[Funland] Những trận đánh nổi tiếng thế giới

Trạng thái
Thớt đang đóng

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Cái Kết

Chiến thắng của Hồng quân tại Kharkov vào mùa hè năm 1943 có ý nghĩa là họ đã báo thù cho món nợ tại Barenkovo năm 1942. Từ ngày 20 tháng 10, Không quân Đức tập trung ngăn chặn trong khoảng một tuần việc Hồng quân tiến từ Kremenchug vượt sông Dnepr về phía Krivoi Rog. Các trận không kích này đã giúp Quân đội Đức ngăn chặn bước tiến của Liên Xô trước Krivoi Rog. Tuy nhiên, thành công này phải trả giá. Các đợt không kích này đã làm suy yếu đáng kể không quân Đức, cùng với sự điều chuyển của Quân đội Đức về phía nam, đã mở ra con đường giải phóng Kiev của Hồng quân.

Các lực lượng Liên Xô chiếm lại thủ đô Ukraine vào ngày 6 tháng 11 năm 1943. Đến tháng 12, Hồng quân đã tiến lên 800 dặm và giải phóng gần 2/3 lãnh thổ bị quân đội Đức chiếm đóng. Việc giải phóng Kiev và củng cố các đầu cầu lớn qua Dnepr ở xa hơn về phía nam, chưa đầy 5 tháng sau khi Hitler thất bại tại Kursk, đã minh họa rõ ràng những gì mà sức mạnh giữa lục quân và không quân Liên Xô có thể đạt được trên một chiến trường rộng lớn.

Vào cuối năm 1943, quân đội của Stalin đã giải phóng phía tây Dnepr của Ukraine. Các phương diện quân Ukraina 1, 2, 3 và 4 tập trung đông đảo 2,3 triệu người, 2.040 xe tăng và pháo tự hành, 28.800 khẩu pháo dã chiến và súng cối cùng 2.370 máy bay để tiêu diệt Cụm tập đoàn quân Nam của Manstein và Tập đoàn quân A của Kleist. Quân Đức có thể tập hợp 1,7 triệu quân, với 2.200 xe tăng/thiết giáp, 16.800 khẩu súng dã chiến và 1.460 máy bay ném bom. Ngoài ra, 50.000 du kích Liên Xô đã đóng vai trò gây rối loạn các khu vực hậu phương của quân Đức.

1641031123808.png

1641031199486.png

Xe tăng Panzer IV của Đức

1641032451745.png

1641032502388.png

1641032549783.png

1641032602530.png

Xe tăng Tiger I của Đức

1641031516608.png

Các sĩ quan cấp cao của Đức trong một trận đánh, phía sau họ là chiếc Panzer

1641031578685.png

1641031612999.png

Lính trinh sát pháo binh của Đức

1641031660012.png

1641031694453.png

Phân đội hỏa lực của Đức

1641031758105.png

1641031784095.png

1641031805891.png

1641031946496.png

Lính bắn tỉa Đức

1641031887922.png

Lính liên lạc Đức

1641032106966.png

1641032192628.png

Pháo phòng không 37mm của Đức

Sau khi quân Đức chiếm Zhitomir và hướng tiến công vào Kiev, Bộ tư lệnh tối cao Liên Xô đã ra lệnh cho Phương diện quân Ukraina 1 tiêu diệt Tập đoàn quân thiết giáp số 4 trong Chiến dịch Zhitomir – Berdichev. Đối với cuộc tấn công Phương diện quân Ukraina số 1 của Vatutin đã tập trung 63 sư đoàn bộ binh và 03 sư đoàn kỵ binh, cộng với 06 quân đoàn xe tăng và 02 quân đoàn cơ giới hóa.

1641033859603.png

Khẩu đội súng máy phòng không Liên xô

1641031327735.png

Hồng quân Liên xô tấn công

1641031442242.png

1641032031798.png

1641031409767.png

Hoả tiễn của Hồng quân khai hỏa

1641034005158.png

Người lính của Phương diện quân Ukraine I đang chở một đồng đội bị thương

1641034142520.png

Công binh Hồng quân gỡ mìn chống tăng của Đức gài lại trên một con đường ngoại ô Kharkov, tháng 8-1943

Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 24 tháng 12 năm 1943 và trong vòng 6 ngày đã tạo ra một cuộc đột phá rộng 187 dặm và sâu 62 dặm. Cuộc đột phá về phía tây nam của Kiev đã khiến Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của Đức phải lùi lại hơn 100 dặm, để lộ sườn phải của Tập đoàn quân số 8 của Đức và vị trí phòng thủ của nó trên bờ phía nam của Dnepr, và không lâu trước khi Hồng quân định bao vây nó. Điều này rất quan trọng vì các lực lượng này đã chiếm giữ các vị trí giao nhau của Phương diện quân Ukraina 1 và 2. Nó được Liên Xô gọi là “hũ” Korsun – Shevchenkovsky, nhưng còn được gọi là “hũ” Cherkassy. Theo tình báo Liên Xô, Tập đoàn quân 1 và 8 của Đức có 9 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn thiết giáp và một sư đoàn cơ giới. Để áp đảo lực lượng này, ngày 24 tháng 1 năm 1944, Hồng quân sử dụng 27 sư đoàn bộ binh, 4 quân đoàn xe tăng, một quân đoàn cơ giới và một quân đoàn kỵ binh được trang bị 370 xe tăng và pháo tự hành cùng gần 4.000 khẩu pháo và súng cối.

1641035506049.png

Pháo chống tăng Su-100 của Liên xô

1641035604801.png

1641035666072.png

1641035737798.png

1641035804963.png

Kíp lái tăng T-34 của Liên xô

1641035638449.png

Kíp lái tăng KV-1 của Liên xô

1641034974523.png

Phi công Liên xô bên chiếc YAK của mình

1641035054393.png

Lính thông tin Hồng quân

1641034527696.png

Tổ súng chống tăng của Hồng quân

1641034201448.png

Khẩu đội cối 120mm của Hồng quân

1641034472873.png

1641034589699.png

1641034353204.png

Lính thủy Liên xô tham chiến

Bộ chỉ huy cấp cao của Đức ra lệnh phản công, các Sư đoàn thiết giáp 4, 11 và 13 được điều đến vùng Novo-Mirgorod. Các Sư đoàn Thiết giáp số 16 và 7 cũng được tập trung tại khu vực Rizino. Tuy nhiên, nỗ lực bao vây thứ hai của Hồng quân vào ngày 3 tháng 2 đã thành công khi Phương diện quân Ukraina 1 và 2 gặp nhau gần Zvenigorodka, vây 56.000 quân Đức trong “hũ” Cherkassy.
Quân Đức cố gắng giải vây một cách tuyệt vọng, với Quân đoàn thiết giáp số 3 của Tập đoàn quân thiết giáp số 1 tiến công từ phía tây nam và Quân đoàn thiết giáp số 47 của tập đoàn quân số 8 tấn công từ phía nam. Sư đoàn thiết giáp số 5 SS dẫn đầu cuộc đột kích vào ngày 16 tháng 2, đối đầu với Tập đoàn quân cận vệ 4 và 27 của Liên Xô. Liên Xô tuyên bố trận chiến khiến 55.000 người Đức chết hoặc bị thương và 18.200 tù binh, trong khi quân Đức công nhận 30.000 người trốn thoát, 20.000 người bị giết và 8.000 người bị bắt.

1641031238434.png

Xe tăng Panzer IV của Đức bị bắn cháy

1641032680735.png

1641032727425.png

Pháo phòng không tự hành của Đức bị bỏ lại

1641032806079.png

1641032891632.png

Lính tăng Tiger I của Đức thiệt mạng bên chiếc xe của anh ta

1641033367638.png

Một chiếc máy bay Messerschmitt Bf 109F-4 "Black 19" của Đức bị bỏ lại

1641033482468.png

Hai chiếc tiêm kích Messerschmitt Bf 109F-4s của Đức bị tai nạn phải bỏ lại

1641032956239.png

Lính Đức thiệt mạng sau một trận đánh, phía sau là chiếc thiết giáp bị băn cháy

1641033023825.png

Xe tăng Tiger II của Đức bị bắn hỏng, cùng với nó là các ô tô bị bắn cháy sau một trận không kích của không quân Liên xô

1641033169517.png

1641033197849.png

Một chiếc máy bay ném bom Henkel của Đức bị bắn rơi

1641035122317.png

Lính Đức trong một trận đánh ở Kharkov, tháng 8-1943. Vẻ mặt người lính này toát lên sự lo âu.

1641035209158.png

1641035228274.png

1641035304169.png

1641035391719.png

Lính SS Đức
1641034409512.png

Lính thủy Hồng quân căm cờ tại cảng Kerch, Ukraine
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(tiếp)

Sau khi Vatutin bị thương nặng, Zhukov phụ trách tiêu diệt Cụm tập đoàn quân Nam của Manstein, nhằm bao vây các Tập đoàn quân thiết giáp số 1 và số 4 cùng với 200.000 quân Đức. Ông tấn công vào ngày 4 tháng 3, chiếm được vùng đất 100 dặm chỉ trong vài ngày. Sau khi Phương diện quân Ukraina 1 tiến đến phòng tuyến Tarnopol – Proskurov và Phương diện quân Ukraina 2 đã quét sạch Uman, Tập đoàn quân thiết giáp số 1 của Đức thực sự bị đe dọa bao vây. Trên tuyến đường tới Uman, quân Đức đã mất 200 máy bay chiến đấu, 600 khẩu súng dã chiến và 12.000 xe tải khi họ tìm cách tháo chạy. Hồng quân đã trả thù cho sự sỉ nhục của trận Uman năm 1941.

1641206011232.png

Tham mưu trưởng Phương diện quân 4 Ukraine, Trung tướng Sergey Semenovich Biryuzov, Ủy viên Ủy ban Quốc phòng Nhà nước Nguyên soái Liên Xô Kliment Yefremovich Voroshilov, Tổng tham mưu trưởng Nguyên soái Liên Xô Alexander Mikhailovich Vasilevsky tại bộ chỉ huy số 4 của Phương diện quân Ukraina

1641206372559.png

Xe tăng Pz.Kpfw.38 (t) của Trung đoàn xe tăng số 2 Romania tại Crimea

1641206499854.png

Khẩu đội pháo chống tăng 75mm của Romania tại Crimea

1641212189941.png

Khẩu đội pháo chống tăng của Đức

Tập đoàn quân số 17 của Tướng Erwin Jänecke ở Crimea, bị Phương diện quân Ukraina 4 và Bắc Caucasian bao vây từ cuối năm 1943, đối mặt với số phận tương tự như của Tập đoàn quân 6 tại Stalingrad. Mặc dù được bảo vệ bởi hệ thống phòng thủ đáng kể, nhưng tình hình đối với quân phòng thủ của Đức và Romania, tổng cộng khoảng 230.000 người, với 215 khẩu pháo, 3.600 khẩu súng cối và 148 máy bay, thực sự không tốt. Phương diện quân Ukraina 4 tấn công từ phía bắc và lực lượng hải quân đánh bộ Liên xô từ phía đông có sức mạnh áp đảo với 470.000 quân, 559 xe tăng và pháo tự hành, cùng gần 6.000 pháo dã chiến và súng cối, được hỗ trợ bởi 1.250 máy bay chiến đấu.

1641206727030.png

1641206747541.png

Hồng quân Liên xô vượt sông

1641206603679.png

Lính thủy Hồng quân tấn công một vị trí phòng thủ của Đức tại một nhà máy luyện kim ở Kerch

Cuộc tấn công giải phóng Crimea của Hồng quân bắt đầu vào ngày 8 tháng 4. Sự thất thủ của Kerch 3 sau đó đã rõ số phận của quân trú phòng và các tuyến phòng thủ phía bắc Perekop không thể giữ được, quân Đức bắt đầu di tản bất chấp mệnh lệnh của Hitler là phải cố thủ. Cho đến giữa tháng 5, Hải quân Romania đã sơ tán gần 121.000 người trên Biển Đen. Bị đẩy lùi trở lại Sevastopol, quân Đức mất 12.221 người và người Ý mất 17.652, cộng với gần như lực lượng cơ giới của họ. Tập đoàn quân 17 giữ vững đến ngày 9 tháng 5 và đầu cầu Khersones kéo dài đến ngày 12, khi 3.000 quân cuối cùng bị áp đảo. Tổng cộng, khoảng 25.000 quân Đức đã đầu hàng vào ngày hôm đó.

1641212244819.png

Một chiếc xe tăng Tiger I bị bắn cháy bên đường

1641212375139.png

1641212412411.png

1641212440477.png

1641212539357.png

1641212603792.png

Thêm những chiếc Tiger I khác bị phá hủy, trên thân của chúng còn rõ những vết xuyên của đạn chống tăng

1641212865227.png

1641212790364.png

1641212816521.png

1641212901815.png

1641212931113.png

1641212991106.png

Lực lượng SS trong một trận đánh ở ngoại ô Kharkov, tháng 8-1943

1641212680381.png

Lực lượng SS rút khỏi Kharkov, tháng 12-1943

1641213079193.png

1641213142609.png

1641213103785.png

Máy bay tiêm kích Messerschmitt Bf109 của Đức

1641213357012.png

1641213407983.png

1641213455596.png

1641213527192.png

Máy bay tiêm kích Messerschmitt Bf109 của Đức bị bắn hạ

1641206553418.png

Dân quân Crime

1641206775367.png

Crime giải phóng
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 5 năm 1944, Hồng quân đã đánh đuổi quân Đức ra khỏi phần lớn lãnh thổ Ukraine. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1944, Hồng quân đã đánh đuổi quân Đức khỏi Leningrad và Novgorod. Hitler và các tướng lĩnh của ông ta đã đoán trước được một cuộc tấn công mùa hè của Liên Xô nhưng họ không có cách nào đánh giá cao quy mô rộng lớn của nó. Nhờ những nỗ lực nghi binh Liên Xô, Hitler đã đoán trước được một cuộc tấn công khác vào Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraine và kịp thời di chuyển lực lượng Đức ở đó. Thay vào đó, Stalin tìm cách giải phóng Byelorussia và thủ đô Minsk bằng chiến dịch khác của ông.

Những chiến thắng của Hitler xung quanh Kharkov trong giai đoạn 1941–1943 đảm bảo rằng ông ta duy trì quyền kiểm soát Ukraine. Năm 1941, Hồng quân chỉ đơn giản là không có đủ khả năng để nắm giữ Kharkov. Những nỗ lực vào năm 1942 và 1943 để giải phóng thành phố đã chứng tỏ sự cố chấp của Stalin khi trong cả hai lần, Liên Xô đều bị đánh bại bởi các tướng lĩnh và lực lượng vượt trội hơn hẳn của Đức. Thất bại tháng 5 năm 1942 là một sự “sỉ nhục” và có thể tránh được nếu Stalin cho phép Timoshenko bảo vệ sườn phía nam của mình hoặc rút lui qua Dnepr một khi cuộc phản công của quân Đức bắt đầu.

