận đánh phòng thủ Quảng Trị. Ông nhận lệnh từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào biệt phái tại sư đoàn 308 lúc đó đang tham gia trận đánh trong khu vực. Tướng An vào đến sở chỉ huy 308 vào ngày 20/7/1972, khi cuộc chiến bước vào giai đoạn dữ dội nhất.
Thượng tướng Nguyễn Hữu An là một chỉ huy đi lên từ trận mạc. Tất cả những trận đánh dữ dội nhất trong hai cuộc kháng chiến Pháp, Mỹ ông đều hiện diện. Năm 1954 ông chỉ huy trung đoàn 174 đánh trận khốc liệt nhất tại Điện Biên Phủ là trận đánh đồi A1. Năm 1966 ông chỉ huy đánh trận Iadrang, trận đánh đầu tiên với chủ lực Mỹ (Mel Gibson về sau dựng phim We are the soldier về trận đánh này, hơi bố láo so với lịch sử), các trận đánh Sa Thầy, Plâyme, Cánh đồng Chum (chiến dịch Z) ông đều tham gia, gần như không rời chiến trường trong suốt hai cuộc khánh chiến, luôn có mặt tại những trận đánh dữ dội nhất. Năm 1975, ông là tư lệnh quân đoàn 2, chỉ huy đánh chiếm Huế, Đà Nẵng. Sau đó Quân đoàn 2 là lực lượng chủ công của cánh quân Duyên Hải, đã đánh trong hành tiến trong hơn 3 tuần, vượt hơn 1000 km vào phối hợp đánh chiếm Sài Gòn. Quân đoàn 2 cũng là cánh quân đã chiếm dinh độc lập. Phải nói cuộc đời trận mạc của tướng An là một huyền thoại.
Trong chương viết về trận Quảng Trị, tướng An có nhắc tới tư duy chỉ huy không thỏa đáng của các cấp chỉ huy mặt trận Quảng Trị: "Sau thắng lợi ban đầu, địch phản kích mạnh, so sánh lực lượng thì địch mạnh hơn ta, nhưng tư tưởng chỉ đạo vẫn là tiến công và phản kích. Trong khi thực tế chiến trường cho thấy cần phải phòng ngự". Khi tướng An nêu quan điểm này thì bị nhiều người tấn công, không nói thẳng ra nhưng có ý coi ông là "hèn nhát". Là một chỉ huy quân sự giàu kinh nghiệm, ông viết "Tấn công hay phòng ngự chỉ là các hình thái chiến thuật trong chiến tranh, tùy thuộc hoàn cảnh để áp dụng. Nhưng thời điểm đó nếu ai nói quan điểm phòng ngự thì bị coi là có vấn đề tư tưởng". Rất may tướng An là một chỉ huy đi lên từ chiến đấu, nhiều năm không rời chiến trường, nên ông không bị kỳ thị hay quy kết.
Ông nhắc đến quan điểm 3 chưa, 1 ngay:
- Chưa nắm được tình hình địch ta
- Chưa có tiếp tế gạo, đạn
- Chưa chuẩn bị đầy đủ kế hoạch
Nhưng 1 ngay là: Phải tấn công ngay.
Tướng An sau đó báo cáo với quân ủy về quan điểm chuyển sang thế phòng ngự, nhưng vì nhiều lý do, tư tưởng chỉ đạo vẫn là phản kích (tấn công). Trong hồi ký này, tướng An có thuật lại câu chuyện trao đổi với Đại Tướng Võ Nguyên Giáp:
- Nếu hồi đó cho cậu chuyển sang phòng ngự thì có giữ được không?
- Báo cáo anh 100% thì không cam đoan, nhưng 90 - 95% thì giữ được (mặt trận Quảng Trị)
Dĩ nhiên chiến tranh không thể đoan chắc điều gì vì sức mạnh lực lượng VNCH năm 1972 với chi viện hỏa lực bom, pháo không giới hạn của hạm đội 7 Mỹ là rất lớn. Nhưng ý kiến của một vị tướng đối đầu trực tiếp với Mỹ trong nhiều trận đánh ác liệt và tham gia vào tất cả các trận đánh lớn như tướng An có sức nặng thuyết phục.