Tất cả những gì cụ nói chỉ là suy nghĩ của cụ và 1 số người cố gắng tô vẽ điểm sáng cho NH mà phớt lờ đi nhiều điểm tối của ông ấy, Nếu dân mà ủng hộ và tôn sùng NH đến như vậy thì đã chả đóng cũi con ông ấy đi nộp cho NA và ngược lại NA mà không ra gì thì dân đã đóng cũi nộp cho NH lâu rồi. Sự kiện NH mất chỉ làm cho TS sụp đổ nhanh hơn thôi chứ kết cục đó là không thể tránh khỏi. Và ai được lòng dân thì người đó có được đất nước, nếu không được lòng dân thì dù chiếm được cũng chẳng thể nào giữ được thực tế đã chứng minh là như vậy dù các cụ có muốn nhìn nhận hay không
Có một số Cụ quá cực đoan, lên án, vô lễ với Nguyễn Ánh là Vua đầu tiên Vương triều nhà Nguyễn chưa kể các đời Chúa Nguyễn trước đó (9 đời Chúa , 13 đời đời Vua) kéo dài hơn 300 năm. Vì thế Em mói có ý kiến, vì các Vị vua đó dầu gì cũng là vương triều có công mở rộng bờ cõi để có nước VN ngày nay. Từ cơ sỏ đó Bác Hồ và LĐ sau đó mới có căn cứ đòi lại biên giới VN(bao gồm HS, TS).
Em luôn Kính trọng cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh vì họ đều có tài, có công với nước. Và bản thân Họ cũng có những sai lầm. Nhưng thời chiến tranh loạn lạc, nếu đánh giá từng hành vi, yêu cầu đều làm điều đúng thì khó. Nếu không thủ đoạn, tàn nhẫn, thì không thể có thành công trong quân sự, chính trị,...
Thời Trung cận đại, nước ta có vua Lê là bù nhìn nhưng có chính danh là vua nước Đại Việt. Ngoài ra còn những thế lực khác chỉ xưng vương như nhà Mạc, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, Nhà Tây Sơn mỗi bên cát cứ một vùng. Họ chiến đấu, tranh đấu cũng vì quyền lợi cho gia tộc họ thôi (thắng sẽ được làm quan, làm vua), chẳng vì dân, chẳng tốt bụng đâu? Em chỉ coi họ là những yếu nhân trong lịch sử chẳng mang ơn, chẳng oán hận. Không phải họ thì người khác cũng thế thôi.
Nhưng đối với nhà Nguyễn, cả Chúa Nguyễn và Triều Nguyễn Em biết ơn vì họ có thành quả làm lợi cho đất nước rõ ràng hơn Các vua khác. Nhà Nguyễn làm giàu bao nhiêu, gia đình sung sướng em không nói, nhưng kết quả cuối cùng đạt được là nhà Nguyễn đã mở mang thêm bờ cõi, thống nhất thể chế Việt Nam. Dù bản thân từng vị Chúa, Vua Nguyễn cũng có người hiền người xấu tính. Xét Công tội, phải xét cả triều đại và xét sự cống hiến của họ với đất nước nhiều ít.
Cụ thể, đất nước ta rộng mở như ngày nay nhờ công lớn của Nhà Nguyễn. Đánh giá LS một triều đại phải đánh giá chung dòng họ theo triều đại, chứ không cắt khúc từng đời, từng cá nhân. Đánh giá chỉ chăm cái xấu mà phủ nhận cái tốt. Có ai dám chắc các triều đại khác không có sai lầm không? Hồ Quý Ly có sai lầm, cướp ngôi nhà Trần làm Quân Minh xâm chiến VN không? là ai ? Ông là Tổ của Tây Sơn.
Đời vua Gia long sau khi lên ngôi, kế đến Minh mạng, Triệu Trị, Tự Đức,... đều cố lo cho đất nước, tổ chức bộ máy hành chính, phát triển văn hóa. Vua Minh mạng còn lấn đất qua Lào, Cam, cắt quan sang cai trị ... sau không ổn, do dân Cam chống đối Trương Minh Gỉang phải rút quân về. Đánh giá Công , tội Nguyễn Ánh là phải đánh giá tiếp nối ba bốn đời sau từ Gia long đến Tự Đức (Cuối Tự Đức, 1858 thì Pháp nổ súng đánh mở màn xâm lược đầu tiên). công lớn Vua Gia long là trong gia đình dành lại ngôi vua, lập ra triều đại thống nhất, sinh con, tạo tiền đề để Vua Minh mạng Triệu trị tiếp nối mở mang, chấn hưng đất nước.