Trong số tất cả các trận chiến xung quanh Kharkov, trận đánh của Thống chế von Manstein vào tháng 3 năm 1943 đã cho thấy những gì có thể đạt được nếu sự bảo thủ của Hitler được giảm bớt. Chỉ sau thất bại nặng nề của Hitler tại Kursk, Stalin mới có thể giải phóng thành phố Kharkov một lần và mãi mãi.

1641349877528.png

Hồng quân chết nằm ngổn ngang bên vệ đường, trên đường là quân Đức hành quân. Quân đội Liên Xô bị thương vong nặng nề trong suốt mùa hè năm 1943, nhưng sự hy sinh của họ cuối cùng đã đạt được chiến thắng trước quân Đức bị đánh đuổi khỏi Ukraine.

1641350036474.png

Tù binh Hồng quân sau những trận đánh gần Kharkov, năm 1942

1641350160994.png

Một hạ sĩ Đức và đồng đội của anh ta tạo dáng với một lá cờ của Liên Xô

1641350237062.png

Sau khi Hồng quân giải phóng Kharkov, khoảng 20.000 quân Đức đã bị tiêu diệt tại khu vực Cherkassy.

1641350305632.png

Phần còn lại của một bức tượng Stalin

1641384250298.png

1641384286938.png

Việc Đức chiếm đóng Liên Xô dẫn đến việc các thành phố ở Nga, Byelorussia và Ukraine bị phá hủy hoàn toàn. Các tòa nhà và di tích lịch sử đã bị phá hủy bởi các cuộc giao tranh và phá hoại bừa bãi.

1641384373170.png

Một chiếc xe tăng hạng nhẹ T-26 mẫu đầu tiên nằm bị bỏ rơi trên đường phố Kharkov năm 1941

1641384423104.png

Người lính Đức này đang xem những khẩu súng trường mà Hồng quân bỏ lại

1641384569454.png

Kiev, thủ đô của Ukraina, được Hồng quân giải phóng vào ngày 6 tháng 11 năm 1943. Quân Đức đã cho nổ tung mọi thứ mà họ không thể mang theo, bao gồm những gì còn lại của các nhà máy của thành phố.

1641384661929.png

Quân Đức tại mặt trận phía Đông mùa đông năm 1943-1944. Qua mùa đông năm 1943/44, quân Đức đã bị đẩy khỏi Crimea và Ukraine bởi một loạt các cuộc tấn công của Hồng quân.

1641384861600.png

Một khẩu súng máy Maxim của Hồng quân bị quân Đức thu được và một số mũ bảo hiểm M40 đánh dấu những ngôi mộ của quân Đức. Tại Sevastopol ở Crimea, quân Đức thiệt hại hơn 12.000 người chết và 25.000 người bị bắt.

1641385125876.png

Ban đầu, nhiều người Ukraine hoan nghênh cuộc xâm lược của Đức với hy vọng rằng Hitler sẽ ủng hộ chủ nghĩa dân tộc và độc lập cho Ukraine. Trên thực tế, Hitler không mấy quan tâm đến việc ủng hộ những nguyện vọng như vậy.

1641384958174.png

Một sĩ quan Không quân Đức và một người dân địa phương trước bức tượng bị lật đổ của Stalin. Việc giải phóng Kharkov và sau đó là Kiev vào năm 1943 đánh dấu việc đẩy quân đội Quốc xã khỏi Ukraine. Byelorussia và Minsk sẽ tiếp theo vào mùa hè năm 1944.

1641385238932.png

Bùn lầy, tuyết tan là nỗi ác mộng của quân Đức ở Mặt trận phía Đông.

1641385280537.png

Người lính Đức này đứng trước mộ Hạ sĩ Benz, người đã bị giết vào ngày 28 tháng 3 năm 1943. Khi quân Đức rút đi, họ không có cách nào để hồi hương những người được chôn cất ở Liên Xô. Không thể tránh khỏi hàng chục nghìn ngôi mộ đã bị tàn phá bởi sự báo thù của Hồng quân.

1641385427517.png

Khi quân Đức bị đẩy lùi từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 5 năm 1944, các ngôi mộ một lần nữa ngày càng trở nên tạm bợ.

1641385474137.png

Dân cư thành phố Kharkov trở về nhà sau khi Hồng quân giải phòng thành phố tháng 12 năm 1943.

1641440532288.png

Kiev đã sạch bóng quân Đức

1641440652351.png

Lực lượng SS rút khỏi Kiev

1641440724002.png

Sự căng thẳng trong chiến đấu hiện rõ trên khuôn mặt của một lính SS Đức ở Zhytomyr, Ukraine, dường như không để ý đến sự tàn phá xung quanh anh ta. Bức ảnh này được chụp vào ngày 21 tháng 12 năm 1943.

1641441006834.png

Hồng quân tiến vào Kiev
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Cách người Đức sử dụng xe tăng tốt nhất của Liên Xô

T-34 nổi tiếng của Liên Xô phục vụ Đệ tam Đế chế không chỉ với vai trò là một chiếc xe tăng. Người Đức đã chuyển đổi những chiếc T-34 bị bắt thành xe thu hồi và pháo phòng không tự hành, và sử dụng chúng như một nguồn vũ khí cho các đoàn tàu bọc thép.

1641442838416.png

1641442725556.png

1641442893404.png

1641442777290.png

Xe tăng T-34-76 của Liên xô

1641442952592.png

1641442976562.png

1641443086792.png

1641443109845.png

1641443164577.png

Xe tăng T-34-85 của Liên xô

1641443063319.png

Một chiếc T-34-85 bị bắn cháy trên đường phố

1641442928677.png

1641443256529.png

1641445494695.png

Xe tăng T-34 của Liên Xô bị quân Đức thu được sau các cuộc giao tranh

T-34 là xe tăng tốt nhất của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Được trang bị và bảo vệ tốt, nhanh chóng và cơ động, nó là vô song trên chiến trường cho đến năm 1942.
“Xe tăng T-34 đáng tin cậy trên mọi địa hình”, Đại tá Johannes Friesner, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam Ukraine (Đức), nhớ lại: “Xe tăng Nga có thể hoạt động ở những nơi mà chúng tôi nghĩ là không thể. Hỏa lực của T-34 cũng rất ấn tượng. Đối với bộ binh Liên Xô, nó đóng vai trò như một phương tiện hỗ trợ và dẫn đường tuyệt vời ”.
Không có gì ngạc nhiên khi Đệ Tam Đế chế đã tìm thấy một vai trò xứng đáng cho một cỗ máy đáng gờm như vậy. Trên cơ sở những chiếc T-34 bị bắt, quân Đức đã xây dựng một số tiểu đoàn hoàn chỉnh, một số lính tăng Đức đã lập hàng chục chiến công, trở thành những con át chủ bài thực sự.

1641443614390.png

1641443642365.png

1641443656409.png

1641445771000.png

Xe tăng T-34-76 trong biên chế quân đội Đức

Những chiếc T-34/76 đầu tiên (“76” được gọi là pháo 76 mm) xuất hiện trong quân đội Đức quốc xã vào mùa hè năm 1941 với tên gọi Pz.Kpfw. T-34-747 (r), trong đó “r” cho biết xuất xứ từ Nga của xe tăng và “Pz.Kpfw” là viết tắt của Panzerkampfwagen (“xe chiến đấu bọc thép”). Khoảng 300 xe tăng như vậy đã chiến đấu cho Đức trong Thế chiến thứ hai.

1641443773672.png


Các xe tăng bị bắt được trang bị radio và kính ngắm quang học của Đức. Và một số được trang bị hệ thống liên lạc của chỉ huy để cải thiện khả năng quan sát và chỉ thị mục tiêu của trưởng xe.
Sự thiếu hụt trầm trọng về đạn dược và phụ tùng thay thế khiến cho việc duy trì các xe tăng trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu trở nên khó khăn. Một số chiếc T-34 trong quân đội Đức đã phải tháo rời hoàn toàn để cung cấp các bộ phận cho những chiếc khác. Và đạn pháo được lấy ra từ những chiếc T-34 bị phá hủy của cả Đức và Liên Xô, đôi khi là giữa trận chiến.

1641443916517.png


Để ngăn những chiếc T-34 thu được của Liên Xô bị trúng đạn pháo của lực lượng chống tăng và Không quân Đức, một dấu Balkenkreuz lớn hoặc hình chữ thập ngoặc đã được áp dụng cho thân xe và tháp pháo. Tuy nhiên, trong trận chiến khốc liệt, các xạ thủ thường không nhận ra chúng và nổ súng vào những chiếc xe tăng đáng ghét của Liên Xô, bất kể chúng đến từ hướng nào.
T-34 phục vụ trong quân đội Đức không chỉ với vai trò là xe tăng chiến đấu. Một số được chuyển đổi thành xe cứu kéo hoặc pháo phòng không tự hành. Trong trường hợp thứ hai, tháp pháo đã được tháo dỡ và thay thế bằng một tháp hàn xoay đặc biệt có đỉnh hở với súng phòng không Flakvierling 38 20 mm. Những chiếc T-34 bị hư hỏng nặng được lắp đặt trên các đoàn tàu bọc thép làm bệ pháo.

1641444132788.png


Chính lực lượng SS đã sử dụng rộng rãi nhất loại xe tăng lừng lẫy của Liên Xô, hơn hết là Sư đoàn thiết giáp số 2 Das Reich. Sau khi tái chiếm Kharkov vào ngày 18 tháng 3 năm 1943, khoảng 50 chiếc T-34 mất khả năng hoạt động đang chờ sửa chữa đã rơi vào tay quân Đức.
Sử dụng cơ sở vật chất của Nhà máy Máy kéo Kharkov, SS đã khôi phục hàng chục xe tăng và thành lập một đại đội riêng biệt với chúng trong sư đoàn Reich - đơn vị lớn nhất gồm những chiếc T-34 thu được trong lực lượng vũ trang Đức.

1641444242835.png

1641444775280.png

1641444901089.png

1641445086623.png

1641445138343.png

1641444961447.png

1641445006950.png

1641445165305.png

T-34-76 trong biên chế quân đội Đức

Tổng cộng 25 xe tăng đã được đưa vào biên chế, và 12 chiếc nữa được gửi đến Trường Kinschlag SS Panzer-Grenadier, nơi các học viên trẻ được đào tạo về chiến đấu chống tăng.
Xe tăng Liên Xô trong sư đoàn Đế chế tham gia trận chiến quyết định ở Kursk vào mùa hè năm 1943. Vì lúc này T-34-76 đã lỗi thời về mặt kỹ thuật, người Đức sử dụng nó không phải để đột phá mà là vũ khí chống tăng, hỏa điểm. Hầu hết chúng đặt tại các vị trí cố định và ẩn nấp để giảm thiểu rủi ro cho xe cũng như kíp lái.

1641445234756.png

Chiếc T-34 này đã tháo bỏ tháp pháo để lắp pháo 88mm của Đức

1641445316271.png

1641445424827.png

Còn chiếc T-34 này đã được hoán cải thành pháo phòng không tự hành

1641444376684.png

1641444820466.png


Trong số những lính tăng Đức sử dụng T-34, nổi bật nhất là chỉ huy trung đội SS Oberscharführer Joseph Naber của Đại đội Thiết giáp số 9 thuộc sư đoàn Reich, và chỉ huy xe tăng Emil Seibold đơn vị SS Oberscharführer Joseph Naber, trong cùng sư đoàn. Chiếc sau này trở thành một trong những mẫu xe tăng xuất sắc nhất trong cuộc chiến, được công nhận tổng cộng 69 lần tiêu diệt địch, trong đó có vài chục lần tiêu diệt được chiếc T-34 của Liên Xô.
Sau trận Kursk, chiếc T-34/76 lỗi thời dần được rút khỏi quân đội Đức. Nhưng một số vẫn được nhìn thấy bảo vệ Berlin vào tháng 5 năm 1945.

1641444572910.png

1641444702132.png

1641444723911.png

1641444747150.png

1641444881453.png

Xe tăng T-34-85 trong biên chế quân đội Đức

Năm 1944, chiếc T-34/85 tiên tiến hơn (với pháo 85 mm) được đưa vào biên chế trong Hồng quân. Tuy nhiên, quân Đức đã bắt được không quá vài chục chiếc, và chỉ một số ít được sử dụng chống lại các lực lượng Liên Xô.
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
TRẬN CHIẾN SAIPAN

Binh lính Nhật chiến đấu kiên cường nhưng vẫn không cưỡng lại được sức mạnh của quân Mỹ và đã thất bại trong trận chiến trên đảo Saipan vào cuối Chiến tranh thế giới thứ Hai.
Mùa Xuân năm 1944, trong chiến dịch Thái Bình Dương, Mỹ huy động 535 tàu chiến, với 127.000 binh lính, trong đó có 77.000 lính hải quân đánh bộ, đã đánh chiếm các hòn đảo do Nhật Bản chiếm giữ ở khu vực giữa Thái Bình Dương, dọc theo hành lang tiến tới nước Nhật. Sau khi chiếm được quần đảo Marshall, bộ tư lệnh chiến dịch nhắm tới mục tiêu tiếp theo - quần đảo Mariana, một tiền đồn quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Nhật Bản, trong đó có đảo Saipan.

Đảo Saipan

1641548939349.png

1641548547565.png


Saipan - hòn đảo có tầm quan trọng chiến lược, là đảo lớn nhất trong quần đảo Mariana và cũng gần Nhật Bản nhất; đặc biệt, trên đảo có một sân bay nằm ở Aslito. Saipan đặt dưới sự cai trị của Nhật Bản từ năm 1920. Theo một số dữ liệu, lực lượng Nhật đồn trú trên đảo lên tới 30.000 quân. Các chỉ huy quân Mỹ phân tích: Việc chiếm các đảo chính trong quần đảo Mariana, gồm Saipan, Tinian và Guam, sẽ cắt đứt Nhật Bản khỏi phần phía Nam và dọn đường cho việc tiến sát hơn nữa tới Tokyo. Tại Saipan, quân Mỹ có thể thiết lập một căn cứ không quân trọng yếu mà từ đó các siêu pháo đài bay B-29 tầm xa của Quân đội Mỹ có thể cất cánh và giáng những đòn trừng phạt xuống lãnh thổ Nhật Bản trước khi quân đồng minh đổ bộ xuống lãnh thổ nước này. Bộ Tư lệnh chiến dịch Thái Bình Dương Quân đội Mỹ quyết định cuộc đổ bộ đầu tiên lên quần đảo Mariana sẽ được thực hiện tại đảo Saipan. Tướng Hải quân đánh bộ Mỹ, Holland Smith nhận được kế hoạch tác chiến với nhiệm vụ là phải chiếm được hòn đảo này trong 3 ngày. Theo kế hoạch, sau khi đánh chiếm được đảo Saipan, quân Mỹ sẽ nhanh chóng cơ động đánh chiếm đảo Guam và Tinian.

Đổ bộ đánh chiếm đảo Saipan
Sáng ngày 15/6/1944, đội tàu vận tải của Hải quân đánh bộ Mỹ tập kết gần bờ biển phía Nam của đảo Saipan, sau đó chuyển quân lên hàng trăm tàu đổ bộ và thực hiện cuộc đổ bộ vào bờ biển đảo Saipan.
Các tàu chiến và máy bay Mỹ đã dọn đường cho hải quân đánh bộ bằng cuộc tiến công hỏa lực cấp tập vào vị trí của đối phương, nhưng đã không thể tiêu diệt được các hỏa điểm quân Nhật bố trí cẩn thận trên các vách đá dọc bờ biển. Chính vì thế, Hải quân đánh bộ Mỹ đã phải thực hành đổ bộ dưới làn hỏa lực địch.

