[Funland] Tại sao Vin chọn Siemens

hoantoanmayman

Xe tăng
Biển số
OF-18888
Ngày cấp bằng
11/11/18
Số km
1,404
Động cơ
164,568 Mã lực
Giờ em nghĩ lại thì Thaco cũng chưa chắc đã rút. Việc mà Vin không đủ năng lực làm, Thaco chưa chắc đã không đủ năng lực. Lý do:

1. Thaco có cơ hội để nâng điều kiện ưu đãi của NN, do họ là bên duy nhất còn lại trông có vẻ đủ lực để làm.

2. Chủ Thaco là người Việt gốc Hoa. Nếu anh này kéo được vốn của TQ vào, công nghệ của TQ, thì có thể hoàn thành dự án.

Đấy là 2 lý do để Thaco có thể làm dự án này. Còn lại xem nhà nước tính thế nào. Lựa chọn khác ngoài Thaco thì chỉ có giao DN VN làm, nhưng dễ tiêu cực.
Kéo vốn thì CP làm được rồi cụ ạ, nhưng công nghệ thì đến CP cũng không yêu cầu được thì DN làm sao được cụ. Em nghĩ có khi phức tạp còn lớn hơn câu chuyện rút không làm nữa ấy.
 

Leanh65

Xe lăn
Biển số
OF-375348
Ngày cấp bằng
27/7/15
Số km
13,330
Động cơ
460,635 Mã lực
Là người dân ở thành phố 10 triệu dân như Hà nội thấy cần cái metro Nội bài hơn là cái Cần giờ, hai tuyến gần tương đương nhau. Giờ đọc báo mà họ viết thế này thì đợi rất lâu?

"Theo quy hoạch, đến năm 2045 tầm nhìn đến 2065 Hà Nội sẽ có 15 tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài 617 km."

Làm như ý cụ rồi các ông mõm ở trỏng lại gào lên cái đk: thu nam đắp bắc. =))
 

Lá me xanh

Xe buýt
Biển số
OF-722540
Ngày cấp bằng
28/3/20
Số km
945
Động cơ
115,381 Mã lực
Tuổi
36
Giờ em nghĩ lại thì Thaco cũng chưa chắc đã rút. Việc mà Vin không đủ năng lực làm, Thaco chưa chắc đã không đủ năng lực. Lý do:

1. Thaco có cơ hội để nâng điều kiện ưu đãi của NN, do họ là bên duy nhất còn lại trông có vẻ đủ lực để làm.

2. Chủ Thaco là người Việt gốc Hoa. Nếu anh này kéo được vốn của TQ vào, công nghệ của TQ, thì có thể hoàn thành dự án.

Đấy là 2 lý do để Thaco có thể làm dự án này. Còn lại xem nhà nước tính thế nào. Lựa chọn khác ngoài Thaco thì chỉ có giao DN VN làm, nhưng dễ tiêu cực.
Gốc hoa hay gốc tàu thì giờ cũng là ng VN rồi, chả có chuyện vì ông gốc hoa nên đc phía TQ ưu tiên hơn đâu. Vin còn có kinh nghiệm làm với TQ hơn Thaco nhiều. Việc chuyển giao hay vay vốn thì phải có chính phủ tham gia đàm phán chứ tư nhân tuổi gì mà gánh
 

xuanphuongccs

Xe điện
Biển số
OF-536803
Ngày cấp bằng
12/10/17
Số km
3,876
Động cơ
201,866 Mã lực
E hỏi ngu tí, thế giờ TQ đang thử nghiệm cái 450 hay 600km/h gì đó thì có phải nhập đồ từ Siemens ko?
Chắc vẫn phải nhập cái chưa làm được như C929 thôi. ĐSCT đỡ bị Tây nó gò theo tiêu chuẩn của nó vì có chạy ra nước ngoài đâu.
 

TQA

Xe buýt
Biển số
OF-795614
Ngày cấp bằng
3/11/21
Số km
918
Động cơ
54,826 Mã lực
Tuổi
47
Cụ nên nhìn vào những thứ Việt Nam đang có và sẽ có. Chuyển giao công nghệ như em đã nói là những thứ không còn giá trị cốt lõi với họ nhưng vẫn là rất quan trọng với Việt Nam. Cụ không nên hiểu là mình đang đòi chuyển giao cái tốt nhất (thì tất nhiên họ không bán) mà mình muốn cái mình cần nhất (thì họ sẽ bán)

Lựa chọn công nghệ là lựa chọn nền tảng để phát triển, và việc này nó cũng bình thường thôi, quan hệ tốt thì vẫn là mua bán nhưng có ưu đãi, tư vấn tốt và tử tế cho nhau.

Còn về vốn ODA, lãi suất cao, bị rang buộc phải dùng hàng hóa dịch vụ của họ (đương nhiên rồi), nhưng cần hiểu trong hoàn cảnh của Việt Nam khi đó, không có ODA thì VN rất khó có vốn để phát triển. Khi ta nghèo và khó mà có người chìa tay ra thì nên trân trọng. Không ai cho không cái gì, tất cả dựa trên lợi ích, ở góc độ kinh doanh đó là nguyên tắc. Em không lạm bàn chuyện hiệu quả sử dụng ODA vì nó thuộc một phạm trù khác, tranh luận ở đây loãng chủ đề của thớt.

Tàu hỏa, máy bay, tàu thủy là những sản phẩm ra đời cách đây hàng trăm năm rồi. Trong số đó có những công nghệ vượt trội thì không ai bán và chúng ta đều hiểu Việt Nam cũng không muốn mua. Chỉ nên hiểu rằng Việt Nam đang rất cần công nghệ để đặt nền móng phát triển chứ không phải là cần công nghệ để dẫn dắt thế giới. Nội hàm đó cũng đủ hiểu thứ công nghệ ta cần mua là thứ người khác có thể bán. Các nước chẳng cần phải lo mất công nghệ vì họ đã đi xa hơn thế rất nhiều rồi. Làm đường sắt chẳng hạn công nghệ đường ray và toa xe họ giữ làm gì, họ bán cho ta vì ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta. Cho dù ta chủ động sản xuất được toa xe hay ray thì cũng không thể cạnh tranh gì với họ. Công nghệ sản xuất động cơ ta có mua bây giờ cũng chưa chắc đã sản xuất được vì chưa đủ tầm, mà có đủ tầm cũng chưa có thị trường. Việt Nam mua công nghệ để làm gì, là để làm chủ công nghệ, để giảm giá thành chứ không phải mua công nghệ là vượt qua họ, Các nước họ bán công nghệ để làm gì, để qua đó hợp tác phát triển cùng với Việt nam, bạn làm đa số các phần tôi làm một số các phần để ai cũng win.