Nói về tội: Nguyễn Ánh cũng có tội và sai lầm chứ? Như mọi người lên án đó là:
Cầu viện Xiêm la;
Thỏa thuận Hiệp ước Versailles năm 1787 (hiệp ước ký kết, một bên là hầu tước Montmorin đại diện vua Pháp và một bên là Pigneau de Behaine-Bá Đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh). Nội dung chủ yếu là Pháp đưa quân đội, vũ khí sang giúp đánh
Tây Sơn, sau Nguyễn Ánh đồng ý cắt lãnh thổ Việt Nam cho Pháp. Sau do cuộc
Cách mạng Pháp 1789, Pháp không thi hành Hiệp ước Versailles nên bị hủy.
Giết hại công thần (cá nhân) Nguyên Văn Thành và Đặng Trần Thường.
Trả thù Tây Sơn (cá nhân): đào mồ vua Quang Trung,....
Về việc cầu viện Xiêm la; thì trong thời kỳ lịch sử đó, Các nước PK thường kết thân với nhau, bảo hộ nhau theo kiểu chư hầu, nhờ vả qua lại khi binh biến. Đó cũng là bình thường. Chính Cam (Chân lạp) cũng nhiều lần nhờ Chúa Nguyễn, Vua Nguyễn hỗ trợ binh mã. Nguyễn Ánh cũng ko ngoại lệ, sau đó ông nhận ra sai lầm và cũng hối tiếc về điều đó vì Quân Xiêm có cướp bóc hãm hiếp dân lành.
Tuy nhiên, đánh giá lịch sử là đánh giá hậu quả cuối cùng mà người dân được hưởng. Tổng thể Triều Nguyễn có công lớn hơn tội, nên được nhiều người dân tri ân là vì thế. Dân miền Nam đã che chở, góp tiền bảo bọc để Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Hàng năm cứ vào mùa gió Nồm thổi là chúa Nguyễn xuất quân đánh Tây Sơn, nên có câu ca dao: "Lạy trời cho chóng gió Nồm. Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm trẩy ra" nói lên mong ước của người dân.
Còn Việc Vua tự đức ký hòa ước... để pháp xâm lược cũng là hoàn cảnh chung. Vì thực chất chính quyền đánh không lại quân xâm lược có vũ khí vượt trội. Thế giới lúc đó là luật rừng, nước mạnh xâm chiếm nước yếu thì có hàng hay không nó vẫn xâm chiếm bằng vũ lực. Toàn ĐNA, các nước kể cả đại Thanh, Nhật. Triều Tiên cũng phải ký những Hiệp ước bất bình đẳng như vậy, cũng như việc thực dân Anh đổ bộ lên Bắc Mỹ. Không lẽ, bây giờ con cháu người da đỏ ở Mỹ chửi Tổ, oán trách tổ tiên của họ rằng sao không đánh đuổi quân Anh sao?
(
Hiệp ước bất bình đẳng là các hiệp ước mà nước thực dân phương Tây áp đặt đối với vài nước Đông Á - gồm nhà Thanh, chính phủ Tokugawa Nhật Bản, Triều Tiên, nhà Nguyễn ở Việt Nam, và H/Ư Nhật Bản áp đặt cho nhà Thanh hay Triều Tiên trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đây là thời kỳ các nước châu Á không thể kháng cự nổi áp lực quân sự của các cường quốc phương Tây, Nhật Bản. Những thất bại quân sự khiến họ phải chấp nhận ký các hiệp ước bất lợi cho mình.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hiệp_ước_bất_bình_đẳng )
Câu ca dao ai cũng được nghe hát từ thuở nhỏ là:
“ Lạy trời cho chóng gió Nồm Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm trẩy ra“
Câu ca tất cả đều như để nhấn mạnh: Ước vọng của nhân dân hướng về chúa Nguyễn; chuyện mong ước để thuyền thuận gió (Nồm) cũng chính là biểu hiện của thuận lòng người, thuận lòng dân. Trong khi hiệu đính và chú giải Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, các nhà biên dịch cũng có nói về chuyện này, và cho rằng câu hát đó là của “bọn sĩ phu ********* chống Tây Sơn, ngả theo Nguyễn Ánh”, đặt ra là: “Lạy trời cho chóng gió Nồm/Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm trẩy ra”. Nhưng, dù là nhân dân hay “bọn sĩ phu *********” đặt ra thì câu ca này cũng có giá trị phản ánh
trung thực một thời kỳ lịch sử cách đây hơn 200 năm trước. Nhân nói chuyện thuận gió nhưng cũng chính là nói về chuyện thuận lòng dân. Việc thuận lòng dân qua hình ảnh những cái giếng dọc biển miền Trung.