1641549095236.png

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bò đến vị trí được chỉ định của họ dưới hỏa lực của kẻ thù trên bãi biển ở Saipan, tháng 6 năm 1944.

1641548912216.png

1641549446158.png

1641549989140.png

1641550014495.png

1641550622833.png

Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên đảo Saipan, tháng 6-1944

1641549197292.png

Lính thủy đánh bộ Mỹ ném lựu đạn vào một vị trí của quân Nhật trên đảo Saipan năm 1944.

1641549241447.png

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ theo dõi lối vào của một hỏa điểm Nhật Bản sau khi cho nổ tung nó trong cuộc chiến đảo Saipan, tháng 7 năm 1944.

1641549903510.png

Thủy quân lục chiến Mỹ nấp sau xe bọc thép để tránh hỏa lực của quân Nhật

1641550079940.png

Tổ súng máy thủy quân lục chiến Mỹ đang yểm trợ hỏa lực cho bộ phận đánh chiếm sân bay

1641551778533.png

1641551992916.png

Khẩu đội pháo 37mm của thủy quân lục chiến Mỹ đang yểm trợ hỏa lực

1641551878994.png

1641551916025.png

Xe đổ bộ của thủy quân lục chiến Mỹ


1641550427678.png

Một thủy quân lục chiến Mỹ bị thương đang được băng bó

Trong một cuốn sách về trận chiến Saipan, tác giả John C. Chapin - từng là một lính Hải quân đánh bộ Mỹ trên đảo Saipan, đã mô tả lại cảnh hỗn loạn xung quanh ông vào sáng hôm đó: “Các thi thể nằm la liệt trong trạng thái rách nát, biến dạng; các ụ súng bị phá tung và cháy rụi; các xác xe đổ bộ bốc cháy…; mùi khét lẹt của thuốc nổ; những cây xanh bị xé nát; và rải rác trên cát là những vật dụng bị bỏ đi.” Bất chấp sự kháng cự kiên cường của quân Nhật, 8.000 lính Hải quân đánh bộ Mỹ vẫn tiến lên và đã bám được bờ vào sáng hôm đó. Vào cuối ngày, khoảng 20.000 lính Mỹ đã thiết lập được một “đầu cầu” trên đảo Saipan. Tuy nhiên, quân Mỹ phải trả giá bằng khoảng 2.000 lính bị thương vong trong quá trình này.

1641550313434.png

1641549333918.png

Lực lượng tiếp viện của Quân đội Hoa Kỳ lội vào bờ từ các tàu đổ bộ ở phía sau, tại Saipan, tháng 6 năm 1944

1641550196474.png

Binh sĩ Sư đoàn bộ binh 27 lục quân Mỹ trong Chiến dịch Saipan

Sáng hôm sau, quân Mỹ được tăng viện thêm và bắt đầu tiến sâu vào đảo, tiến về sân bay Aslito và tiến công các lực lượng Nhật nằm ở khu vực phía Nam và trung tâm của đảo. Ngày 18/6, quân Mỹ tiếp tục tiến công các mục tiêu trên đảo, nhưng không có sự chi viện của các đơn vị hải quân, vì các đơn vị này phải thực hiện nhiệm vụ đánh chặn các hạm đội của Nhật Bản được phái tới để tăng cường thế phòng ngự trên đảo Saipan.

1641552247418.png

1641552460474.png

Lính Nhật trong công sự

1641552285926.png

Quân Nhật phản công

1641550489709.png

1641549784778.png

Người lính Nhật này đầu hàng quân Mỹ, sau lưng anh ta là hệ thống phòng ngự trong hang động của Nhật
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1641661623212.png


Thung lũng tử thần

Sau thất bại trong việc ngăn chặn quân Mỹ đổ bộ lên đảo Saipan, quân Nhật buộc phải rút lui về khu vực ngọn núi Tapotchau, nơi cao nhất của đảo, có thế khống chế toàn hòn đảo. Ngọn núi này cao khoảng 457m, nằm ở vị trí trung tâm của đảo Saipan. Sau các đợt giao chiến ác liệt, cuối cùng quân Mỹ cũng dần đẩy lui lực lượng phòng ngự của Nhật ra khỏi vị trí tưởng chừng bất khả công phá trên các điểm cao. Tướng Mỹ Smith ra lệnh cho quân Mỹ vượt qua một thung lũng rộng và trống trải để tiến đánh các vị trí của quân Nhật. Một bên gờ của thung lũng là dãy đồi và từ công sự kiên cố, các binh sĩ Nhật sử dụng vũ khí, trong đó có nhiều vũ khí hạng nặng bắn tà âm vào thẳng quân Mỹ đang tiến công.

1641656404376.png

Người lính này đang lợi dụng chiếc xe đẩy của cư dân bỏ lại để tránh làn đạn của quân Nhật

1641656633094.png

Bộ binh Mỹ chuẩn bị tham chiến

1641656843425.png

Người sống duy nhất trong số hàng trăm xác chết trong một hang động này là đứa trẻ bị ruồi đậu kín này, người gần như chết ngạt trước khi những người lính Mỹ tìm thấy em và đưa em đến bệnh viện.

1641657127463.png

Sức ép từ một vụ nổ gần đó đã khiến hai mẹ con này chạy trốn khỏi hang. Nhiều người tin tuyên truyền của Nhật Bản nói với họ rằng họ sẽ bị giết nếu bị bắt.

1641657220257.png

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chăm sóc các đồng đội bị thương trong khi giao tranh vẫn diễn ra trong trận đánh chiếm Saipan.

1641657325661.png

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đưa đồng đội bị thương về xe tải thương trong khi giao tranh vẫn diễn ra trong trận đánh chiếm Saipan.

1641657450358.png

Khói và lửa bốc ra từ đống đổ nát của các tòa nhà bị tấn công trong một trận chiến ác liệt giữa quân Mỹ và Nhật tại Saipan

1641657569474.png

Khói bốc lên bầu trời từ cuộc bắn phá của hải quân và pháo binh Mỹ nhằm vào một căn cứ thủy phi cơ của Nhật Bản tại Flores Point, gần Cảng Tanapag.

1641661207939.png

Lính Mỹ đang tấn công một ổ đề kháng của Nhật trên đảo Saipan, 1944

1641657663365.png

Máy bay ném bom B-29 của Mỹ chuẩn bị oanh tạc đảo Saipan

1641657719371.png

Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến qua xác của hai người lính Nhật

Phải đến cuối tháng 6, sau nhiều cuộc giao tranh quyết liệt, Hải quân đánh bộ Mỹ mới giành được quyền kiểm soát đối với ngọn núi Tapotchau. Quân Nhật buộc phải rút lui tiếp lên phía Bắc, tạo ra bước ngoặt trong trận chiến Saipan.

Đòn tiến công cảm tử vì danh dự nước Nhật
Vào đầu tháng 7/1944, các lực lượng của tướng Yoshitsugu Saito - Tư lệnh của quân Nhật trên đảo Saipan, đã rút lui về khu vực phía Bắc của hòn đảo này. Tại đây, quân Nhật bị hỏa lực của quân Mỹ từ trên bộ, trên biển và trên không liên tục đánh phá.

1641657924744.png

1641657967945.png

Tướng Yoshitsugu Saito

Saito kỳ vọng Hải quân Nhật sẽ kịp đến chi viện để đẩy lui quân Mỹ khỏi đảo, nhưng hạm đội Nhật đã bị đánh thiệt hại nặng trong trận hải chiến trên biển Philippines (vào các ngày 19 đến 20/6/1944) và không thể tới đảo Saipan được.

1641658078611.png

Tàu chiến của hạm đội Nhật Bản và tàu của Lực lượng Đặc nhiệm 58 của Hoa Kỳ trong các chiến dịch ngoài khơi Saipan ở Marianas vào năm 1944

1641658188692.png

1641661019241.png

Một người lính Mỹ chĩa súng trường vào boong-ke của quân Nhật, rất ít quân Nhật chịu đầu hàng

1641658291122.png

Lính Mỹ đang chuẩn bị các bi-đông nước cho trận đánh tiếp theo

1641661291183.png

1641661708606.png

Thủy quân lục chiến Mỹ cầm lá cờ thu được của một đơn vị lính Nhật
Nhận thấy không thể chống cự trước đòn tiến công của người Mỹ, tướng Sato xin lỗi Tokyo vì đã không bảo vệ được Saipan rồi tự sát. Tuy nhiên, trước khi chết, Saito lệnh cho tàn quân của mình mở một cuộc tiến công tổng lực và bất ngờ vì danh dự của Nhật hoàng.
Sáng ngày 6/7, khoảng 4.000 lính Nhật đồng thanh hô to “Banzai!” (nghĩa là “Vạn tuế!”), cầm lựu đạn, lưỡi lê, gươm và dao găm lao vào đội hình quân Mỹ gần cảng Tanapag. Lớp lớp quân Nhật quét qua một vài tiểu đoàn lính Mỹ, đánh giáp lá cà với họ, làm chết hoặc bị thương hơn 1.000 lính Mỹ. Nhưng sau đó quân Mỹ dựa vào hỏa lực pháo binh và súng máy bắn gần đã đẩy lui hoặc tiêu diệt gần như toàn bộ quân Nhật. Đây là trận xung phong “Banzai” lớn nhất của Nhật trong chiến tranh Thái Bình Dương. Đa phần lính Nhật chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên, đòn cảm tử cũng không lật ngược được tình thế. Đến ngày 9/7, sau các đợt truy quét cuối cùng, quân Mỹ đã chiến thắng, chiếm được đảo Saipan.

1641661374987.png

1641661430133.png

Lính thủy Mỹ băng qua một ngôi làng đang bốc cháy bởi các cuộc giao tranh giữa quân Mỹ và Nhật

1641658399771.png

Công binh Mỹ đang đào một con hào để làm mộ chôn tập thể cho lính Nhật, bên trái con hào là xác quân Nhật đang chất đống

1641658635385.png

Tù binh Nhật trong trận Saipan, chỉ co khoảng 900 lính Nhật chịu đầu hàng

1641658956127.png

Đại úy quân đội Đế quốc Nhật Bản Sakae Oba giao thanh kiếm của mình cho Trung tá Howard C. Kurgis, tượng trưng cho sự đầu hàng.

Hậu quả trận chiến
Trận đánh khốc liệt trong 3 tuần đã khiến 3.000 lính Mỹ tử trận, và hơn 13.000 lính Mỹ bị thương. Theo một số ước tính, về phần quân Nhật mất ít nhất 27.000 binh lính. Vào ngày 9/7 phía Mỹ tuyên bố trận chiến kết thúc. Hàng nghìn cư dân đảo Saipan bị bộ máy tuyên truyền của Nhật nhồi sọ rằng họ sẽ bị quân Mỹ giết, nên đã tự sát bằng cách nhảy xuống từ các vách đá dựng đứng ở phía Bắc hòn đảo. Một nghiên cứu kết luận: “Tình trạng chưa hoàn thành của hệ thống phòng thủ Nhật (trên đảo Saipan) là một nhân tố quan trọng tạo nên chiến thắng quyết định của Mỹ. Các tàu ngầm tầm xa của Hải quân Mỹ đã cản trở thành công nhiều tàu bè của Nhật Bản, làm giảm việc vận chuyển xi măng và các vật liệu xây dựng lên đảo để củng cố vững chắc công sự ở Saipan”. Một tù binh Nhật trong một cuộc hỏi cung đã cho biết, nếu cuộc tiến công của Mỹ lùi lại 3 tháng thì hòn đảo Saipan sẽ thực sự bất khả công phá và số lượng thương vong (của Mỹ) còn cao hơn nhiều. Việc Saipan thất thủ đã gây choáng váng cho giới chính trị ở Tokyo, Thủ đô Nhật Bản. Và giới lãnh đạo Nhật Bản hiểu rằng, họ sắp phải đón nhận các đòn sấm sét từ máy bay chiến đấu tầm xa của Mỹ.

1641660768339.png

Người lính Nhật thiệt mạng, phía sau anh ta là chiếc xe tăng hạng nhẹ của Nhật cũng bị phá hủy trong một cuộc giao tranh với thủy quân lục chiến Mỹ, Saipan 1944

1641660942565.png

Lính Mỹ tại một cứ điểm của Nhật mà họ vừa chiếm được

1641658795396.png

Một gia đình thường dân ngồi xổm trên mặt đất, xung quanh là Thủy quân lục chiến Mỹ sau trận chiến giữa lực lượng Mỹ và Nhật Bản để giành quyền kiểm soát Saipan vào tháng 7 năm 1944.

1641658872677.png

Một người dân địa phương ngồi trên mặt đất với đứa con bị thương của mình sau trận chiến giữa quân đội Mỹ và Nhật Bản để giành quyền kiểm soát quần đảo Saipan, Bắc Marianas vào tháng 7 năm 1944.

1641659030710.png

Một người lính Hoa Kỳ đẩy xe nôi trong khi hộ tống một gia đình đến trại sơ tán tập trung trong trận Saipan.

1641661073238.png

1641661134262.png

Lính Mỹ và cư dân địa phương sau một trận đánh trên đảo Saipan, 1944


1641659431231.png

1641659515477.png

1641659642730.png

Lính Mỹ bên xe tăng Nhật bị bắn cháy sau trận chiến đảo Saipan

1641659761449.png

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ kiểm tra một chiếc thủy phi cơ bốn động cơ bị thủng của Nhật Bản, có thể là một chiếc Kawanishi H8K “Emily”

1641659809498.png

1641659861530.png

Còn đây là chiếc thủy phi cơ Kawanishi H8K “Emily”

1641660132879.png

Lính Mỹ kiểm tra một chiếc máy bay chiến đấu của Nhật Bản bị bỏ lại

1641661519094.png

1641661576675.png

Lính thủy Mỹ bên những đồng đội của họ vừa thiệt mạng trong trận chiến

1641659143842.png

1641660453837.png

'Dauntless Dottie', một trong những máy bay ném bom B-29 Superfortress của Mỹ, đã sẵn sàng cho một cuộc ném bom xuống Tokyo từ sân bay đảo Saipan

1641659889008.png

Máy bay Dragon Lady của Phi đội máy bay ném bom thứ 42, Đơn vị ném bom số 11 Lực lượng không quân 7 của Mỹ cất cánh từ sân bayđảo Saipan, năm 1944.

1641660217328.png

Một chiếc P-47 mang tên Miss Mary Lou đang được trang bị Rockets M8 trên sân bay đảo Saipan, 1944.