Đừng thần thánh hóa công nghệ quá, có những công nghệ giờ là phổ biến, chỉ là thuận mua vừa bán. Thế giới đang phát triển như vũ bão, đừng bao giờ nghĩ Việt nam mình không đủ tầm để mua và các nước họ giữ công nghệ không thèm bán.

Khi Việt Nam làm xong đường sắt 350 km thì nó đã rất bình thường, không có hạng kiểu nhất châu Á hay thậm chí Đông Nam Á đâu. Nhưng đó là thứ mình cần và thế là đù trong 30-40 năm sau nếu Việt nam phát triển đến một chu kỳ mới thì lại mua hoặc tự phát triển lên tầm cao mới.

Chuyện đơn giản thế thôi, người Việt mình giỏi mà, Không có ghì ghê gớm với đường sắt 350 km đâu, chỉ khó ở bài toán đầu tư liệu có đủ tiền không thôi. Còn làm thì rất nên, tuyến đường sắt nó như xương sống và mạch máu nuôi cơ thể của cả đất nước, đừng bàn về chi phí đầu tư và kể cả chi phí vận hành lúc ban đầu, Có những quyết định của các cụ lãnh đạo nhà mình như hệ thống truyền tải điện 500KV phải nói là huyền thoại, giữa một rừng ý kiến không khả thi và thất bại thì chỉ đến khi hòa dòng điện mới thấy hiệu quả cực kỳ to lớn, và chiến lược cho đến tận ngày nay.

An ninh quốc phòng, phát triển kinh tế, động lực phát triển, an sinh xã hội ..... dựa vào tuyến đường sắt này rất nhiều. Bất kể là ai làm, khi nó hoàn thành là chỉ có lợi cho Việt Nam. Quy mô nền kinh tế của mình bây giờ rất lớn rồi, không bao giờ phải lo bẫy nợ - tất nhiên là với điều kiện không bị tham nhũng, quan liêu vô trách nhiệm làm hỏng dự án
Bạn viết rất dài, nhưng tôi không thấy có nội dung, mà toàn là những lời lẽ chung chung và lý thuyết suông, chưa kể đến sự thiếu hiểu biết về công nghệ. Ví dụ

Tàu hỏa, máy bay, tàu thủy là những sản phẩm ra đời cách đây hàng trăm năm rồi. Trong số đó có những công nghệ vượt trội thì không ai bán và chúng ta đều hiểu Việt Nam cũng không muốn mua. Chỉ nên hiểu rằng Việt Nam đang rất cần công nghệ để đặt nền móng phát triển chứ không phải là cần công nghệ để dẫn dắt thế giới. Nội hàm đó cũng đủ hiểu thứ công nghệ ta cần mua là thứ người khác có thể bán. Các nước chẳng cần phải lo mất công nghệ vì họ đã đi xa hơn thế rất nhiều rồi. Làm đường sắt chẳng hạn công nghệ đường ray và toa xe họ giữ làm gì, họ bán cho ta vì ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta.

Theo như bạn nói thì những bí quyết công nghệ cao siêu trong máy bay, tàu hỏa, tàu thủy thì sẽ không ai bán cho chúng ta và VN cũng không muốn mua. Như vậy có thể hiểu là các thành phần lõi của những sản phẩm này như động cơ, hệ truyền động, vật liệu cao cấp (composite, hợp kim chịu nhiệt cao, etc.), hệ điều khiển, hệ thống năng lượng, etc. thì họ sẽ không bán cho chúng ta bí kíp để làm ra chúng, nhưng họ sẽ bán cho chúng ta bí kíp làm các thành phần "không cao siêu" như "đường ray", "toa xe" phải k?
Và bạn còn nói rằng "ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta."

Với tôi, nếu họ chỉ bán cho chúng ta cách làm những thành phần râu ria, không quan trọng, thì tôi không coi đó là chuyển giao (bí kíp) công nghệ. Chuyển giao (bí kíp) công nghệ để làm một thứ gì đó, chẳng hạn để làm máy bay hay tàu hỏa cao tốc, tức là phải làm sao để nước được chuyển giao có thể tự mình làm ra được các thành phần quan trọng của sản phẩm đó, giống như Pháp chuyển giao công nghệ tàu cao tốc cho Hàn Quốc ngày xưa vậy, để Hàn Quốc sau đó tự mình làm được các thành phần trọng yếu của tàu cao tốc vậy. Chứ nếu chỉ dạy cho bạn cách xây dựng nhà ga tàu hỏa, đóng cọc thì ai gọi là chuyển giao (bí kíp) công nghệ.

Bây giờ ta sẽ phân tích những gì bạn nói nhé. Chắc bạn nghĩ rằng làm toa tàu, đường ray cho tàu cao tốc là thứ rất đơn giản, mấy cái cơ khí ngày xưa, hàn, gò đục đẽo phải k? Chúng ta hãy cùng xem nhé

1) Với toa tàu cao tốc
Toa của tàu EMU cao tốc phức tạp vì nó là hệ thống cơ-điện-điều khiển-khí động học chạy ở môi trường rung động mạnh, yêu cầu an toàn cực cao. Nó không hề đơn giản, vừa là cơ khí chính xác, vừa là điện công suất + điều khiển + an toàn tiêu chuẩn hóa, cộng thêm pantograph-catenary và khí động học.

- Thiết kế khí động học:
yêu cầu giảm lực cản, tiếng ồn, đảm bảo ổn định ở tốc độ cao.

- Khung vỏ nhẹ nhưng cứng: dùng hợp kim nhôm hoặc composite để giảm trọng lượng mà vẫn chịu lực. Thân vỏ/khung toa phải nhẹ nhưng phải bền và an toàn va chạm. Và crashworthiness (EN 15227) cho các kịch bản va chạm, hấp thụ năng lượng, vùng biến dạng có kiểm soát…
Thực tế các đoàn HSR dùng nhiều nhôm (extrusion + hàn) để giảm khối lượng, tăng hiệu quả năng lượng, nhưng hàn nhôm/kiểm soát mỏi/ăn mòn lại là bài toán công nghệ riêng.

- Bogie:
Ở 250-350 km/h, bogie phải đảm bảo: ổn định chống “hunting oscillation”, độ êm và bám ray, quản trị mài mòn bánh–ray, hệ treo, giảm chấn, đôi khi có điều khiển chủ động.
Đây là mảng mà các OEM như Siemens có cả portfolio bogies/traction riêng.

- Hệ thống truyền động phân tán:
EMU có động cơ ở nhiều bogie, không tập trung ở đầu máy, giúp tăng gia tốc và phân bố lực đều.
EMU gồm nhiều động cơ kéo phân tán, biến tần, điều khiển lực kéo, phối hợp phanh (điện + khí + tái sinh), quản trị nhiệt… Tích hợp phần mềm/điều khiển là xương sống của vận hành êm và an toàn.