Dọc biển miền Trung đến nay còn khá nhiều cái giếng có tên là giếng Vua, giếng Vương, thậm chí còn gọi giếng Gia Long. Ở Quảng Ngãi có giếng Vương ở làng Thanh Thủy (xã Bình Hải, Bình Sơn), giếng Vua/Vương ở An Vĩnh (Lý Sơn, hay dân gian còn gọi là giếng Xó La). Ở Quảng Nam có 2 giếng cổ ở thôn Thuận An (xã Tam Hải, Núi Thành), cũng được gọi là giếng Vương hay giếng Vua. Ở Phú Quốc cũng có giếng Vương ở Bãi Ngự (thị trấn An Thới). Tất cả các giếng đó đều nằm gần sát mép biển, nhưng nước rất ngọt, bốn mùa không cạn. Khi được hỏi, hầu hết người dân đều cho rằng, đó chính là cái giếng do chính chúa Nguyễn Ánh - vua Gia Long trong những ngày bôn ba, cho đào lấy nước nuôi quân và cho dân chúng dùng thuở trước. Rõ ràng là, đâu phải chỉ mong chờ cho thuyền chúa Nguyễn được thuận gió Nồm mà chính người dân cũng tự thiêng hóa, huyền thoại hóa, lịch sử hóa cái giếng của làng mình thành cái giếng gắn liền với chúa Nguyễn - Gia Long, dù cái giếng đó đã từng có trước đó, mà hầu hết, theo các nhà khảo cổ, là giếng của người Chăm từng đào hàng nghìn năm trước, như giếng Vua (Xó La) ở Lý Sơn chẳng hạn.
Và cũng từ chuyện thuận gió, thuận lòng người này, xin được nói thêm về một điều khác nữa: có lẽ các nhà sử học cũng nên tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn vai trò Nguyễn Ánh trong lịch sử, như một số người đã từng đặt ra trong nhiều năm qua, tiêu biểu là giáo sư Trần Quốc Vượng, trong bài tham luận “Mấy vấn đề về vua Gia Long” (trình bày trong Hội thảo khoa học về thời Gia Long tổ chức tại Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/1996).
CHẶT ĐẦU TÂY...
Tương truyền, năm vua Duy Tân 12 tuổi (1912), có dự yến ở tòa Khâm sứ cùng một viên cố đạo người Pháp...
Viên cố đạo này là người có tuổi, là người thạo tiếng Việt và tiếng Hán. Hắn thấy vua nước Nam nhỏ tuổi, muốn thử tài vua, nên ra vế đối:
"Rút ruột ông vua, tam phân thiên hạ."
Chữ "vương" (vua) nếu bỏ đi nét dọc ở giữa sẽ thành chữ "tam". Viên cố đạo đang cố ý gợi chuyện Chính phủ Thực dân chia nước ta ra làm 3 kỳ để cai trị...
Nào ngờ, vị vua mới 12 tuổi kia đã đối lại ngay:
"Chặt đầu thằng Tây, tứ hải giai huynh."
Chữ "Tây" nếu bỏ đầu sẽ ra chữ "Tứ". Câu này thể hiện sự căm ghét thực dân Pháp của vua và cũng bộc lộ lòng yêu nước, sẵn sàng đoàn kết lại diệt Tây của Ngài...
Viên cố đạo có ý làm nhục nhà Vua, không ngờ lại tự làm nhục chính mình. Gã tái mặt, từ đó đến cuối buổi tiệc, không dám ho he gì cả...
----------------------------------------
*FACT: Vua Duy Tân tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900-1945) , trị vì: 1907-1916, là Vua thứ 11 của Nhà Nguyễn. Năm 1916, tham gia khởi nghĩa cùng Việt Nam Quang Phục Hội, Vua bị Pháp bắt đầy ở đảo Réunion. Trong Đệ Nhị Thế chiến Vua tham chiến trong phe Đồng Minh, giải ngũ năm 1945, hàm Thiếu Tá Không quân. Năm 1945, Ông bị tai nạn máy bay, thọ 45 tuổi.
View attachment 4528493
Ảnh Vua Duy Tân và các cao thủ đại nội ở Huế thế kỷ trước.
View attachment 4528516
View attachment 4528519
Đại Nam Thành Thái
Đời Nguyễn
...