1641660353529.png

Một chiếc P-47 khác trên sân bay đảo Saipan, 1944

1641660497791.png

Máy bay ném bom B-29 cất cánh từ sân bay đảo Saipan
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Ba lý do khiến Mỹ rút quân khỏi Afghanistan

Trang mạng “Phương Đông”, Trung Quốc, ngày 13/8/2021 đăng bài viết của Chu Viễn, nghiên cứu viên cấp cao Tổ chức nghiên cứu chính sách chiến lược quốc tế thuộc Đại học Đông Nam-Trung Quốc, phân tích về việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan. Nội dung bài viết như sau:

Mỹ đang thực hiện cam kết của Tổng thống Joe Biden - rút toàn bộ quân khỏi Afghanistan trước ngày 31/8. Hiện nay, Mỹ đã rút gần hết quân, chỉ còn lại số ít nhân viên quân sự và có thể rút bất cứ lúc nào. Afghanistan sẽ không vui vẻ tiễn biệt họ, mà chỉ có sự tức giận và chế giễu. Quân đội Mỹ đã làm mọi cách trong 20 năm qua, nhưng cuối vẫn thất bại trước Taliban. Liệu nước Mỹ còn có thể diện trước thế giới?

Taliban tấn công khốc liệt

1641807722080.png

1641807741371.png

1641807765957.png

1641807782653.png

1641807829578.png


Ngày 12/8, người phát ngôn của Taliban Zabihullah Mujahid tuyên bố trên mạng xã hội rằng họ đã chiếm thành phố Ghazni, thủ phủ của tỉnh Ghazni. Đây là thủ phủ thứ 10 bị Taliban chiếm đóng trong vòng một tuần. Taliban tấn công áp đảo, chiếm nhiều thành phố mà gần như không tốn một viên đạn. Thành phố Ghazni chỉ cách thủ đô Kabul của Afghanistan 150 km và là một thành phố quan trọng chiến lược dẫn đến Kabul. Sau đó, Taliban đã tiến đến Kabul.

Taliban có thể sẽ siết chặt vòng vây đối với Kabul trong vòng 30 ngày, chiếm Kabul và thậm chí toàn bộ đất nước Afghanistan trong khoảng 2-3 tháng. Yếu tố khó đoán định hiện nay không phải là quân sự mà là đại diện của Taliban và Chính quyền Ghani vẫn đang đàm phán ở Doha. Các cuộc đàm phán đã diễn ra trong gần 1 năm, các nước như Mỹ… đứng ra làm trung gian hòa giải để thúc đẩy đàm phán nhưng Taliban không còn hứng thú với việc đàm phán.

Mỹ quyết tâm rút toàn bộ quân đội

Việc Mỹ rút toàn bộ quân đội khỏi Afghanistan đang gây ra những cuộc tranh luận gay gắt ở nước này, Chính quyền Biden đang phải chịu áp lực dư luận ngày càng lớn về vấn đề này. Nhiều người chỉ trích Biden làm như vậy là mạo hiểm, không những phải chịu trách nhiệm đối với tình hình bất ổn sau khi rút quân, mà còn bị mang tiếng xấu là vô trách nhiệm đối với sự an nguy của Afghanistan. Tuy nhiên, tình hình hiện nay cho thấy Biden vẫn quyết tâm rút quân.

CNN bình luận rằng kể từ thời Tổng thống Bush (con), tổng thống Mỹ các nhiệm kỳ đều tuyên bố sẽ rút quân khỏi Afghanistan, Bush (con) là người phát động cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan, nhưng lại luôn tỏ ra do dự về việc rút quân và cuối cùng cũng không thực hiện được; Barack Obama mặc dù phản đối cuộc chiến ở Afghanistan, nhiều lần bày tỏ muốn rút quân khỏi nước này, nhưng cuối cùng cũng không thực hiện được; Trump cũng nhiều lần tuyên bố sẽ rút quân khỏi Afghanistan để tìm kiếm phiếu bầu, nhưng cuối cùng cũng không làm được.

Đến nay, Biden đã trở thành Tổng thống Mỹ quyết định rút toàn bộ quân đội khỏi Afghanistan. Việc Mỹ rút khỏi cuộc chiến dài nhất có thể sẽ gây ra một thảm họa chính sách đối ngoại. Biden, vị tổng tư lệnh quân đội Mỹ 78 tuổi, đã mở ra một con đường táo bạo, các đại sứ quán ở nước ngoài bao gồm cả trong nước Mỹ đều đang thảo luận về vấn đề rút quân. Tất cả những điều này sẽ đưa đến việc kết thúc giấc mơ dân chủ của Mỹ ở Afghanistan, vốn được đánh đổi bằng máu của hàng nghìn người Mỹ.

1641807914564.png

1641807928474.png

1641807949989.png

1641807969527.png

1641807999178.png

1641808031269.png

1641808047451.png

1641808190418.png

1641808207479.png

1641808249052.png

1641808269406.png

1641808289773.png

1641808069316.png

1641808156539.png
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Có ba lý do chính khiến Biden quyết định rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi Afghanistan:

Một là, sau cuộc chiến kéo dài 20 năm ở Afghanistan, Mỹ không còn cầm cự được nữa và cho rằng điều đó là không đáng. Mỹ đã chi hơn 1.000 tỷ USD cho cuộc chiến này, nếu tiếp tục đóng quân ở Afghanistan không chỉ khiến Mỹ khó có thể gánh vác chi phí qân sự, mà còn khó có thể chịu đựng cái giá về sinh mạng người Mỹ.

Cho đến nay, sự an ủi và hỗ trợ cho các thành viên trong gia đình của hơn 4.000 quân nhân Mỹ hy sinh trong cuộc chiến này là một vấn đề lớn, và vấn đề an ủi và trị liệu về tinh thần cho một số lượng lớn thương binh và gia đình của họ còn lớn hơn. Mặc dù dư luận Mỹ có một số ý kiến phản đối việc Biden rút quân, nhưng nếu Biden thực sự muốn quân đội tiếp tục ở lại Afghanistan, thì sẽ còn nhiều thương vong hơn, khi đó Biden chắc chắn sẽ vấp phải nhiều sự công kích và chỉ trích hơn. Do các tổng thống tiền nhiệm đã đề xuất muốn rút quân khỏi Afghanistan nên cuộc chiến ở Afghanistan thiếu tính hợp pháp, dư luận Mỹ nhìn chung cũng tán thành việc sớm để cho quân đội Mỹ được về nước. Biden tốt nhất là thuận theo tình thế, rút toàn bộ quân đội về nước và không còn phải mang gánh nặng chiến tranh nữa. Trước sự chỉ trích của dư luận, Biden cho biết nếu tiếp tục ở lại Afghanistan, thì quân đội Mỹ sẽ bị sa lầy ở nước này mãi mãi.

1642123470588.png

Thủy quân lục chiến Mỹ lên máy bay thực hiện một nhiệm vụ tại Afghanistan

1642123767067.png

Quang cảnh Afghanistan từ cửa sau trực thăng Chinook

1642164788135.png

Quân đội Hoa Kỳ tại một địa điểm không được tiết lộ ở Afghanistan vào ngày 17 tháng 3 năm 2020.

1642164929429.png

1642165120455.png

Các binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn bộ binh 121 thuộc Đội tác chiến Lữ đoàn bộ binh 48 đảm bảo an ninh khi trực thăng CH-47 Chinook hạ cánh sau cuộc giao tranh với Taliban ở Đông Nam Afghanistan.

1642165018519.png

Chiến binh Taliban đi ngang qua một tiệm làm đẹp với hình ảnh những phụ nữ bị bôi sơn xịt ở Shar-e-Naw ở Kabul ngày 18/8/2021.

1642165217866.png

1642165350987.png

Binh sỹ Mỹ tại một căn cứ không được tiết lộ ở Afghanistan.

Hai là, Mỹ cho rằng cuộc chiến ở Afghanistan là vũng lầy lớn, Afghanistan không phải là vấn đề mà Mỹ có thể giải quyết và không nên tiếp tục quan tâm. Gần đây, Washington nhiều lần nhấn mạnh việc Mỹ gửi quân đến Afghanistan sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001 là để trừng phạt các thủ phạm và những kẻ bao che cho chúng, chứ không phải là để giải quyết vấn đề của Afghanistan, mối thù của Mỹ đã trả xong, tại sao Mỹ phải ở lại Afghanistan? Gần đây, Biden nhiều lần cho biết Afghanistan là của người Afghanistan, các vấn đề của Afghanistan (bao gồm hòa giải chính trị và tái thiết sau chiến tranh) đều là vấn đề của người Afghanistan và không liên quan đến Mỹ. Trên thực tế, đây là kết luận được Mỹ rút ra sau 20 năm trải qua vô số bài học kinh nghiệm đau khổ và trắc trở ở Afghanistan.

1642165565909.png

1642165614040.png

Tổng thống Afghanistan Ashraf Ghani

Vấn đề Afghanistan quá phức tạp, về cả lịch sử lẫn hiện thực. Afghanistan vừa có các vấn đề do lịch sử để lại, vấn đề chính trị, tôn giáo và sắc tộc, kinh tế, xã hội và vấn đề đời sống của người dân, vừa có bối cảnh bên ngoài và vấn đề đan xen đa dạng phức tạp giữa các phe phái và thế lực ở trong nước. Rất khó để chỉ ra thế lực nào làm chủ Afghanistan.

Mối quan hệ giữa Mỹ và Taliban cũng không rõ ràng, trước đây và bây giờ vẫn vậy. Mỹ vừa muốn gây dựng và lôi kéo Taliban, vừa không muốn Taliban phát triển lớn mạnh, thoát khỏi sự kiểm soát của Mỹ. Mỹ đã xây dựng chính phủ ở Afghanistan và tiến hành 4 cuộc bầu cử, nhưng Chính phủ Afghanistan chưa bao giờ có thể kiểm soát được cục diện chính trị, kinh tế, tôn giáo, xã hội và văn hóa ở nước này, càng không nắm được quyền chủ động về quân sự. Mỹ đã viện trợ một lượng lớn quân sự, kinh tế và trang thiết bị cho Chính quyền Ghani do dân bầu ra, nhưng Chính phủ Afghanistan vẫn không vực dậy được.

1642165705159.png

1642165806646.png

1642165829380.png

1642165854013.png

Các phe phái chính trị tại Afghanistan

Con gái của cựu tổng thống Afghanistan gần đây đã nói với truyền thông rằng bất kỳ phe phái nào ở Afghanistan đều kêu gọi sự đoàn kết dân tộc và hòa giải chính trị, song trên thực tế đều không thực sự muốn vậy. Nhiều phe phái xuất hiện trong Chính quyền Ghani và đều có ý đồ riêng, cạnh tranh với nhau. Nội bộ Taliban cũng có nhiều phe phái, chủ trương thiếu thống nhất, có các mối quan hệ bên ngoài khác nhau, một số phe phái hoặc một số người tạm thời xích lại gần nhau do nhu cầu quyền lực. Afghanistan không chỉ có hai phe là Chính quyền Ghani và Taliban, mà còn tồn tại nhiều phe phái và các thế lực tôn giáo sắc tộc. Mặc dù Taliban tương đối có ưu thế về chính trị, tôn giáo và quân sự, nhưng phần lớn người Afghanistan đều biết rằng điều mà họ quan tâm không phải là xây dựng và phát triển kinh tế của Afghanistan, có ít người Afghanistan tin rằng Taliban có năng lực quản lý xã hội và kế hoạch chấn hưng và phát triển kinh tế thực sự, điều mà Taliban muốn nhất đó chính là chính quyền, là sự báo thù đối với Chính quyền Ghani và các thế lực ủng hộ chính quyền này. Việc Taliban muốn cầm quyền không phải là chuyện dễ dàng.

1642165975799.png

Các lính biệt kích quân đội Afghanistan tham dự lễ tốt nghiệp của họ sau chương trình huấn luyện kéo dài 3 tháng rưỡi tại Trung tâm Huấn luyện Biệt kích ở ngoại ô Kabul, Afghanistan

1642166504548.png

Lực lượng đặc biệt Afghanistan tốt nghiệp vào tháng 7/2021.

1642165992505.png

Một binh sĩ Quân đội Quốc gia Afghanistan đứng gác tại một trạm kiểm soát ở Kabul, Afghanistan

1642166058330.png

Các binh sĩ Quân đội Quốc gia Afghanistan đứng gác tại hiện trường một vụ tấn công liều chết ở Kabul, Afghanistan ngày 29 tháng 4 năm 2020

1642166097472.png

Một lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ quan sát các binh sĩ Quân đội Quốc gia Afghanistan nâng cao quốc kỳ Afghanistan trên một chiếc xe bọc thép trong một cuộc tập trận IED

1642166157169.png

Lễ bàn giao Trại Anthonic từ Quân đội Hoa Kỳ cho Lực lượng Phòng vệ Afghanistan ở tỉnh Helmand, Afghanistan

1642166223144.png

Tờ bìa cứng nhắc nhở rằng lực lượng Taliban có thể ở bất cứ đâu và ở khắp mọi nơi ở miền nam Afghanistan ngày 1 tháng 12 năm 2001.

1642166280012.png

Một binh sĩ Quân đội Quốc gia Afghanistan (ANA) đứng gác tại một tiền đồn chống lại các tay súng Taliban ở Kajaki, tỉnh Helmand, đông bắc Afghanistan.

1642166332122.png

Một người lính Hoa Kỳ thuộc Trung đoàn Bộ binh 5-20, Sư đoàn Dù 82.

Trong đối với Mỹ, đặc biệt là Biden, do không phe nào ở Afghanistan sẽ thực sự nghe theo Mỹ, nên cũng không cần thiết để tiếp tục giúp đỡ phe nào. Nếu Mỹ tiếp tục đóng quân ở Afghanistan, nước này sẽ chỉ trở thành mục tiêu công kích và gây ra sự bất mãn và thù hận từ các thế lực chính trị, tôn giáo và sắc tộc ở Afghanistan. Vì vậy, hiện nay rút quân là thích hợp nhất, rút toàn bộ còn hơn để lại một số lực lượng, đây là cách nghĩ thiết thực và quyết định cuối cùng của Biden.
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Ba là, Mỹ có các ý đồ chiến lược quốc tế và khu vực lớn hơn, Biden có chương trình nghị sự trong nước quan trọng hơn cần thúc đẩy, nên không muốn tiếp tục tiêu tốn sức lực ở Afghanistan, để phải sa lầy không lối thoát ở nước này. Đối với Mỹ, Afghanistan tất nhiên là có giá trị chiến lược vô cùng quan trọng, nhưng trong những năm qua Mỹ cũng đã bố trí chiến lược ở khu vực xung quanh Afghanistan. Việc Mỹ rút toàn bộ quân đội khỏi Afghanistan không có nghĩa là Mỹ hoàn toàn bỏ rơi Afghanistan, khi cần vẫn tiếp tục thể tiếp tục ảnh hưởng thậm chí can thiệp vào nước này. Các phe phái ở Afghanistan, bao gồm cả Taliban sau này cũng sẽ không thể tách khỏi Mỹ.

1642246448438.png

Các quan chức Taliban tuyên bố chiến thắng tại sân bay Kabul vào ngày 31 tháng 8. Chiến thắng nhanh chóng của họ đã khiến Iran bất ngờ.

1642246497228.png

Người Afghanistan chờ sang Iran tại đồn biên phòng Zaranj. Chiến thắng của Taliban đã tạo ra một làn sóng tị nạn mới vào Iran.