- Hệ thống điện và điều khiển:
công nghệ biến tần, động cơ đồng bộ hoặc không đồng bộ, phần mềm điều khiển SIL4.

- Pantograph–catenary (lấy điện ở tốc độ cao): Đây là điểm khó chịu khi lên tốc độ cao: chất lượng tiếp xúc, lực tiếp xúc biến thiên, gió ngang, băng tuyết… đều làm tăng nguy cơ mất tiếp xúc/phóng điện. Các tổng quan kỹ thuật nhấn mạnh pantograph-catenary là cửa ngõ điện năng duy nhất và rất nhạy với môi trường/tốc độ.

- An toàn và tiêu chuẩn quốc tế: chống cháy, cách âm, điều hòa áp suất khi vào hầm, giảm rung.

2) Thép chuyên dụng của tàu cao tốc
Loại thép này cũng đòi hỏi công nghệ cao. Tàu cao tốc đẩy cực mạnh các cơ chế hư hỏng ở tiếp xúc bánh-ray: mài mòn, rolling contact fatigue (RCF), nứt mỏi, corrugation… nên đòi hỏi tiêu chí chất lượng cao ở ray:
- chống mòn + chống RCF
- giữ hình học ổn định,
- đảm bảo độ sạch thép / độ dai gãy / ứng suất dư tốt hơn.

Ở châu Âu, ray thường theo EN 13674-1, với các mác từ R260 đến các mác premium như R350HT (heat-treated/head-hardened). Ví dụ voestalpine mô tả 350HT theo EN 13674-1 là thép peclit mịn (fine pearlitic) và được nhiệt luyện (HSH heat-treatment).
Các hãng như Siemens, Alstom, Hitachi thường không có công nghệ luyện kim, mà cung cấp tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình kiểm tra cho nhà sản xuất thép bên ngoài. Ở phương Tây thì công nghệ luyện kim vẫn là bí quyết của các tập đoàn thép (Nippon Steel, Voestalpine, ArcelorMittal), và họ đã làm ra thép cho tàu cao tốc. Ở Nga thì hãng luyện kim EVRAZ đã làm ra thép cho tàu cao tốc mới mà Nga đang phát triển (không phải tàu Sapsan ngày xưa. Nếu tôi không nhầm thì thép cho đường ray tàu điện Nhổn mà Pháp xây ở Việt Nam cũng là do hãng EVRAZ này làm, dù có thể VN không đặt hàng trực tiếp từ Nga)


Từ những phân tích trên, bác hãy nói họ có thể chuyển giao công nghệ làm toa tàu và đường ray cho tàu cao tốc cho ta nếu trả tiền, bác hãy nói rõ xem họ chuyển giao cho ta những cái gì ở trên, để ta có thể làm ra được toa tàu và đường ray tàu cao tốc?

PS: bác ngây thơ quá khi nghĩ rằng những cái công nghệ cũ họ sẽ luôn chuyển giao cho nước khác. Chắc chắn việc chuyển giao công nghệ không phải là chính sách chung, có chuyển giao hay không đều phải đi vào những trường hợp cụ thể.
Bác có tin rằng, nếu ta bảo với Nga hoặc Mỹ, rằng hãy bán cho chúng tôi bí kíp công nghệ, để chúng tôi có thể tự mình chế tạo ra máy bay như Mig-21 hay F-4 Fantom, hay tự mình chế tạo ra máy bay chở khách như IL-62M hay Boeing 707, thì Nga hay Mỹ có đồng ý bán k?
Dĩ nhiên khi có những bí kíp công nghệ đó, không có nghĩa là ta sẽ làm ra những sản phẩm máy bay trên, mà ta sẽ sử dụng những tri thức năng lực thu được khi tiếp nhận những công nghệ đó (khí động học, động lực học, etc.), để tiếp tục phát triển tiếp rồi làm việc khác.

Hay đơn giản hơn, bảo họ bán cho chúng tôi mã nguồn hệ điều hành Windows 3.X hay 95 thời xưa, họ có bán k? Dù có bán thì nếu chính phủ Mỹ phản đối, họ có còn dám bán nữa k?
Những hệ điều hành này rất cổ lỗ, nhưng nếu nắm được mã nguồn của nó, cũng sẽ rất bổ ích cho việc phát triển năng lực tin học hệ thống đấy. Mã nguồn các hệ điều hành đời cũ giúp các quốc gia/tổ chức rèn luyện/phát triển năng lực hệ thống theo những cách mà tài liệu hiện đại khó có thể thay thế. Nói chung bí kíp công nghệ dù là cũ cực kỳ hữu ích cho việc nâng cấp năng lực R/D công nghệ của một quốc gia/tổ chức. Đừng ngây thơ khi nghĩ rằng có thể dễ dàng có được bằng cách chỉ cần bỏ tiền mua

PS: Microsoft từng công bố việc cung cấp mã nguồn Windows XP, Windows 2000 cho một số khách hàng, cơ quan chính phủ, đối tác và giới học thuật theo khuôn khổ Shared Source (không phải public). Ví dụ thông cáo 03/12/2001 nói Bộ Nội vụ Áo được cấp quyền truy cập mã nguồn Windows XP trong SSI.
 

victory_1980

Xe container
Biển số
OF-201593
Ngày cấp bằng
11/7/13
Số km
6,700
Động cơ
327,104 Mã lực
Đại lộ cảnh quan đã khởi công trong khi chưa có quy hoạch thì phải, em thấy mấy người quen ngoài đê cứ nháo nhào không biết nhà mình có dính hay không
Thời điểm này là vừa làm vừa duyệt quy hoạch cụ nhé. Quy hoạch chung là vậy, còn quy hoạch chi tiết 1/500 thì cứ dần dần.
Mới khởi công và làm tiểu dự án công viên Phú Thượng 600 tỷ thôi.
Trong năm 2026 sẽ công bố quy hoạch từng khu vực và sẽ tiến hành GPMB đó.
 

TQA

Xe buýt
Biển số
OF-795614
Ngày cấp bằng
3/11/21
Số km
918
Động cơ
54,826 Mã lực
Tuổi
47
Tham khảo 1 bài viết về mức độ nội địa hoá công nghiệp đường sắt Trung Quốc (tham khảo thêm thông tin, mình chưa kiểm tra nguồn gốc)

TRUNG QUỐC VẪN CHƯA LÀM CHỦ ĐƯỢC CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT TÀU CAO TỐC (High-Speed Train).