Để có hình luật phục vụ quá trình cai trị đất nước, vua Gia Long sai viên tướng có tài kiêm văn võ là Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài soạn luật. Năm 1815, bộ luật mang tên Hoàng Việt luật lệ (gọi là Luật Gia Long),
Điều luật về tội đánh bạc là điều thứ 343, vẫn quy định như tịch thu tài sản người chủ chứa bạc sung công quỹ, tịch thu toàn bộ số tiền tại sòng. Các con bạc bị phạt 100 roi hay đi phu dịch 3 năm, nộp phạt 10 quan tiền. Các khoản tiền thu về trong và sau vụ đánh bạc được dùng làm phần thưởng cho những người tố giác tội phạm. Người đứng mở nhà chứa bạc tuy không dự vào hạng người đánh bạc cũng xử cùng một tội như người đánh bạc, chỗ nhà đánh bạc ấy cũng sung vào nhà nước.
Sử nhà Nguyễn cũng ghi lại các vụ xử đánh bạc trong bộ Đại Nam thực lục. Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1828, một đầu mục trại lính là Đỗ Bá Thố, phạm tội đánh bạc, lại ép người dưới quyền vay tiền rồi xiết nợ. Vụ việc bị phát giác, tên Thổ bị xử phạt gông cổ, đem bêu ngoài cửa trại lính suốt 2 tháng, rồi sau đó, đánh 100 trượng và bắt về làm lính ngay tại trại đó.
Vua Minh Mạng có chỉ dụ về vụ việc này rằng: “Mưu làm việc riêng, coi thường phép nước, không gì hơn thế. Nếu chỉ phạt trượng và cách dịch thì chưa đáng tội”.
Ngoài xử tội Bá Thổ, các cấp trên của hắn gồm
viên chánh, phó quản cơ ở cơ ấy không biết xem xét cáo giác sự việc, mỗi viên đều xử phạt lương 6 tháng để răn. Nhà vua còn sai Bộ Hình đem chỉ dụ về vụ án này này sao ra nhiều bản cấp cho các vệ, cơ lính ở các thành hạt đem treo ở trại lính để được biết và lo răn sửa.
Vào năm 1842, khi vua Thiệu Trị ngự giá ra Bắc, ở kinh thành có người lính vệ Hậu nhất quân Vũ Lâm tên Phạm Công Đạt, một đêm được sai đi tuần đã tự tiện bỏ nhiệm vụ, lẻn về trại ở bên trái hoàng thành mở sòng bạc, lại chống trả quan quân vây bắt.
Khi vua Thiệu Trị trở về kinh đô, nghe lời tâu rất tức giận, ban dụ: “Tên Phạm Công Đạt nguyên là kẻ lại dịch gian xảo, trước đã can án phải cách dịch sung bổ vào ngạch giản binh, nay lại dám coi thường làm bậy như thế, thực là đáng ghét. Nếu chỉ chiểu luật “đánh bạc” mà xử trị thì chưa đúng tội”.
Rồi sau đó, nhà vua xử Đạt hình phạt nặng hơn mức bình thường, là đánh 80 côn đỏ (nặng hơn đánh trượng), đóng gông, giải tới nhà lao lĩnh án “giảo giam hậu”, (tức là treo cổ nhưng chờ lệnh xử sau) để làm răn cho kẻ khác.
Những
người liên quan vụ việc bị giáng 2 - 4 cấp, trong đó quan ngự sử Nguyễn Tuấn Phong và Thống chế Lê Văn Thảo do “
có chức sắc mà không nghiêm trị” nên bị giáng một cấp. Viên đội suất Nguyễn Văn Doanh đi tuần đêm xảy ra đánh bạc, có công phát hiện tội phạm được hưởng 5 đồng Phi Long bằng bạc.
Vua Thiệu Trị do ghét người có các thói hư tật xấu, nên khi
thấy con trai trưởng là Hồng Bảo ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành, nên lúc lâm chung, Vua đã gọi các đại thần Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào trăng trối, để di chiếu
truyền ngôi cho con thứ là Hồng Nhậm, là vua Tự Đức sau này (cách chức thái tử con trưởng).
View attachment 4528536
Nhìn hình thức Vua, quan nhà Nguyễn hành xử có phải giống hôn quân, quan tham nhũng không?...
Trích : .... Nội dung chính Hiệp ước Versailles 1787 của Nguyễn Ánh nhưng hai bên không thực hiện:
Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 mọi Cafres. Đổi lại, Nguyễn Ánh nhường hòn đảo Hoinan (cù lao Chàm?) đứng trấn đường vào cửa Touron , nhường cửa Touron (cửa Đà Nẵng) cho Pháp tuỳ ý xây dựng và hòn Poulo Condore (Côn Đảo). Pháp được quyền tự do thương mại và hơn nữa, độc quyền thương mại ở Nam Hà. Những chiếc tàu buôn ngoại quốc nào vào Nam Hà phải có giấy thông hành của Pháp và mang cờ Pháp.