1642246596210.png

Người Afghanistan tại một trại tị nạn ở Zahedan, Iran. Hơn hai triệu người tị nạn Afghanistan đã tị nạn ở Iran trước chiến thắng của Taliban.

1642246633260.png

Một người bảo vệ tại một nhà thờ Hồi giáo Shiite ở Kandahar đã bị IS đánh bom. Iran lo ngại rằng Taliban không sẵn sàng hoặc không thể ngăn chặn các cuộc tấn công như vậy.

Điều quan trọng hơn là Mỹ đang hoặc đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu quan trọng và đã xác định được các đối thủ chiến lược chính. Đối với Mỹ, Afghanistan chỉ là một quân cờ trên bàn cờ chiến lược mới của Mỹ. Những tuyên bố của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc gần đây về cơ bản cho thấy: để cho các phe phái ở Afghanistan chiến đấu tranh giành với nhau, như vậy quân đội Mỹ mới có thể làm những việc lớn khác.

1642246834575.png

Tổng thống Afghanistan Ashraf Ghani phát biểu thông điệp quốc gia ở Kabul, Afghanistan ngày 14/8/2021.

1642246870884.png

Một máy bay trực thăng Chinook của Hoa Kỳ bay trên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Kabul, Afghanistan, vào Chủ nhật, ngày 15 tháng 8, khi Taliban bắt đầu tiến vào thủ đô Afghanistan từ mọi phía.

1642246975808.png

1642247054985.png

1642247084988.png

Các tay súng Taliban giành quyền kiểm soát dinh tổng thống Afghanistan sau khi Tổng thống Afghanistan Ashraf Ghani bỏ trốn khỏi đất nước, ở Kabul, Afghanistan vào ngày 15/8/2021.

Kể từ khi nhậm chức, Biden đã nhấn mạnh hai trọng điểm cầm quyền chính. Thứ nhất, tăng cường toàn diện sức mạnh và năng lực cạnh tranh quốc tế của Mỹ thông qua việc tăng cường toàn diện xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng chuỗi cung ứng cốt lõi, nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, chấn hưng ngành sản xuất chế tạo tiên tiến, buộc các công ty Mỹ phải trở lại nước và khuyến khích người Mỹ “mua hàng Mỹ”. Gần đây, khi đến thăm phòng thí nghiệm trọng điểm Đại học Maryland, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã có bài phát biểu, nhấn mạnh phải “đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại” để nâng cao sức mạnh của Mỹ. Thứ hai, tăng cường toàn diện ngoại giao Mỹ, kết nối ngoại giao với đối nội, kinh tế và khoa học kỹ thuật, lấy ngoại giao thúc đẩy đối nội, từ đó nâng cao sức mạnh của Mỹ, thúc đẩy chính sách ngoại giao của Mỹ, thay đổi quan điểm cho rằng nước Mỹ đang suy thoái trên trường quốc tế.

1642247127846.png

1642247181124.png

Dân thường tại sân bay quốc tế Hamid Kazai tại Kabul, ngày 14/8/2021

Từ các động thái cho thấy Chính quyền Biden đang sử dụng nhiều biện pháp để nỗ lực thúc đẩy thực hiện các mục tiêu đối nội và đối ngoại của mình. Biden hiện đang quyết tâm thúc đẩy kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng, kinh tế, khoa học và công nghệ trị giá 4.500 tỷ USD ở trong nước, nhưng vấp phải trở ngại lớn từ các nghị sỹ đảng Cộng hòa trong Quốc hội. Điều mà Biden phải đối phó là trong nội bộ Mỹ, đặc biệt là các nghị sỹ của đảng Cộng hòa trong Quốc hội, để đọ sức với các đối thủ cạnh tranh quốc tế, chứ không phải tiếp tục chiến đấu với Taliban ở Afghanistan, cũng không phải tiếp tục đầu tư lượng lớn ngân sách của Mỹ vào Chính quyền Ghani đã không thể đứng dậy.
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
CHIẾN TRANH TRUNG ĐÔNG NĂM 1967 NƠI LIÊN XÔ VÀ NATO THỬ NGHIỆM VŨ KHÍ MỚI

Hơn 50 năm trước, vào ngày 10/6/1967, Chiến tranh 6 ngày - cuộc xung đột vũ trang ngắn nhất trong nửa cuối thế kỷ 20 kết thúc. Và theo nhận định của ông Andrei Kots, thì cuộc chiến này chính là nơi thử nghiệm những loại vũ khí hiện đại nhất vào thời điểm đó của Liên Xô và NATO. Cuộc xung đột vũ trang giữa Israel với Liên quân Arab gồm Ai Cập, Jordan, Syria, Iraq và Algeria diễn ra từ ngày 5/6 đến ngày 10/6/1967. Ngay từ đầu cuộc chiến, Israel đã tìm cách phá hủy hầu hết lực lượng không quân của Ai Cập và sau đó chuyển sang đánh chiếm bán đảo Sinai, dải Gaza, khu Bờ Tây sông Jordan, Đông Jerusalem và cao nguyên Golan.

1642402533372.png

1642402589417.png

1642402619987.png

1642402649254.png

1642402690545.png


Tuy nhiên, điểm đặc biệt được quan tâm trong Cuộc chiến tranh 6 ngày không phải là chiến lược và những chiến thuật của các bên liên quan, mà chính là những loại vũ khí được sử dụng trong cuộc đối đầu này. Trong cuộc chiến, Liên Xô và các nước thuộc khối NATO đã sử dụng những loại xe tăng và máy bay mới nhất lần đầu xuất hiện trên chiến trường. Sau đó, những loại vũ khí này đã tiếp tục được sử dụng trong hàng chục cuộc xung đột khác trên thế giới. Ông Kots cho rằng: “Trên thực tế, trong suốt Cuộc chiến tranh 6 ngày, ngành công nghiệp quân sự của cả Liên Xô và phương Tây đều đã cố gắng tìm hiểu xem thiết kế của bên nào tốt, hiện đại và hiệu quả hơn. Cũng như ngày nay, vào thời điểm hơn nửa thế kỷ trước họ đã không thể có câu trả lời một cách rõ ràng”. Nhà báo Kots cho biết, những trận đấu xe tăng trong Cuộc chiến tranh 6 ngày đã đi vào lịch sử bởi cuộc chiến này đã huy động số lượng xe tăng nhiều nhất kể từ sau Thế chiến Hai. “Hai bên sử dụng hơn 2.500 xe tăng hạng nhẹ, hạng trung và hạng nặng tham chiến. Trong khi đa số các phương tiện này được cho là lỗi thời vào thời điểm năm 1967 thì cũng xuất hiện nhiều loại vũ khí hiện đại”.

1642402781160.png

1642402804243.png

1642402861691.png

1642402890678.png

1642402915684.png

1642404450852.png


Đầu những năm 1960, Liên Xô đã cung cấp cho Ai Cập và Syria hàng trăm xe tăng chủ lực T-55 hiện đại nhất vào thời kỳ đó. Và T-55 là một trong những loại xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Theo ông Kots, “T-55 là loại xe tăng đầu tiên trên thế giới được trang bị hệ thống bảo vệ chống vũ khí hạt nhân; đồng thời, là phương tiện bọc thép đầu tiên của Liên Xô sử dụng hệ thống bảo vệ chủ động Drozd. Pháo D-10T2S của T-55 có thể tiến công hiệu quả hầu hết các phương tiện bọc thép của phương Tây, trong khi đó hình dáng của T-55 cho phép nó ẩn nấp hiệu quả trong các loại địa hình”.

1642402975285.png

1642403023399.png

1642403198540.png

1642403292266.png

Xe tăng T-54/55 của liên quân trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967

Cùng thời gian này, М-51 Super Sherman, phiên bản nâng cấp của xe tăng M4 Sherman của Mỹ, được coi là quân bài chiến thắng chủ yếu của Các lực lượng quốc phòng Isreal (IDF). Loại phương tiện bọc thép này từng được “khoe khoang” là trang bị khẩu pháo 105mm hiện đại, động cơ diesel Cummins VT8- 460 đáng tin cậy, hộp số tự động và bánh xích rộng 23 inch (58,42cm).

1642403436513.png

1642403467633.png

1642403494660.png

1642403580468.png

1642403617751.png

1642404208236.png

Xe tăng М-51 Super Sherman trong cuộc chiến 6 ngày, năm 1967

Ông Kots lưu ý rằng: Trong môi trường khí hậu đặc biệt tại Trung Đông, Super Sherman đã không thể chứng tỏ khả năng tin cậy và chịu tổn thất nặng nề nhất cho Israel tại mặt trận Syria. “Trong khi giao chiến với những chiếc tăng của Liên Xô tại cao nguyên Golan, IDF mất 160 chiếc Super Sherman và những xe tăng Centurion do Anh sản xuất. Trong khi đó, Syria chỉ thiệt hại 73 phương tiện, trong đó có 10 chiếc T-54 và T-55”.

1642403775486.png

1642403866239.png

1642403939862.png

1642404042369.png

Xe tăng М-51 Super Sherman của Israel bị phá hủy trong cuộc chiến 6 ngày, năm 1967

Nhà nghiên cứu Kots cho rằng, huấn luyện không đầy đủ chính là điểm yếu lớn nhất, khiến Liên quân Arab thất bại trong Cuộc chiến tranh 6 ngày. “Kinh nghiệm từ Cuộc chiến tranh 6 ngày cho thấy, ngay cả khi sở hữu những chiếc xe tăng hiện đại nhất, nhưng với kíp lái được huấn luyện sơ sài tất yếu sẽ chiến bại khi đối đầu với những phương tiện cũ kỹ hơn, nhưng được những binh lính nhiều kinh nghiệm điều khiển”.

1642404173416.png

1642404654990.png

1642404727203.png

Xe tăng T54/55 của liên quân Ả rập bị phá hủy trong cuộc chiến 6 ngày, năm 1967
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
VÌ SAO TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ quyết tâm chiếm giữ thung lũng Depsang

Thung lũng Depsang, vùng đất có diện tích 972km2 ở độ cao 5.000m so với mực nước biển đang trở thành tâm điểm tranh chấp mới ở biên giới Trung - Ấn. Theo ThePrint, quan chức Ấn Độ khẳng định “thung lũng Depsang chưa rơi vào tay Trung Quốc, nhưng những diễn biến trên thực địa cũng hết sức đáng lo ngại”.

1642564090696.png

1642564123858.png

Các vị trí kiểm soát của Ấn Độ và TQ tại thung lũng Depsang

Theo tờ ThePrint của Ấn Độ, thung lũng Depsang nằm sát Đường Kiểm soát thực tế (LAC) - đường ranh giới tạm thời phân định lãnh thổ Trung - Ấn. Ở phía bên phải thung lũng, theo đường ranh giới là cao nguyên Aksai Chin, vùng đất Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát từ tay Ấn Độ năm 1962. Ở phía bên trái là tuyến đường Darbuk - Shyok - Daulat Beg Oldie (DS-DBO) kết nối thành phố Leh, thủ phủ vùng Ladakh với vùng lãnh thổ phía Bắc Ấn Độ. Khu vực tranh chấp rộng 972km2 đóng vai trò quan trọng, bởi đây là vùng bằng phẳng hiếm hoi ở vùng cao, có thể được sử dụng làm nơi đóng quân. Tuyến đường DS-DBO chỉ cách điểm chốt chặn của Quân đội Trung Quốc vào thung lũng Depsang khoảng 7km.

1642564272631.png

1642564308646.png

1642564447094.png

Một đoàn xe quân đội Ấn Độ di chuyển trên đường Srinagar- Ladakh tại Gagangeer, phía đông bắc Srinagar

1642564412785.png

20 binh sĩ Ấn Độ đã thiệt mạng trong cuộc giao chiến ác liệt ngày 15/6/2021 tại Thung lũng Galwan, sự cố đánh dấu xung đột quân sự nghiêm trọng nhất giữa hai bên trong nhiều thập kỷ.

1642564654450.png

1642564752107.png

Quân đội biên giới Ấn Độ đã cảnh giác cao độ sau cuộc đụng độ chết người đầu tiên trong nhiều thập kỷ


1642564541054.png

Một cảnh sát Ấn Độ đứng gác tại một trạm kiểm soát dọc theo đường cao tốc dẫn đến Ladakh

Binh sĩ Trung Quốc và Ấn Độ từng hai lần đụng độ ở thung lũng Depsang vào các năm 2013 và 2015. Ngoài ra, các đơn vị tuần tra của 2 nước cũng đối đầu nhau hàng chục lần trong năm. Các nguồn tin quân sự Ấn Độ cho biết, binh sĩ Trung Quốc đã chặn con đường độc đạo dẫn đến thung lũng Depsang (hay còn gọi là khu vực nút thắt cổ chai) từ tháng 4/2020. Nguồn tin của Quân đội Ấn Độ nói với Tờ ThePrint: “Vấn đề tranh chấp ở Depsang khác với các cuộc đụng độ ở hồ Pangong hay thung lũng Galwan”… “Binh lính Trung Quốc chỉ chặn đường tuần tra của binh sĩ Ấn Độ, chưa xây dựng cơ sở hạ tầng, làm thay đổi hiện trạng”.

1642564836830.png

1642567383975.png

Trạm kiểm soát TQ chặn con đường tuần tra, vận chuyển của Ấn Độ tại thung lũng Depsang

1642564913614.png

1642568413134.png

Đoàn xe quân sự của Ấn độ gần thung lũng Depsang

Về lý thuyết, binh sĩ Ấn Độ hoàn toàn có thể dùng vũ lực đẩy lùi lực lượng tuần tra Trung Quốc để tiếp cận tới các tiền đồn truyền thống. Nhưng Quân đội Ấn Độ chưa làm vậy, vì không muốn mở mặt trận căng thẳng mới. Trung Quốc có lợi thế khi đưa quân tới thung lũng Depsang vì kể từ cuộc chiến năm 1962, Trung Quốc, đã giữ vững các cao điểm nằm ở rìa phía Đông của Depsang. Từ Depsang phóng tầm mắt về phía Bắc là đèo Karakoram. Khu vực này chỉ có thể tiếp cận bằng tuyến đường DS-DBO. “Nếu đối phương chặn đường DS-DBO, Ấn Độ sẽ mất quyền kiểm soát đèo Karakoram”, quan chức Ấn Độ giấu tên nói.

1642565086351.png

Xe tăng Ấn Độ trong một cuộc diễn tập gần biên giới Trung - Ấn

Năm 1962, các binh sĩ Ấn Độ dù bị đánh bật khỏi cao nguyên Aksai Chin, nhưng đã chiến đấu anh dũng để giữ lại quyền kiểm soát thung lũng Depsang và quan trọng hơn là tuyến đường DS-DBO. Bằng cách kiểm soát chặt Depsang, Trung Quốc cũng đảm bảo an toàn cho cao nguyên Aksai Chin, nếu một ngày Quân đội Ấn Độ muốn phát động chiến dịch quân sự đòi lại lãnh thổ. Kể từ tranh chấp ở Depsang vào năm 2015, Ấn Độ đã bắt đầu đưa các xe tăng chiến đấu chủ lực đến bảo vệ tuyến đường DS-DBO. Quân đội Ấn Độ hiện có ít nhất 3 trung đoàn xe tăng (khoảng 46 xe tăng) đóng quân dọc DS-DBO.