Những ai ngộ nhận Trung Quốc đã tự làm chủ được công nghệ sản xuất tàu cao tốc thì nên đọc bài này của ANBOUND là một tổ chức nghiên cứu (think tank) danh tiếng của Trung Quốc có trụ sở ở Bắc Kinh.

Đây là nghiên cứu của chính Trung Quốc và từ Trung Quốc. Và mình đã kiểm tra chéo xem kết quả kinh doanh của Siemens Mobility (quản lý ngành sản xuất đường sắt cao tốc) thì kết quả kinh doanh của họ ở TQ vẫn tăng trưởng mạnh trong hơn 10 năm qua chứ không giảm, chứng tỏ những nghiên cứu của ANBOUND phản ánh đúng tình hình.

Bên dưới là toàn văn của ANBOUND, bài dài nhưng đáng đọc.

Từ góc độ toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng của đường sắt cao tốc tại Trung Quốc là một hiện tượng khá hiếm gặp. Thật vậy, có thể nói đường sắt cao tốc phần nào đã trở thành “danh thiếp” của Trung Quốc, nhưng danh thiếp này thực chất lại là một điểm đau của ngành sản xuất Trung Quốc. Ngược lại, ngành sản xuất toàn cầu đã hưởng lợi rất lớn từ sự phát triển nhanh chóng của đường sắt cao tốc Trung Quốc, chủ yếu vì một phần đáng kể nguồn vốn đã chảy vào ngành sản xuất toàn cầu, mặc dù cách thức cụ thể mà điều này xảy ra đến nay vẫn còn là một bí ẩn.

Thông tin thu được từ một kỹ sư kỹ thuật từng tham gia vào nỗ lực nhập khẩu các đoàn tàu điện nhiều toa (EMU) vào Trung Quốc cho thấy rằng, mặc dù chúng ta có thể dựa vào bản vẽ của các bên nước ngoài để sản xuất bogie, động cơ và máy biến áp; mặc dù có thể lắp ráp các bộ biến đổi và hệ thống điều khiển tự động bằng các linh kiện lõi nhập khẩu, nhưng thực tế chúng ta không hiểu cơ sở thiết kế và nguyên lý thiết kế, cũng như không biết liệu việc tăng độ rộng toa xe có kéo theo rủi ro nào hay không.
Nguyên nhân là vì chúng ta không thể tiếp cận các phép tính của thiết kế gốc từ phía nước ngoài, cũng không có thông tin về các tham số hay phương pháp nâng cấp bogie, cũng như không nắm được công nghệ đồng mô phỏng đa chiều dùng để tính toán trường điện từ, trường nhiệt và trường lực của động cơ và máy biến áp, chưa nói đến các phương pháp thiết kế độ tin cậy kết cấu. Hơn nữa, chúng ta cũng không được tiếp cận các cơ sở dữ liệu về tiêu chuẩn kiểm tra và đặc tính mỏi của các vật liệu liên quan, và mã nguồn của phần mềm hệ thống điều khiển tự động vẫn nằm ngoài tầm với. Những điều này có thể trông như là các vấn đề rất cơ bản, nhưng chúng lại chính là những yếu tố cốt lõi nhất, và chúng ta đã không thể nắm được bất kỳ điều nào trong số đó chỉ bằng việc nhập khẩu các đoàn tàu EMU (EMU là viết tắt của Electric Multiple Unit, nghĩa là Tàu điện động lực phân tán).

Thực tế, Trung Quốc đã có năng lực sản xuất EMU ở quy mô lớn, bởi chỉ trong vài năm ngắn ngủi đã cho ra đời hàng trăm đoàn tàu EMU. Tuy nhiên, những đoàn tàu EMU được cho là do doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất này thực chất chỉ được lắp ráp tại Trung Quốc — các linh kiện then chốt vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đây là một tình huống quá quen thuộc, bởi chúng ta đã từng gặp điều tương tự trong ngành công nghiệp ô tô. Điểm khác biệt duy nhất là chiến lược “đổi thị trường lấy công nghệ” mà ngành ô tô áp dụng đã được xem rộng rãi là một thử nghiệm thất bại. Trên thực tế, đây chính là “bí mật” đằng sau cái gọi là bước “Đại Nhảy Vọt” của công nghệ đường sắt cao tốc Trung Quốc trong thời kỳ Lưu Chí Quân (Liu Zhijun). Vào thời điểm đó, linh kiện nhập khẩu từ Siemens chiếm gần một nửa tổng số linh kiện ban đầu, nhưng chỉ vì việc lắp ráp các linh kiện này được thực hiện tại Trung Quốc, nên sản lượng vẫn được tính vào tỷ lệ nội địa hóa của ngành. Điều này có nghĩa là các con số về tỷ lệ nội địa hóa trên thực tế là không đáng tin cậy.

Theo một nhân viên kỹ thuật của Siemens, công nghệ của đoàn tàu gồm ba hệ thống chính: hệ thống điều khiển kéo, bogie và hệ thống phanh, trong đó quan trọng nhất là hệ thống điều khiển kéo — được coi là “trái tim của đoàn tàu”. Trong khi các nhà cung cấp nước ngoài không có kế hoạch giảm giá các công nghệ này, họ cũng không có ý định chuyển giao chúng cho phía Trung Quốc. Trong toàn bộ các linh kiện cần thiết cho hệ thống điều khiển kéo, chỉ một phần nhỏ là tương đối ít hàm lượng công nghệ hơn và có nhiều nhà sản xuất nội địa hơn, được đưa vào trong quá trình nội địa hóa. Trên thực tế, giá động cơ kéo của dòng CRH2 đã giảm 12,5% trong giai đoạn thứ hai của quá trình nội địa hóa ngành.

Mặt khác, hệ thống phần mềm là bộ phận quan trọng nhất và có hàm lượng công nghệ cao nhất trong toàn bộ hệ thống điều khiển kéo. Theo đó, nhiều chuyên gia trong ngành tiết lộ rằng Siemens, Kawasaki và Alstom đều chưa chuyển giao công nghệ này cho phía Trung Quốc.
“Một khi chưa làm chủ được hệ thống điều khiển, thì chúng ta chỉ có thể thiết lập các tham số cho từng bộ phận, chứ chưa thể có năng lực thiết kế thực sự. Trong khi đó, công nghệ này là kết tinh của nhiều năm lao động gian khổ của [các nhà cung cấp nước ngoài], vì vậy khó có khả năng họ sẽ chuyển giao cho người khác.” Bổ sung thêm, một kỹ thuật viên ở miền Bắc Trung Quốc cho biết rằng dòng CRH380B được gọi là ‘do Trung Quốc tự chủ phát triển’ trên thực tế vẫn phụ thuộc vào Siemens, đặc biệt khi xảy ra các sự cố trong quá trình vận hành.