1642567477237.png

Một bức ảnh không ghi ngày tháng được Quân đội Ấn Độ công bố vào ngày 16 tháng 2 năm 2021 cho thấy các binh sĩ PLA tại một điểm chiếm đóng dọc theo Đường kiểm soát thực tế (LAC) tại biên giới Ấn Độ - Trung Quốc ở Ladakh.

1642567711863.png

Các binh sĩ Ấn Độ tại đèo Bumla ở biên giới Ấn Độ - Trung Quốc ở Arunachal Pradesh.

1642567818472.png

Một máy bay vận tải quân sự của Không quân Ấn Độ chuẩn bị hạ cánh xuống một căn cứ không quân ở Leh, thủ phủ của Ladakh giáp với Trung Quốc.

1642567905259.png

Một đoàn xe quân đội Ấn Độ trên đường cao tốc giáp Trung Quốc vào tháng 6-2021 sau cuộc đối đầu chết người ở biên giới tranh chấp lâu nay.

1642567969478.png

Binh sĩ quân đội Ấn Độ ngồi trên xe quân sự sau vụ xung đột hồi tháng 6-2021, trận giao tranh tồi tệ nhất ở biên giới với Trung Quốc trong 53 năm.

1642568028722.png

1642568158819.png

1642568186052.png

1642568210266.png

1642568258698.png

1642568107498.png

Máy bay Su-30MKI và Mig-29 của Ấn Độ gần biên giới với Trung Quốc, năm 2021

1642568486977.png

Những người lính Ấn Độ đi bộ dưới chân một dãy núi gần Leh, thành phố chính ở vùng Ladakh

1642568639209.png

Các sĩ quan quân đội Ấn Độ và Trung Quốc thảo luận về quá trình rút quân khỏi bờ khu vực hồ Pangong Tso ở phía đông Ladakh.

1642569064581.png

1642568794135.png

1642568873019.png

Lính biên phòng TQ và Ấn Độ

1642569184602.png

Quân đội Trung Quốc được cho là chiếm giữ 18 km sâu bên trong đường kiểm soát mà Ấn Độ tuyên bố chủ quyền tại thung lũng Depsang.

1642569299282.png

Một đoàn xe quân đội Ấn Độ chở quân tiếp viện và tiếp liệu tiến về Leh trên đường cao tốc giáp Trung Quốc vào đầu tháng 9-2021.

1642569361285.png

Hồ Pangong dọc biên giới Ấn Độ - Trung Quốc. Vào tháng 9 năm 2019, binh lính Trung Quốc và Ấn Độ đã đụng độ.

1642569541893.png

Một căn cứ của quân đội Ấn Độ gần hồ Pangong

1642569618911.png

Quân đội Trung Quốc, Ấn Độ rút quân khỏi hồ Pangong ở Ladakh

1642569718636.png

1642569837698.png

1642569884558.png

1642569914784.png

Các binh sĩ và xe tăng của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) dọc theo Ranh giới Kiểm soát Thực tế (LAC) tại biên giới Ấn Độ - Trung Quốc ở Ladakh. Ấn Độ và Trung Quốc đã đóng cửa biên giới trong 17 tháng và mặc dù đã có hai đợt rút quân tại các điểm xung đột trong năm 2021, hai bên vẫn có 50.000 đến 60.000 quân mỗi bên ở Ladakh.
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
VÒNG CUNG KURSK TRẬN ĐẤU XE TĂNG LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ CHIẾN TRANH

6.000 xe tăng, 4.000 máy bay, 2 triệu binh lính đã được huy động trong trận Vòng cung Kursk, trận đánh xe tăng lớn nhất lịch sử nhân loại, làm xoay chuyển cục diện Thế chiến Hai.
Theo History, sau khi đánh bại phần lớn châu Âu một cách dễ dàng với chiến thuật “Blitzkrieg” - sử dụng bộ binh cơ giới với nòng cốt là xe tăng hùng hậu đánh thọc sâu, phá vỡ tuyến phòng thủ của đối phương ở tốc độ cao, sự áp đảo về quân số và xe tăng của Đức quốc xã khiến quân đội các nước châu Âu nhanh chóng vỡ trận và thất bại. Adolf Hitler cao ngạo dồn hết lực lượng quyết tâm đánh bại bằng được Liên Xô. Đến tháng 6/1942, Quân đội Đức quốc xã đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Hitler tin rằng sẽ dễ dàng chiếm thành phố chiến lược Stalingrad, từ đó mở đường cho việc đánh bại Liên Xô. Tuy nhiên, khi Tập đoàn quân số 6 của Đức quốc xã tiến công vào Stalingrad đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của Hồng quân Liên Xô. Cuộc vây hãm ở Stalingrad khiến Quân đội Đức quốc xã tổn thất nặng nề. Binh sĩ Đức không được chuẩn bị cho mùa Đông khắc nghiệt ở Nga, trong khi nguồn cung lương thực ngày một cạn kiệt. Binh sĩ đói rét, bệnh tật, trong khi lời hứa tăng quân tiếp viện mà Hitler cam kết trước đó không thực hiện được. Tướng Friedrich Paulus, Tư lệnh Tập đoàn quân số 6 đã đầu hàng Hồng quân vào tháng 2/1943, hành động mà Hitler gọi là “phản quốc”. Thất bại ở Stalingrad trở thành điểm then chốt trong cuộc chiến. Nó cho thấy Quân đội Đức quốc xã không phải là đội quân “bất khả chiến bại”. Với Hitler đó là “sự sỉ nhục” và quyết tâm lấy lại thanh thế bằng một cuộc tiến công với quy mô chưa từng có.

1642667541048.png

1642667592590.png

1642667639897.png

1642667681397.png

Lính SS tại mặt trận phía Đông

1642667762774.png

1642667849517.png

1642667889722.png

Máy bay cường kích Studka của Đức oanh tạc thành phố Stalingrad

1642667987911.png

1642668043054.png

Máy bay cường kích Messerschmitt Bf.110G của Đức tấn công thành phố Stalingrad

1642668090207.png

1642668137909.png

1642668245329.png

1642668277197.png

1642668327987.png

1642668371303.png

1642668457034.png

1642668521461.png

1642668572847.png

Lính Đức tại thành phố Stalingrad

1642668765030.png

1642668873482.png

1642668898835.png

1642668958510.png

1642668996899.png

Thống chế Friedrich Paulus, tư lệnh tập đoàn quân số 6 của Đức tại Stalingrad
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Kế hoạch liều lĩnh của Hitler

Sau thất bại Stalingrad, mùa Hè năm 1943, Quân đội Đức quốc xã quyết định tổ chức cuộc tiến công quy mô lớn vào khu vực vòng cung Kursk, nhằm làm suy yếu tiềm năng của Liên Xô. Hitler cho rằng chiến thắng ở đây sẽ khẳng định sức mạnh của Đức, nâng cao uy tín với các đồng minh đang muốn rút khỏi cuộc chiến. Để phục vụ cho trận đánh chiến lược quyết định này, Quân đội Đức quốc xã đã huy động 22 sư đoàn bộ binh với tổng quân số 912.460 binh lính, 17 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn bộ binh cơ giới với tổng số 2.982 xe tăng các loại: trong đó, có 800 chiếc Tiger - loại xe tăng chiến đấu chủ lực lừng danh của Đức, 9.966 khẩu pháo các loại, 2.110 máy bay chiến đấu. Lực lượng này chiếm đến 17% số sư đoàn bộ binh, 70% số sư đoàn xe tăng, 30% số sư đoàn cơ giới và 60% số máy bay của Đức trên mặt trận phía Đông.
Hitler đã đặt mật danh cho chiến dịch này là Citadel. Theo sắc lệnh số 6 do Hitler phát hành, Tập đoàn quân Trung tâm do Thống chế Gunther von Kluge chỉ huy phối hợp cùng Tập đoàn quân số 9 do tướng Walter Model lãnh đạo tạo thành gọng kìm ở phía Bắc. Tập đoàn quân phía Nam do Thống chế Erich von Manstein chỉ huy phối hợp cùng Quân đoàn Panzer 4 tiến công.

1642747691286.png

2 lính tăng Đức bên cạnh xe tăng Ferdinand trong chiến dịch Citadel

1642747759601.png

Xe tăng Ferdinand của Đức trong chiến dịch Citadel

1642747832414.png

1642747893944.png

Xe tăng Ferdinand của Đức bị phá hủy

1642747934400.png

1642747965318.png

1642748090950.png

1642748114900.png

Lính Đức trong chiến dịch Citadel

1642748053818.png

1642748146604.png

1642749640010.png

1642749704436.png

Xe tăng Tiger của Đức trong chiến dịch Citadel

1642749817975.png

Pháo tự hành Hummel của Đức trong chiến dịch Citadel

1642748453311.png

Xe tăng Panther của Đứcđược vận chuyển cho chiến dịch Citadel

1642748182857.png

1642748425095.png

1642750020916.png

Xe tăng Tiger và Panther của Đức trong chiến dịch Citadel

1642749669823.png

Pháo binh Đức trong chiến dịch Citadel


1642748258228.png

1642748533582.png

Xe tăng Panther của Đức bị phá hủy trong chiến dịch Citadel

1642748340685.png

Xe tăng Panther của Đức bị Hồng quân bắt giữ

1642749536109.png

Xe tăng Ferdinand của Đức bị hỏng sau chiến dịch Citadel
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Ban đầu chiến dịch Citadel dự định bắt đầu vào ngày 3/5/1943, nhưng sau đó Hitler đã cho hoãn chiến dịch đến ngày 12/6. Ông cho rằng, xe tăng là chìa khóa của chiến dịch nên tiếp tục hoãn chiến dịch đến ngày 5/7 để chờ đợi các vũ khí mới như xe tăng Panzer và nâng cấp xe tăng Tiger. Việc Đức hoãn kế hoạch tiến công để củng cố thêm lực lượng đã tạo điều kiện cho đối phương gia tăng tuyến phòng ngự.

1643172665362.png

1643172704102.png

1643172731358.png

1643172757952.png

1643172782778.png

Xe tăng Đức đang được vận chuyển ra mặt trận

1643171943382.png

Tướng Von Kluge, (trái) và Model, chỉ huy Tập đoàn quân 9, thảo luận về tốc độ tiến công của quân Đức sau khi cuộc tấn công bắt đầu.
1643170532041.png


1643170817541.png

Lực lượng xe tăng hạng trung Pz.Kpfw.III của Đức trong trận Kursk

Về phía Liên Xô, từ các thông tin tình báo và trinh sát thu thập được, Nguyên soái Georgy Zhukov khẳng định rằng, Quân đội Đức sẽ tiến hành chiến dịch quân sự lớn vào khu vực Kursk cách 450km về phía Tây Nam Moscow. Nguyên soái Zhukov đề nghị xây dựng tuyến phòng ngự vững chắc kéo quân Đức sa vào “cái bẫy” để đập tan lực lượng thiết giáp, tạo điều kiện cho một cuộc phản công quy mô lớn, nhằm giành thắng lợi quyết định. Hồng quân đã xây dựng 6 vành đai phòng thủ với chiều sâu từ 130 đến 150km, trong đó có 3 khu vực phòng ngự chính với chiều sâu 40km.

1643170406596.png

Khẩu đội pháo 152mm của Hồng quân trong trận Kursk

1643170450875.png

1643171311116.png

Hồng quân hành quân ra trận trong trận Kursk

1643170481338.png

1643171493982.png

1643172481969.png

1643170593382.png

Lực lượng xe tăng T34-76 của Hồng quân trong trận Kursk

Lực lượng công binh Hồng quân đã cài 503.663 quả mìn chống tăng, 439.348 quả mìn sát thương trên 3 khu vực phòng ngự chính; 4.800km giao thông hào đã được đào chằng chịt trong khu vực. Các bãi mìn tại khu vực Kursk có mật độ 1.700 quả mìn sát thương và 1.500 mìn chống tăng/ km2 , gấp 4 lần mật độ được sử dụng để bảo vệ Moscow. Lực lượng huy động cho chiến dịch phòng ngự tại vòng cung Kursk lên đến 1,3 triệu quân, 3.600 xe tăng các loại, 20.000 khẩu pháo chủ yếu là pháo chống tăng, 2.729 máy bay chiến đấu các loại. Lực lượng này chiếm 26% tổng quân số Hồng quân, 26% lực lượng pháo binh, 35% máy bay và 46% lực lượng tăng thiết giáp.

1643171083813.png

Xe tăng Tiger của Đức trong trận Kursk

1643171121641.png

Tướng Heinz Guderian (Đức) đang theo dõi quân Đức triển khai

1643171218197.png

Hồng quân Liên Xô đang đào hào chuẩn bị phòng ngự

1643171550194.png

Trình sát viên Hồng quân Alexey Frolchenko (1905-1967) trong trận Kursk

1643171634168.png

Lực lượng bộ binh chống tăng của Hồng quân trong trận Kursk

1643171686673.png

Nguyên soái Zukov trong trận Kursk

1643172868041.png

1643172916471.png

1643172963470.png

Máy bay cường kích IL-2 của Liên xô trong trận Kursk

1643173010046.png

Khẩu đội pháo chống tăng 45mm của Hồng quân

1643173133651.png

Khẩu đội pháo chống tăng 76,2mm của Hồng Quân
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1.200 xe tăng xung trận cùng lúc

Sáng sớm ngày 5/7/1943, Quân đoàn II SS - Panzer phát động cuộc tiến công quy mô lớn vào khu vực Kursk. Sau một tuần công kích, mũi tiến công phía Nam của Thống chế Von Manstein tiến được 36km vào tuyến phòng ngự, nhưng không phá vỡ được. Hướng tiến công phía Bắc của Tập đoàn quân Trung tâm chỉ tiến được 12km vào tuyến phòng ngự.

1643429255891.png

Lực lượng pháo tự hành thuộc quân đoàn II SS - Panzer

1643429316601.png

Một người lính của Sư đoàn SS "Das Reich" trong tháp pháo của một chiếc Panzer Mk VI "Tiger"

1643429372433.png

Khẩu đội pháo 155mm của Đức trong chiến dịch Citadel

1643429427292.png

Xe tăng Tiger của Sư đoàn SS "Das Reich" đang chờ tấn công vào Kursk

1643429538106.png

Xe tăng Panzer Mk VI Tiger và lính SS trong trận Kursk

1643429557280.png

Một chiếc xe tăng Tiger của sư đoàn SS "Das Reich" đang tấn công một mục tiêu của Hồng quân

1643429618717.png

Các binh sĩ của sư đoàn SS "Das Reich" hành quân cùng xe tăng Tiger

1643429684095.png

Lính Đức trước xe tăng Pz.Kpfw KW-1A của Nga bị phá hủy.

1643429805282.png

Kíp lái tăng Panzer III thuộc sư đoàn SS “Das Reich”

1643429900727.png

Các binh sĩ SS thảo luận với chỉ huy xe tăng Panzer Mk VI Tiger

1643429988496.png

Lính mô tô Đức nấp sau xe của họ, gần Pokrovka

1643430051980.png

Tướng Đức v. Hünersdorff trong chiến dịch Citadel

1643430150400.png

Bộ binh cơ giới Đức ở bên trái và pháo hạng nhẹ FLAK (20mm) lắp trên xe

1643430198394.png

Các phương tiện cơ giới Đức đang tiến về phía Kursk

1643430260164.png

Pháo phòng không 20mm của Đức đang bắn trả máy bay Liên xô

1643430339540.png

Góc nhìn từ xe tăng Panzer MK VI Tiger

1643430390531.png

Một chiếc Panzer Mk VI Tiger đang được kéo bởi một chiếc xe cứu kéo FAMO nặng 18 tấn

1643430441077.png

Xe tăng và lính Đức gần 1 xe cơ giới của họ bị phá huỷ trong chiến dịch Citadel

1643430608582.png

Xe tăng Panzer MK III với tháp pháo số 943 và phía trước là Panzer MK II với tháp pháo số 914

1643430706577.png

Chuyển đạn pháo lên xe tăng Panzer Mk VI Tiger

1643430763604.png

Xe tăng hạng nhẹ của Đức Panzerjäger Marder III Ausf. H (Sd. Kfz. 138)

1643430825824.png

Tiger 123, Đại đội 1 sư đoàn SS sPzabt.503

1643430863736.png

1643430881023.png

Sư đoàn SS chuẩn bị tấn công trong trận Kursk

1643431000213.png

Pháo Marder III 76,2mm Pak của lực lượng Séc tham chiến trong trận Kursk

1643431036683.png

Phía nam Orel, xe tăng Panzer Mk VI Tiger tấn công, phía xa là một tòa nhà bốc cháy
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Ngày 10/7, Hồng quân bắt đầu chiến dịch phản công quy mô lớn, cuộc chạm trán giữa đôi bên lên đến đỉnh điểm vào ngày 12/7 tại cánh đồng Prokhorovka. Chỉ trong vòng 3 ngày, hai bên đã tung vào trận chiến những sư đoàn xe tăng hùng mạnh nhất với tổng số lên đến 1.200 xe tăng và pháo chống tăng tự hành. Trận đánh tại Prokhorovka trở thành cuộc chiến xe tăng lớn nhất lịch sử nhân loại.

1644117417264.png

1644118701539.png

Trận địa phòng ngự của Hồng quân Liên xô

1644115600105.png

1644117165231.png

1644115469415.png

1644118469019.png

Quân Đức đang tiến đến làng Prokhorovka

1644115489325.png

1644115684406.png

1644119589614.png

1644115899392.png

1644116855645.png

1644117005691.png

1644118672458.png

1644118773320.png

1644119800947.png

1644119839475.png

Khung cảnh trận đánh tại làng Prokhorovka

Tại Prokhorovka, Tập đoàn quân xe tăng số 5 của Hồng quân đã chạm trán Tập đoàn quân II SSPanzer của Đức. Hồng quân đã sử dụng chiến thuật táo bạo khi cho xe tăng hạng trung T-34 cắt vào giữa đội hình xe tăng Đức. Những chiếc T-34 nhanh nhẹn quần thảo giữa đội hình những chiếc Tiger và Panzer nặng nề, khiến đội hình tiến công của quân Đức bị cắt đứt, buộc phải rút lui.

1644116099937.png

Tổ súng chống tăng của Hồng quân trong trận Kursk

1644119477625.png

Trận địa pháo chống tăng 76,2mm của Hồng quân trong trận Kursk

1644115992028.png

1644116817659.png

Hồng quân Liên xô tiến theo xe tăng T-34-76 trong trận đánh ở làng Prokhorovka

1644115526089.png

1644116345372.png

1644118753710.png

1644117810453.png

1644115547515.png

1644116483176.png

1644116654781.png

1644117321559.png

1644119028947.png

1644119196416.png

1644119212484.png

1644119658901.png

Xe tăng Đức bị phá hủy trong trận Kursk

1644116282039.png

1644118801704.png

1644116298949.png

1644119623142.png

1644118616170.png

1644116784299.png

1644117133905.png

1644119688609.png

1644116445054.png

1644119239359.png

1644119252955.png

Xe tăng Liên xô bị phá hủy trong trận Kursk

Cả hai bên đều chịu thiệt hại nặng, song đợt tiến công của Đức đã bị chặn đứng. Tối ngày 12/7, Hitler triệu tập Kluge và Manstein yêu cầu ngưng chiến dịch Citadel để rút quân về đối phó với đợt tiến công của quân đồng minh vào miền Nam nước Pháp. Ngày 16/7 quân Đức rút về vạch xuất phát, trong khi Hồng quân đã phát động đợt phản công quy mô lớn, nhằm chiếm ưu thế trên mặt trận phía Đông. Lần đầu tiên, một đợt tiến công quy mô lớn chưa từng có của Đức phải dừng lại trước khi đạt được sự đột phá.

1644118838236.png

Xe thiết giáp và mô tô của sư đoàn SS

1644116058440.png


1644116164323.png

1644118896088.png

Hồng quân Liên xô xem xét những chiếc xe tăng Đức bị phá hủy

1644118881040.png

Hồng quân Liên xô xem xét chiếc Tiger của Đức bị bỏ lại
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tổn thất của đôi bên

Trận vòng cung Kursk là chiến thắng mang tính chiến lược có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến trường. Thắng lợi của Hồng quân đẩy Quân đội Đức quốc xã từ thế chủ động lâm vào thế bị động. Tuy nhiên, cái giá của chiến thắng không hề rẻ. Theo số liệu của nhà sử học Grigoriy Krivosheyev, trong trận Kursk, 685.456 chiến sĩ Hồng quân thương vong, trong đó 429.890 người hy sinh. Tổn thất về trang, thiết bị vũ khí rất lớn, 1.614 xe tăng bị phá hủy trong tổng số 3.600 chiếc tham chiến; 2.349 khẩu pháo các loại bị phá hủy, 1.116 máy bay bị bắn rơi.

1644291637213.png

Khung cảnh trận đấu tăng giữa Hồng quân và Đức tại Kusk, 1943

1644287783013.png

Thành viên Hội đồng Quân sự của Phương diện quân Voronezh, Trung tướng N. S. Khrushchev. Tại trận Kursk, mùa hè năm 1943.

1644287803494.png

Một chiếc T-34 của Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 bị cháy rụi gần Prokhorovka

1644287892089.png

Các chỉ huy Mặt trận Voronezh: Ủy viên Hội đồng Quân sự, Trung tướng N. S. Khrushchev ( đứng trên), Tư lệnh Phương diện quân Đại tướng N.F. Vatutin (ở giữa, quay lưng) và Tư lệnh quân thiết giáp và cơ giới, Trung tướng A.D. Shtevnev, Mùa hè năm 1943.

1644289127954.png

Pháo tự hành chống tăng Su-152 của Liên xô trong trận Kursk

1644291042914.png

Hồng quân Liên xô và xe tăng hạng nặng IS-2 trong trận Kursk

1644289776900.png

Trận địa phòng ngự chống tăng của Hồng quân trong trận Kursk

1644289835674.png

Một trận địa phòng ngự của Hồng quân trong trận kursk, 1943

1644289896404.png

1644290382366.png

1644290520403.png

1644290681713.png

1644291336881.png

Bộ binh và xe tăng Hồng quân tiến công trong trận Kursk, 1943

1644289985781.png

Pháo binh Hồng quân trong trận Kursk, 1943

1644290260952.png

Khẩu đội súng cối 82mm của Hồng quân trong trận Kursk, 1943

1644290554012.png

Một trận địa phòng ngự của Hồng quân Liên xô trong trận Kursk, phía xa là một chiếc xe tăng Đức bị bắn hỏng

1644290615332.png

Hồng quân Liên xô tiến qua những chiếc xe thiết giáp của Đức đang cháy trong trận Kursk, 1943

1644290718742.png

Một chiếc xe tăng T-34 vượt qua hào chiến đấu của Hồng quân trong trận Kursk, 1943


1644290434732.png

Hồng quân Liên xô và dân làng sau một trận đánh trong trận Kursk, 1943

1644290457546.png

Các binh sĩ của Liên Xô tiếp cận thành phố Dmitrov-Orlovsky.

Các số liệu về tổn thất của quân Đức không rõ ràng. Theo nhà sử học Karl Heinz Frieser, khoảng 198.000 binh lính thiệt mạng hoặc bị thương, 760 xe tăng bị phá hủy, 524 máy bay bị bắn rơi. Thất bại tại trận vòng cung Kursk khiến cục diện Thế chiến Hai đảo chiều. Hồng quân phản công, kết hợp với Mặt trận phía Tây của phe đồng minh tạo nên gọng kìm siết chặt lực lượng Đức quốc xã. Hai năm sau thất bại tại Kursk, Quân đội Đức quốc xã đã bị đánh tan. Một số nhà sử học nhận định, chính sự ngông cuồng của Hitler trong việc đánh bại bằng được Liên Xô đã khiến Đế chế thứ 3 sớm lụi tàn.

1644288382262.png

Súng phòng không 20mm Flakvierling 38 của Đức được ngụy trang lắp trên nóc xe bọc thép SdKfz, trận chiến Kursk, mùa hè năm 1943

1644290812928.png

Lính Đức tại Kursk, Nga, mùa hè năm 1943

1644288589889.png

Một chiếc xe tăng hạng nặng Tiger I được ngụy trang một phần, Kursk, Nga, mùa hè năm 1943

1644288626362.png

Kíp lái Tiger của Đức đang ăn trưa tại Kursk, mùa hè 1943

1644288727154.png

Quân cảnh Đức ngồi trên chiếc Kübelwagen trong Trận chiến Kursk, Nga, mùa hè năm 1943

1644288816423.png

1644288862373.png

Lính Đức kiểm tra hư hại trên vỏ giáp của xe tăng hạng nặng Tiger I của mình do đạn chống tăng của Hồng quân, tại Kursk, Nga, mùa hè năm 1943

1644288943001.png

Lính tăng Đức thay thế xích bị hư hỏng trên xe tăng hạng nặng Panzer VI Tiger I, Kursk, Nga, tháng 6 năm 1943

1644289030583.png

Chỉ huy quân đội Đức, Tướng Hermann Hoth và Thống chế Erich von Manstein nghiên cứu bản đồ trong Trận Kursk, Nga, tháng 7 năm 1943

1644289254111.png

1644289304680.png

1644289330864.png

Khẩu đội pháo phản lực 150mm NBW-41 của Đức tại trận Kursk, 1943

1644289682548.png

1644291839084.png

Xe tăng Tiger và lính SS Đức trong trận Kursk, 1943

1644289586322.png

Một chiếc Panzer IV bị bắn cháy trong trận Kursk, 1943

1644290029640.png

1644290352534.png

1644291737058.png

1644291793477.png

Xe tăng Đức bị bắn cháy trong trận Kursk, 1943

1644290086821.png

Có khoảng 800.000 binh lính Hồng quân và 200.000 binh lính Đức thiệt mạng trong trận Kusk
Trong ảnh là xác người lính pháo binh Đức bên cạnh khẩu pháo 88mm.

1644290872888.png

Những đứa trẻ ngồi gần đống đổ nát của ngôi nhà của chúng tại làng Oktyabrskoye sau trận Kursk

1644291163336.png

Hồng quân Liên xô đang kiểm tra xe tăng Panzer IV của Đức bị bỏ lại sau trận Kursk

1644291369477.png

Một chiếc Tiger "mới toanh" của Đức bị Hồng quân thu được trong trận Kursk
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Trận chiến Kursk
Phân tích các nguyên tắc chiến lược và hoạt động


Cuộc chiến chống Liên Xô là chiến dịch then chốt mà Hitler muốn tiến hành nhất. Đối với Hitler, đó là một cuộc chiến, gần như là một cuộc thập tự chinh, có những mục tiêu hầu như vô hạn. Với cuộc tấn công của mình ở phía đông, Hitler muốn chinh phục vùng đất cho sự bành trướng của Đức về phía đông (Lebensraum) và bằng cách chiếm giữ vùng đất này, Hitler muốn giải quyết một lần và mãi mãi vấn đề tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng của người Đức. Ngoài ra, Hitler còn muốn tiêu diệt chủ nghĩa bolshevism của người Do Thái, chủ nghĩa Cộng sản, tận gốc rễ của nó. Hơn nữa, Hitler tin chắc rằng theo Darwin, cuộc chiến sinh tồn không chỉ áp dụng cho cá nhân mà còn cho toàn thể dân tộc. Người Đức chỉ có thể thành công trong cuộc đấu tranh này nếu họ thống trị toàn bộ châu Âu từ bờ biển Đại Tây Dương đến dãy núi Ural. "Cuộc chiến giành quyền bá chủ trên thế giới sẽ được quyết định cho châu Âu bằng việc sở hữu không gian của Nga: nó khiến châu Âu trở thành nơi có khả năng bị phong tỏa nhiều nhất trên thế giới." Đức hoặc sẽ trở thành cường quốc thế giới hoặc sẽ không còn tồn tại.

1644496603988.png

1644496761791.png


Vào mùa hè năm 1940, Hitler quyết định tấn công Liên Xô, mặc dù quyết định này có nghĩa là ông ta sẽ phải chiến đấu trong một cuộc chiến hai mặt trận. Cùng với các mục tiêu nêu trên, Hitler muốn đảm bảo phạm vi ảnh hưởng của Đức trước thách thức ngày càng tăng của các cường quốc Anglo-Saxon. Tuyên bố rõ ràng và thù địch của Tổng thống Roosevelt vào ngày 19 tháng 7 năm1940 đã chuyển Hoa Kỳ vào trung tâm chiến lược của Hitler. Nếu ông ta muốn duy trì thế chủ động và chuẩn bị cho Đức trước thách thức của Mỹ về lâu dài, thì chỉ còn một cách là tuân theo giáo điều của ông ta 'tất cả hoặc không có gì'. "Đế chế" của Đức phải đánh bại càng nhanh càng tốt quyền lực duy nhất còn lại trên lục địa. Ngoài ra, người Đức có thông tin rằng Hồng quân đang phát triển thành một lực lượng hiện đại, có thể sớm tiến hành các chiến dịch tấn công chống lại 'Đế chế' trên quy mô lớn.

1644496908959.png

1644496990747.png

1644497011086.png

1644496928937.png


Hồng quân Liên Xô

Đối với Hitler và Lực lượng vũ trang Đức - Wehrmacht - rõ ràng là có ý nghĩa quyết định để đánh bại Liên Xô một cách nhanh chóng. "Chúng ta tiêu diệt Nga càng nhanh càng tốt. Chiến dịch chỉ có ý nghĩa, nếu chúng ta dứt khoát phá hủy [nhà nước] trong một động thái." Một điều kiện quan trọng cho chiến dịch là phải đánh bại Hồng quân trước đầu mùa đông năm 1941.