“Một mặt, việc nâng cấp phần mềm phải do Siemens thực hiện; mặt khác, dữ liệu thử nghiệm cũng cần được gửi về trụ sở chính của Siemens. Tất cả những điều này kéo dài đáng kể thời gian chỉnh sửa và khắc phục.”
Vậy một công nghệ lõi như hệ thống điều khiển kéo chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng chi phí của một đoàn tàu EMU? Con số này có thể lên tới 20–30%. Tiếp đó, hệ thống điều khiển tàu tự động — bộ phận mang lại lợi nhuận cao nhất — chiếm hơn một nửa tổng chi phí. Một nhân viên của bộ phận mua sắm Siemens thậm chí còn thừa nhận rằng: “Hiện nay Siemens chủ yếu dựa vào việc bán hệ thống điều khiển kéo.” Điều này cũng đúng với Alstom. Tương tự, công nghệ của hệ thống phanh cũng không được chuyển giao, vì các nhà cung cấp nước ngoài coi đây là nguồn thu nhập nền tảng của họ. Thay vào đó, hệ thống này được sản xuất bởi các bên nước ngoài trong các nhà máy liên doanh đặt tại Trung Quốc. “Tuy vậy, ngay cả trong các nhà máy liên doanh này cũng không hề có sự chuyển giao công nghệ, thậm chí nhân sự Trung Quốc có thể còn không được phép xem bản vẽ thiết kế.” Vì thế, có thể thấy rõ rằng không chỉ thị trường hệ thống phanh đường sắt cao tốc bị Knorr-Bremse độc quyền, mà công nghệ cốt lõi của hệ thống này cũng hoàn toàn không được chuyển giao.

Trong ba hệ thống lớn, chỉ có hợp đồng chuyển giao công nghệ đối với việc chế tạo bogie, và ngay cả điều đó cũng chỉ giới hạn ở việc bán bản vẽ thiết kế. Điều này có nghĩa là phía Trung Quốc vẫn chưa thực sự hiểu các nguyên lý thiết kế. Một người khác từng tham gia vào việc nhập khẩu EMU tiết lộ rằng CRRC đã từng hỏi Siemens về cách thiết lập các tham số của bogie, nhưng Siemens chỉ trả lời quanh co, né tránh. Hiện nay, các bộ phận của bogie được CRRC hàn lắp, trong khi các linh kiện còn lại vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này khiến một kỹ sư ở miền Nam nhận xét rằng:
“Mua EMU từ nhiều công ty nước ngoài cũng giống như mua cá; chúng ta có thể sờ tận tay, nhưng rốt cuộc vẫn không có cần câu để tự mình đi câu. Ở thời điểm này, các linh kiện then chốt của hệ thống điều khiển tự động vẫn phải nhập khẩu, và tương tự, mã nguồn của phần mềm điều khiển tự động vẫn chưa được chuyển giao cho chúng ta.” Trong quá trình du nhập công nghệ đường sắt cao tốc, Trung Quốc đã tạo ra một thị trường khổng lồ. Tuy nhiên, những người thu được lợi nhuận thực sự ở đỉnh kim tự tháp vẫn là các công ty nước ngoài, và họ tiếp tục duy trì vị thế dẫn đầu bằng cách nắm chặt các công nghệ lõi và linh kiện then chốt. Mặc dù có thể nói rằng đường sắt cao tốc đã tạo nên một kỳ tích, nhưng đối với ngành sản xuất Trung Quốc, nó thực chất lại là một điểm đau. Giống như dự án “Superjet”, ngành chế tạo của Trung Quốc vẫn còn một chặng đường dài trước khi có thể được coi là “tiên tiến”, và nỗ lực này sẽ không hề kém phần gian nan so với con đường mà ngành công nghiệp ô tô đã trải qua.

Sau ngần ấy năm, có thể thấy rõ rằng ngành sản xuất của Trung Quốc vẫn đang mắc kẹt trong một thế tiến thoái lưỡng nan: một mặt là sản xuất dư thừa ở phân khúc thấp, mặt khác là thị trường đấu thầu đã đi đến mức gần như tự cạnh tranh với chính mình, lao vào cuộc đua hạ giá ngày càng thấp để giành thị phần. Trong khi đó, nhiều lĩnh vực của ngành sản xuất cao cấp cũng rơi vào trạng thái trì trệ, không thể tiến lên, còn nguồn lực của họ lại đang mang lại lợi ích cho các bên bên ngoài. Tóm lại, Trung Quốc đã phải gánh chịu mặt trái của toàn cầu hóa, không chỉ đối diện với làn sóng chỉ trích rộng khắp của công chúng, mà còn không thu được bao nhiêu lợi ích tương xứng. Giữa tất cả sự hỗn loạn này, người lao động trên toàn thế giới đã bị tước đi nhiều cơ hội việc làm, và đã đến lúc Trung Quốc cần phải suy ngẫm và nhìn lại những “oan ức” mà mình đã gây ra.

Anh kỹ sư TQ này chắc là ngày xưa chỉ làm với những dạng tàu được Siemens chuyển giao, ví dụ trong bài này toàn nói đến CRH380B.
Dòng tàu CRH380B/CRH380BL của Trung Quốc đúng là dạng tàu thuộc nhánh có nền tảng từ Siemens Velaro (CRH3), dù TQ sản xuất phần lớn thành phần, nhưng đúng là có những phần phải lấy từ Siemens, và có dính đến IP của Siemens.

Tuy nhiên, TQ đâu phải chỉ có dòng tàu này. Họ đã tự mình phát triển dòng tàu nội địa của riêng mình không lệ thuộc nước ngoài như CR400AF/CR400BF, CR300AF/CR300BF và họ đang thử nghiệm dòng tàu mới CR450.
Dù ngày nay dòng tàu CRH380B/CRH380B dựa trên Velaro của Siemens vẫn còn chạy, vì lúc đầu chính là những dòng tàu này xuất hiện đầu tiên, nhưng những dòng tàu nội địa thuần TQ được nhắc đến ở trên ngày càng và đang chiếm ưu thế trong vận hành, trong các đơn hàng, biên chế mới và mở rộng mạng lưới.