1644496684825.png

1644496724081.png

Quân đội Đức quốc xã

Thay vì tấn công vào thời điểm sớm nhất có thể (ngay sau khi hết lụt lội mùa xuân), chiến dịch đã không bắt đầu cho đến ngày 22 tháng 6 năm 1941. Cuộc tấn công bị trì hoãn do chiến dịch Balkan của Wehrmacht, một phương án dự phòng vào phút chót buộc Đức phải hỗ trợ sự thất bại của quân đội Ý ở khu vực đó. Việc đó đòi hỏi quân Đức phải di chuyển để bảo vệ sườn phía nam. Chiến dịch Balkan là cần thiết do các cường quốc phe Trục thiếu một cách tiếp cận có hệ thống trong việc phát triển một chiến lược quân sự. Đơn giản là họ không thể phát triển một chiến lược chung. Theo quy định, các quyết định của mỗi quốc gia không được chuyển cho đồng minh của họ trước khi chúng được thực hiện. Do đó, Ý tấn công Hy Lạp vào ngày 28 tháng 10 năm 1940 mà không tham khảo ý kiến của Đức. Cuộc phiêu lưu ở Hy Lạp suýt trở thành thảm họa đối với người Ý. Người Đức có nghĩa vụ can thiệp thay mặt cho đồng minh của họ và ngăn chặn một chỗ đứng của Anh trên lục địa. Điều này gây ra một sự thay đổi quan trọng trong quá trình chuẩn bị cho 'Barbarossa' - cuộc tấn công vào Liên Xô.

1644497167124.png

Pháo binh Đức khai hỏa trong cuộc tiến công Hy Lạp, năm 1941.

1644497349806.png

1644497275785.png

1644497324487.png

Lính Hy Lạp trong chiến tranh Italia - Hy Lạp

1644497428795.png

1644497466601.png

1644497501083.png

Lính Đức tại Athen, Hy Lạp

1644497694908.png

Không quân Anh trong chiến tranh Italia - Hy Lạp
 

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1644588911613.png


Một khi Barbarossa được tung ra, kỳ vọng của người Đức về một chiến thắng nhanh chóng trước Liên Xô sớm tan tành khi cuộc tấn công của Đức bị bế tắc trước Moscow vào tháng 12 năm 1941. Đây là kế hoạch để đánh bại Liên Xô nhanh chóng. thất bại. Nếu không có một chiến thắng nhanh chóng, Đức thiếu nguồn lực để đánh bại Liên Xô. Do đó, Bộ trưởng Bộ vũ khí Đức, Todt, đã yêu cầu Hitler tìm kiếm một giải pháp chính trị. Nhưng cách tiếp cận này không tương thích với chính sách 'tất cả hoặc không có gì' của Hitler. Vì vậy, vào năm 1942, ông lại quyết tâm "... đưa ra quyết định chiến lược ở chiến trường phía đông." Tuy nhiên, để tiếp tục chiến tranh, các mỏ dầu gần khu vực Caucasus sẽ phải bị chiếm lại, như một điều kiện tiên quyết để tiếp tục. Hitler đã thỏa hiệp giả định hợp lý này bằng một quyết định phi lý là chia cuộc tấn công vào tháng 7 năm 1942 thành hai chiến dịch đồng thời và độc lập. Sự kém hiểu biết của ông về ý định và khả năng của Hồng quân cũng như khoảng cách rộng lớn của lãnh thổ của Liên Xô đã dẫn đến sự kiệt quệ của lực lượng Đức trên thực địa. Các chiến dịch của Đức ở phía nam, nơi có tiềm năng đảm bảo lượng dầu cần thiết, thay vào đó lại dẫn đến thảm họa Stalingrad. Thất bại này có nghĩa là một sự thay đổi hoàn toàn của cuộc chiến ở phía đông; ngoài ra "không có hy vọng nào cho chiến thắng."

1644590815062.png


Hậu quả của việc Hitler không đạt được chiến thắng nhanh chóng cần thiết trong cả hai năm 1941 và 1942 đều rõ ràng đối với hầu hết các sĩ quan. Vì không thể đạt được chiến thắng, câu hỏi còn lại duy nhất đối với Thống chế von Manstein là làm thế nào để đạt được một thỏa thuận có lợi với Liên Xô trước khi mặt trận thứ hai trên lục địa được thiết lập bởi các cường quốc hàng hải, Anh và Mỹ. Vì vậy, khi người ta coi cuộc phản công tại sông Donee vào tháng 2 năm 1943 và trận chiến Kursk hay 'Chiến dịch Zitadelle - Citadel' vào tháng 7 năm 1943, chúng nên được xem xét trong bối cảnh này, thay vì là những trận chiến đơn lẻ. Những hoạt động song song này là những ví dụ nổi bật về việc von Manstein nghĩ rằng Stalin có thể phải chấp nhận về sự cần thiết phải đàm phán một giải pháp hòa bình có lợi cho Đức.

1644589196852.png

Hồng quân Liên Xô vượt qua chiếc xe tăng Đức bị bỏ lại, mùa Đông 1941

1644589262604.png

Hồng quân Liên Xô phản công gần Moscow, mùa Đông 1941

1644589302088.png

1644589370940.png

1644589528387.png

Quân Đức trong một trận đánh tại ngoại ô Moscow, mùa Đông 1941

1644589350517.png

1644589443798.png

Quân Đức tại ngoại ô Moscow, mùa Đông 1941

1644589388151.png

Nhân dân thành phố Moscow tham gia phòng thủ thành phố

1644589682957.png

1644589763552.png

1644589810274.png

Hồng quân Liên Xô trong một trận đánh ở ngoại ô Moscow, mùa đông 1941

Cuộc tấn công mùa đông 1942/43 của Liên Xô đã đẩy quân Đức vào thế phòng thủ chiến lược trên toàn bộ mặt trận phía đông. Các lực lượng Đức bị tấn công đã khó có thể ngăn cản các cuộc đột phá quyết định của Liên Xô. Vào đầu tháng 1 năm 1943, hai mũi tấn công từ phía bắc và phía đông nhằm vào Rostov nhằm cắt đứt toàn bộ quân Đức ở phía nam sông Don. Việc này đặt ra nguy cơ tái lập một trận Stalingrad trên quy mô lớn hơn. Cùng lúc đó, Phương diện quân Voronez và Phương diện quân Tây Nam của Liên xô đã thành công trong việc tiêu diệt Tập đoàn quân 8 của Ý và Quân đoàn 2 của Hungary. Kết quả là khoảng cách giữa Tập đoàn quân B và Cụm tập đoàn quân Don của Đức đã bị dãn rộng tới 300 km.
Mục tiêu của của Liên Xô là các chia cắt Dnepr của Dnepropetrovsk và Zaporoze. Bằng cách kiểm soát những nút thắt giao thông này, đường tiếp vận của Tập đoàn quân Don của Đức sẽ bị cắt đứt. Một cuộc tấn công theo sau có thể bao vây toàn bộ cánh phía nam của Đức tại Biển Azov. Việc tiêu diệt cánh phía nam của Đức chỉ là một phần trong kế hoạch lớn hơn của Liên Xô nhằm đập tan hoàn toàn mặt trận phía đông của Đức. Cùng lúc với các Phương diện quân Voronez và Tây Nam tiến về phía tây nam, các Phương diện quân Brjansk và Tây dự định chia cắt Cụm tập đoàn quân Trung tâm Đức. Phương diện quân Trung tâm (Liên xô) mới được xây dựng - được thành lập thông qua việc tập hợp các lực lượng sau khi giải phóng Stalingrad - có thể sử dụng như hai Phương diện quân và hoàn thành việc bao vây Cụm tập đoàn quân Trung tâm.

1644588966068.png


Bộ Tư lệnh tối cao quân đội Đức (Oberkommando des Heeres) đánh giá tình hình ở miền nam ngày càng nghiêm trọng. Vào ngày 12 tháng 2 năm 1943, nó tái cấu trúc chuỗi chỉ huy. Cụm tập đoàn quân B bị bãi bỏ và khu vực chịu trách nhiệm cũng như lực lượng của nó được phân chia giữa Cụm tập đoàn quân Trung tâm và Cụm tập đoàn quân Don - nay được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân Nam.
Để chống lại sức ép của Liên Xô, Manstein cần phải có được những đội quân cơ động và có kinh nghiệm đủ sức để đánh bại lực lượng của Liên Xô. Cách duy nhất để thực hiện điều này là rút quân từ các đơn vị hiện có đang ở phía tây và các khu vực khác. Điều này có nghĩa là rút ngắn giới tuyến, chấp nhận rủi ro nhiều hơn, sử dụng không gian để cơ động và định hình chiến trường để phản công hoặc "tấn công trái tay" (Schlagen aus der Nachhand). Để đạt được những điều này, Manstein đã phải chiến đấu với người Nga, thời tiết và thậm chí cả thống chế Hitler. Chỉ sau chuyến thăm tại Sở chỉ huy của Cụm tập đoàn quân Nam, tình hình quân đội Đức đối mặt nguy cấp như thế nào, Hitler mới trao cho Manstein quyền tự do hành động.

1644589978290.png

1644590035496.png

Xe tăng Tiger của Đức trong trận Kursk

Ưu thế về quân số của Liên Xô là 6-7/1. Liên Xô tấn công với 16 tập đoàn quân và Tập đoàn xe tăng Popov. Các lực lượng này được tổ chức thành ba Phương diện quân là Phương diện quân Nam, Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Voronez. Cụm tập đoàn quân Nam của Đức có các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 cùng các Tập đoàn quân Hollidt và Lanz (tính đến ngày 19 tháng 2 "Kempf"). Manstein chỉ có thể sử dụng 354 xe tăng sẵn sàng chiến đấu. Ngược lại, phía Liên Xô trung bình có khoảng 600 xe tăng.

1644590231604.png

Pháo chống tăng tự hành Su-122 của Liên Xô

1644590346399.png

Pháo chống tăng tự hành Su-85 của Liên Xô

1644591113094.png

1644591182102.png

1644591088777.png

1644590979527.png

Máy bay cường kích chống tăng IL-2 của Liên Xô

1644590466120.png

Xe tăng Panzer III của Đức chuẩn bị cho trận Kursk

1644590574486.png

1644590607165.png

1644590671162.png

Vận chuyển xe tăng Tiger của Đức cho trận Kursk

1644591243840.png

1644591261697.png

1644591283652.png

1644591304140.png

Cường kích Ju-87 của Đức
 
Chỉnh sửa cuối:

đội mũ_ lái xe

Xe ba gác
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
23,292
Động cơ
654,071 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Kế hoạch chiến dịch
Kế hoạch Tác chiến của Cụm tập đoàn quân Nam chia làm ba giai đoạn và nó bao gồm sự tập trung lực lượng ở phía nam và phía bắc, cũng như lực lượng dự bị cơ động cho phản công ở trung tâm:
- Giai đoạn 1: Rút lui các lực lượng Đức (Quân đoàn 1, 4 và Quân đoàn Hollidt) ở vùng Don-Donets về phía bắc Rostov sau sông Mius. Do đó, việc rút ngắn chiến tuyến từ 400 xuống còn 180 km, tạo điều kiện cho Bộ chỉ huy sử dụng Tập đoàn quân xe tăng 4 và sư đoàn xe tăng 4 làm lực lượng tấn công.
- Giai đoạn 2: Điều trở lại động lại Sở chỉ huy Tập đoàn quân xe tăng 4 từ cánh phải sang cánh trái của Tập đoàn quân cũng như bố trí lại 10 sư đoàn xe tăng.
- Giai đoạn 3: Phản công bằng tất cả lực lượng sẵn có chống lại quân địch (Hồng quân) trong khoảng trống giữa Quân đoàn Lanz và Tập đoàn quân xe tăng 1.

1644768380379.png

Xe tăng, thiết giáp thuộc Sư đoàn xe tăng SS số 1

1644768619425.png

1644769010474.png

Một trong những chiếc Pz.Kpfw.IV Ausf.H đầu tiên do VOMAG sản xuất vào tháng 5 năm 1943. Vỏ giáp đính hai bên được bắt vít và vẫn có hai đèn pha.

1644768724671.png

Một chiếc xe tăng VOMAG khác, sản xuất vào tháng 6 năm 1943. Các miếng giáp lắp thêm 2 bên thành xe đã bị bắn hỏng

1644769058136.png

Panzer của sư đoàn xe tăng SS tham chiến tại Kursk

1644768803510.png

Xe tăng Panzer cải tiến của Đức năm 1943

1644768878327.png

1644768979284.png

Xe tăng Pz.Kpfw.IV Ausf.H do Krupp chế tạo, tháng 10 năm 1943. Người Đức đã rút được kinh nghiệm sau trận Kursk để gia cố xe tăng chủ lực


Thực thi Chiến dịch
Thông qua các cuộc điều chuyển quân này, chủ yếu được thực hiện từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 2 năm 1943, Manstein đã thành công trong việc xây dựng một “cái phễu”, nơi “dụ” các đơn vị của Phương diện quân Tây Nam Hồng quân tiến vào. Manstein bắt đầu cuộc phản công của quân Đức với 03 Quân đoàn xe tăng vào ngày 19 tháng 2 tấn công từ các hướng khác nhau. Ông ta có đủ lực lượng và phương tiện cần thiết vào ngày 21 tháng 2. Đến ngày 5 tháng 3, nó đã thành công đến mức Tập đoàn quân xe tăng 4 và 1 đã tái chiếm các khu vực đến tận gần Kharkov và tiêu diệt các lực lượng của Phương diện quân Tây Nam trong khu vực.
Tận dụng giai đoạn băng chưa tan, Manstein nắm lấy cơ hội và tấn công tiếp tục về phía đông bắc. Các lực lượng của Phương diện quân Voronez trong khu vực này đã bị tiêu diệt, một phần là do những bước tiến nhanh chóng trước đó của họ đã khiến đường tiếp tế của họ bị quá tải, lực lượng tiến công bị thiếu xăng, dầu, dạn dược, lương thực... Đến ngày 23 tháng 3, quân Đức đã thành công trong việc giành lại toàn bộ khu vực đến tận sông Donee, bao gồm cả Kharkov và Belgorod. Kết quả là nó đã phá hỏng thành công cuộc tấn công theo kế hoạch của Phương diện quân Trung tâm (Liên xô) nhằm vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) kể từ khi lực lượng của Manstein uy hiếp sườn nam và hậu phương của Phương diện quân. Để chống lại mối đe dọa này, Bộ Tổng tham mưu Hồng quân đã điều 4 tập đoàn quân đến tăng cường cho Phương diện quân Voronez. Thiếu những lực lượng này, Phương diện quân Trung tâm phải hủy bỏ cuộc tấn công. Cùng với sự kết thúc của cuộc phản công của Manstein, kế hoạch cho Trận chiến Kursk tiếp theo đã được thiết lập về mặt địa lý và chiến lược.

1644769209407.png

1644769268163.png

1644769295191.png

1644769330151.png

1644769427333.png

1644769489594.png

1644769525021.png

1644769546922.png

1644769590007.png

1644769611618.png

1644769655205.png

1644769687025.png

1644769763886.png

1644769796062.png

1644769973628.png

1644769911130.png

1644770046238.png

1644770065042.png

1644770105795.png

Sư đoàn tăng thiết giáp SS số 5 của Đức
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải
Top