Khi xuất khẩu, TQ cũng dùng các loại tàu cao tốc nội địa của mình, chứ không dùng loại tàu CRH380B dựa trên Siemens Velaro. Ví dụ
- Ở Indonesia, thì tàu cao tốc KCIC400AF (chính là biến thể của tàu cao tốc CR400AF - Fuxing, do CRRC Qingdao Sifang TQ chế tạo) đang chạy.
- Ở Lào thì là tàu hỏa CR200J (thuộc họ Fuxing, cấu hình push‑pull) của TQ đang chạy, dù tàu này chỉ chạy đến 200 km/h, chưa phải tàu cao tốc.
- Sắp tới, ở Thái Lan, dự kiến dùng họ tàu cao tốc Fuxing (CR400/CR300) của Trung Quốc

PS: Tàu thuần TQ ở trên, cần hiểu là TQ tự mình phát triển, và tự mình sản xuất các thành phần trọng yếu, nắm IP, chứ những thành phần râu ria khác thì không nhất định phải là TQ tự mình sản xuất
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
874
Động cơ
799,493 Mã lực
Giờ em nghĩ lại thì Thaco cũng chưa chắc đã rút. Việc mà Vin không đủ năng lực làm, Thaco chưa chắc đã không đủ năng lực. Lý do:

1. Thaco có cơ hội để nâng điều kiện ưu đãi của NN, do họ là bên duy nhất còn lại trông có vẻ đủ lực để làm.

2. Chủ Thaco là người Việt gốc Hoa. Nếu anh này kéo được vốn của TQ vào, công nghệ của TQ, thì có thể hoàn thành dự án.

Đấy là 2 lý do để Thaco có thể làm dự án này. Còn lại xem nhà nước tính thế nào. Lựa chọn khác ngoài Thaco thì chỉ có giao DN VN làm, nhưng dễ tiêu cực.
TQ không bao giờ làm tuyến BN này đâu, các cụ cứ yên tâm. Trừ khi mình xuống nước van nài họ.
Mỗi năm họ xây đều đều khoảng 2000 đến 3000km bên họ, không thiếu việc.
Theo quan điểm của họ, họ không cần làm dự án BN này, nói đơn giản là họ không cần mình. Nếu mình cần họ thì mình mới là bên phải nhượng bộ. Còn mình không cần họ mà tự làm thì cứ làm thôi, hay Nhật Hàn Đức TBN tùy, họ chả quan tâm, cùng lắm dân mạng bên họ ngồi cắn hạt dưa xem có nát bét giống các dự án của Anh, của Ấn hay không.
 

hoviethung

Xe lăn
Biển số
OF-98736
Ngày cấp bằng
5/6/11
Số km
14,643
Động cơ
559,251 Mã lực
Tranh cãi hoài!
Ở đây có 1 khái niệm cần thống nhất, như thế nào thì được gọi là CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ?
Ở VN đi làm các nhà máy, sau khi nhà thầu xây dựng lắp đặt xong, đến phần “chuyển giao công nghệ” thì chỉ là hướng dẫn sử dụng, vận hành, bảo trì bảo dưỡng…. thôi.
Mà thường thì học sử dụng đủ để vận hành thì 3~6 tháng, còn hiểu được nguyên lý khá sâu cách hệ thống vận hành thì cũng 5~7 năm sau rất nhiều sự cố.
Vậy với những hệ thống tinh vi hàng đầu thế giới, bạn chờ đợi gì ở việc “CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ” thật sự? Bạn đã chuẩn bị gì để nhận chuyển giao “nếu có”. Và bạn nghĩ mình là ai chứ?
Nhớ xưa mê chuyện kiếm hiệp, một giấc mơ quay tay được cuốn bí kíp đọc xong vươn mình thành con người khác. Giờ thì ngẫm 99% những ông như vậy sẽ tẩu hoả nhập ma thôi.
Có rất nhiều mức độ chuyển giao công nghệ. Chuyển giao vận hành chỉ là chuyển giao mức độ thấp. Có trục trặc lại phải cần bên chuyển giao xử lý. Mức độ thứ 2 là chuyển giao sản xuất chế tạo theo thiết kế bên chuyển giao. Lắp rắp ckd. Mức độ cao là chuyển giao thiết kế. Còn gọi chuyển giao công nghệ lõi. Món này VN còn xa vời lắm.
 

st101814

Xe điện
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-108426
Ngày cấp bằng
10/8/11
Số km
3,871
Động cơ
479,760 Mã lực
Nơi ở
Canada - Viêt Nam
Bạn viết rất dài, nhưng tôi không thấy có nội dung, mà toàn là những lời lẽ chung chung và lý thuyết suông, chưa kể đến sự thiếu hiểu biết về công nghệ. Ví dụ

Tàu hỏa, máy bay, tàu thủy là những sản phẩm ra đời cách đây hàng trăm năm rồi. Trong số đó có những công nghệ vượt trội thì không ai bán và chúng ta đều hiểu Việt Nam cũng không muốn mua. Chỉ nên hiểu rằng Việt Nam đang rất cần công nghệ để đặt nền móng phát triển chứ không phải là cần công nghệ để dẫn dắt thế giới. Nội hàm đó cũng đủ hiểu thứ công nghệ ta cần mua là thứ người khác có thể bán. Các nước chẳng cần phải lo mất công nghệ vì họ đã đi xa hơn thế rất nhiều rồi. Làm đường sắt chẳng hạn công nghệ đường ray và toa xe họ giữ làm gì, họ bán cho ta vì ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta.

Theo như bạn nói thì những bí quyết công nghệ cao siêu trong máy bay, tàu hỏa, tàu thủy thì sẽ không ai bán cho chúng ta và VN cũng không muốn mua. Như vậy có thể hiểu là các thành phần lõi của những sản phẩm này như động cơ, hệ truyền động, vật liệu cao cấp (composite, hợp kim chịu nhiệt cao, etc.), hệ điều khiển, hệ thống năng lượng, etc. thì họ sẽ không bán cho chúng ta bí kíp để làm ra chúng, nhưng họ sẽ bán cho chúng ta bí kíp làm các thành phần "không cao siêu" như "đường ray", "toa xe" phải k?
Và bạn còn nói rằng "ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta."

Với tôi, nếu họ chỉ bán cho chúng ta cách làm những thành phần râu ria, không quan trọng, thì tôi không coi đó là chuyển giao (bí kíp) công nghệ. Chuyển giao (bí kíp) công nghệ để làm một thứ gì đó, chẳng hạn để làm máy bay hay tàu hỏa cao tốc, tức là phải làm sao để nước được chuyển giao có thể tự mình làm ra được các thành phần quan trọng của sản phẩm đó, giống như Pháp chuyển giao công nghệ tàu cao tốc cho Hàn Quốc ngày xưa vậy, để Hàn Quốc sau đó tự mình làm được các thành phần trọng yếu của tàu cao tốc vậy. Chứ nếu chỉ dạy cho bạn cách xây dựng nhà ga tàu hỏa, đóng cọc thì ai gọi là chuyển giao (bí kíp) công nghệ.

Bây giờ ta sẽ phân tích những gì bạn nói nhé. Chắc bạn nghĩ rằng làm toa tàu, đường ray cho tàu cao tốc là thứ rất đơn giản, mấy cái cơ khí ngày xưa, hàn, gò đục đẽo phải k? Chúng ta hãy cùng xem nhé

1) Với toa tàu cao tốc
Toa của tàu EMU cao tốc phức tạp vì nó là hệ thống cơ-điện-điều khiển-khí động học chạy ở môi trường rung động mạnh, yêu cầu an toàn cực cao. Nó không hề đơn giản, vừa là cơ khí chính xác, vừa là điện công suất + điều khiển + an toàn tiêu chuẩn hóa, cộng thêm pantograph-catenary và khí động học.

- Thiết kế khí động học:
yêu cầu giảm lực cản, tiếng ồn, đảm bảo ổn định ở tốc độ cao.

- Khung vỏ nhẹ nhưng cứng: dùng hợp kim nhôm hoặc composite để giảm trọng lượng mà vẫn chịu lực. Thân vỏ/khung toa phải nhẹ nhưng phải bền và an toàn va chạm. Và crashworthiness (EN 15227) cho các kịch bản va chạm, hấp thụ năng lượng, vùng biến dạng có kiểm soát…
Thực tế các đoàn HSR dùng nhiều nhôm (extrusion + hàn) để giảm khối lượng, tăng hiệu quả năng lượng, nhưng hàn nhôm/kiểm soát mỏi/ăn mòn lại là bài toán công nghệ riêng.

- Bogie:
Ở 250-350 km/h, bogie phải đảm bảo: ổn định chống “hunting oscillation”, độ êm và bám ray, quản trị mài mòn bánh–ray, hệ treo, giảm chấn, đôi khi có điều khiển chủ động.
Đây là mảng mà các OEM như Siemens có cả portfolio bogies/traction riêng.

- Hệ thống truyền động phân tán:
EMU có động cơ ở nhiều bogie, không tập trung ở đầu máy, giúp tăng gia tốc và phân bố lực đều.
EMU gồm nhiều động cơ kéo phân tán, biến tần, điều khiển lực kéo, phối hợp phanh (điện + khí + tái sinh), quản trị nhiệt… Tích hợp phần mềm/điều khiển là xương sống của vận hành êm và an toàn.

- Hệ thống điện và điều khiển:
công nghệ biến tần, động cơ đồng bộ hoặc không đồng bộ, phần mềm điều khiển SIL4.

- Pantograph–catenary (lấy điện ở tốc độ cao): Đây là điểm khó chịu khi lên tốc độ cao: chất lượng tiếp xúc, lực tiếp xúc biến thiên, gió ngang, băng tuyết… đều làm tăng nguy cơ mất tiếp xúc/phóng điện. Các tổng quan kỹ thuật nhấn mạnh pantograph-catenary là cửa ngõ điện năng duy nhất và rất nhạy với môi trường/tốc độ.

- An toàn và tiêu chuẩn quốc tế: chống cháy, cách âm, điều hòa áp suất khi vào hầm, giảm rung.

2) Thép chuyên dụng của tàu cao tốc
Loại thép này cũng đòi hỏi công nghệ cao. Tàu cao tốc đẩy cực mạnh các cơ chế hư hỏng ở tiếp xúc bánh-ray: mài mòn, rolling contact fatigue (RCF), nứt mỏi, corrugation… nên đòi hỏi tiêu chí chất lượng cao ở ray:
- chống mòn + chống RCF
- giữ hình học ổn định,
- đảm bảo độ sạch thép / độ dai gãy / ứng suất dư tốt hơn.

Ở châu Âu, ray thường theo EN 13674-1, với các mác từ R260 đến các mác premium như R350HT (heat-treated/head-hardened). Ví dụ voestalpine mô tả 350HT theo EN 13674-1 là thép peclit mịn (fine pearlitic) và được nhiệt luyện (HSH heat-treatment).
Các hãng như Siemens, Alstom, Hitachi thường không có công nghệ luyện kim, mà cung cấp tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình kiểm tra cho nhà sản xuất thép bên ngoài. Ở phương Tây thì công nghệ luyện kim vẫn là bí quyết của các tập đoàn thép (Nippon Steel, Voestalpine, ArcelorMittal), và họ đã làm ra thép cho tàu cao tốc. Ở Nga thì hãng luyện kim EVRAZ đã làm ra thép cho tàu cao tốc mới mà Nga đang phát triển (không phải tàu Sapsan ngày xưa. Nếu tôi không nhầm thì thép cho đường ray tàu điện Nhổn mà Pháp xây ở Việt Nam cũng là do hãng EVRAZ này làm, dù có thể VN không đặt hàng trực tiếp từ Nga)


Từ những phân tích trên, bác hãy nói họ có thể chuyển giao công nghệ làm toa tàu và đường ray cho tàu cao tốc cho ta nếu trả tiền, bác hãy nói rõ xem họ chuyển giao cho ta những cái gì ở trên, để ta có thể làm ra được toa tàu và đường ray tàu cao tốc?

PS: bác ngây thơ quá khi nghĩ rằng những cái công nghệ cũ họ sẽ luôn chuyển giao cho nước khác. Chắc chắn việc chuyển giao công nghệ không phải là chính sách chung, có chuyển giao hay không đều phải đi vào những trường hợp cụ thể.
Bác có tin rằng, nếu ta bảo với Nga hoặc Mỹ, rằng hãy bán cho chúng tôi bí kíp công nghệ, để chúng tôi có thể tự mình chế tạo ra máy bay như Mig-21 hay F-4 Fantom, hay tự mình chế tạo ra máy bay chở khách như IL-62M hay Boeing 707, thì Nga hay Mỹ có đồng ý bán k?
Dĩ nhiên khi có những bí kíp công nghệ đó, không có nghĩa là ta sẽ làm ra những sản phẩm máy bay trên, mà ta sẽ sử dụng những tri thức năng lực thu được khi tiếp nhận những công nghệ đó (khí động học, động lực học, etc.), để tiếp tục phát triển tiếp rồi làm việc khác.

Hay đơn giản hơn, bảo họ bán cho chúng tôi mã nguồn hệ điều hành Windows 3.X hay 95 thời xưa, họ có bán k? Dù có bán thì nếu chính phủ Mỹ phản đối, họ có còn dám bán nữa k?
Những hệ điều hành này rất cổ lỗ, nhưng nếu nắm được mã nguồn của nó, cũng sẽ rất bổ ích cho việc phát triển năng lực tin học hệ thống đấy. Mã nguồn các hệ điều hành đời cũ giúp các quốc gia/tổ chức rèn luyện/phát triển năng lực hệ thống theo những cách mà tài liệu hiện đại khó có thể thay thế. Nói chung bí kíp công nghệ dù là cũ cực kỳ hữu ích cho việc nâng cấp năng lực R/D công nghệ của một quốc gia/tổ chức. Đừng ngây thơ khi nghĩ rằng có thể dễ dàng có được bằng cách chỉ cần bỏ tiền mua

PS: Microsoft từng công bố việc cung cấp mã nguồn Windows XP, Windows 2000 cho một số khách hàng, cơ quan chính phủ, đối tác và giới học thuật theo khuôn khổ Shared Source (không phải public). Ví dụ thông cáo 03/12/2001 nói Bộ Nội vụ Áo được cấp quyền truy cập mã nguồn Windows XP trong SSI.
Bác nói cũng dài mà cũng chẳng đâu vào đâu. Thông tin đầy trên báo đài đó thôi, chủ tịch Siemens nói gì, các lãnh đạo nói Việt Nam muốn làm gì.

Giai đoạn đầu chưa giỏi chưa rõ thì ta mua, sau khi phát triển đủ lớn đủ nhiều thì chuyển giao công nghệ sản xuất tại chỗ. Bác nói nghe rõ khó, nhưng c\huyển giao công nghệ không phải là mình copy y chang cả trăm năm phát triển của họ, chuyển giao là làm chủ công nghệ, từng bước, phù hợp với hoàn cảnh và điểu kiện của mình, theo từng giai đoạn phát triển.

Pháp chuyển giao cho Hàn Quốc được thì Đức cũng chuyển giao cho Việt nam được, lộ trình có gì khác đâu hay bác nghĩ Hàn Quốc thì thần thánh hơn mình. Mình bây giờ đúng là đang khởi điểm nhưng những năm tới sẽ khá hơn chứ. Những cái bác cho là khó thì về mặt kỹ thuật nếu được chuyển giao thì chẳng có gì khó cả. Một lần nữa bác đừng nghĩ chuyển giao là phải thành như họ 100%, và bác cũng không nên so sánh mã nguồn của phần mềm với làm đường sắt, nó chẳng đúng lắm đâu. Quan điểm của em là đường sắt 350 km cũng là đặt ray trên thanh tà vẹt cho tàu chạy thôi, còn cho tàu chạy êm, ổn định, an toàn thì bỏ tiền ra mua và chuyển giao công nghệ ở đó. Biết đến đâu thì chuyển giao đến đó, làm được đến đâu thì người ta chỉ cho đến đó nhưng muốn mua công nghệ thì phải đặt vấn đề từ đầu, người ta mới chào giá, đồng ý trả tiền tiền và các điều kiện và thỏa thuận thì người ta bán.

Bác muốn ví dụ thêm thì lấy những ví dụ liên quan gần gần chút như làm cầu, xây nhà cao tầng, làm đường hầm, làm đường cao tốc .... tất cả những cái đó ít nhiều đều có chuyển giao công nghệ hết đấy.

Làm đường sắt thì cực kỳ tốn tiền, nhưng đừng ai bảo là Việt Nam không làm nổi đường sắt 350 km nhé, nghe nó nhược tiểu lắm.

Bác nên đi trải nghiệm những công trình mới đây của mình, đường sắt Cát Linh chưa tốt nhưng Bến Thành - Suối Tiên rất tốt.

Subway ở Cát Linh ga đầu Đức và Hàn Quốc làm ai biết tương lai ga sau có thể do nhà thầu Việt Nam làm, ấy cũng gọi là chuyển giao công nghệ chứ không phải sản xuất ra con robot đào hầm mới là chuyển giao công nghệ đâu.

Máy bay Việt Nam rồi cũng sẽ sản xuất cụ yên tâm, chỉ là sản xuất loại Việt Nam cần và các nước họ bán công nghệ nhé, tới đây rất có thể sẽ liên doanh với các hãng (thực tế đã làm thử con huấn luyện rồi).

Tàu chiến cũng có chuyển giao thôi đó bác, ai biết được tên lửa đạn đạo cũng có thể được chuyển giao rồi cũng nên.

Cuối cùng em muốn nói với bác là thế giới họ không ích kỷ đâu, công nghệ là để phục vụ con người, ngoại trừ những cường quốc họ muốn làm bá chủ thế giới thì phần còn lại công nghệ cũng là một ngành kinh doanh. Lò ví sóng hay Internet trước hết phục vụ mục đích quân sự, xong rồi cũng mang ra dân sự đó thôi. ADAS trên xe ô tô cũng là công nghệ quân sự, công nghệ dẫn đường rồi cũng đem ra ứng dụng cho dân sự. Em tha thiết mong cụ hiểu cái khái niệm công nghệ cốt lõi bây giờ không còn là ngành cơ khí, sản xuất thép với dập mấy cái toa xe nữa rồi. Các nước họ phát triển nhắm tới ngành bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng hạt nhân ....còn thì bớt bớt sang cho các nước khác họ gia công sản xuất chứ, mà muốn trình độ của họ đạt được thì cũng phải hồ trợ đào tạo, chuyển giao công nghệ cho họ, xong doanh nghiệp của họ đầu tư vào nước sở tại để kiếm tiền nữa. Nó đơn giản thôi cụ ạ, em ước Việt Nam mình có đủ tiền để làm hết cả nước nhưng chắc chưa đủ tiền nên các anh ấy lại mới bỏ rồi, chắc để làm mấy khúc ngắn này ngon nghẻ để thử nghiệm xem ổn thì phát triển tiếp.

Em có thể hơi nông cạn hay ngây ngô nhưng cụ ạ, ngành kỹ thuật là thế đấy. Nếu không có nước ngoài hỗ trợ thì đúng là cái ốc mình có khi không làm nổi thật, nhưng họ hỗ trợ thì em phải nói là nhanh lắm, và khoản tiếp thu công nghệ thì em không nói phét người Việt Nam mình cứ phải gọi là học sinh xuất sắc của họ.
 
Chỉnh sửa cuối:

DrKen

Xe hơi
Biển số
OF-813785
Ngày cấp bằng
7/6/22
Số km
100
Động cơ
382 Mã lực
Tuổi
35
Cá nhân em thấy chưa cần làm tuyến Bắc Nam, ko mang tính cấp bách, trong khi hạ tầng xã hội em thấy nhiều mảng như bệnh viện, trường học, đb là trường cấp 3, an sinh xã hội cấp bách hơn nhiều. Cứ làm thí điểm 1 vài tuyến ngắn xem sao rồi cân đối hiệu quả. Nhìn cái tuyến đs đô thị làm mãi còn chưa đâu vào đâu. Nên đi vào thực chất, chi tiêu tiền (hay đổi đất) của nhân dân cần đúng, trúng và được xã hội đồng tình.
 

Mr Chun

Xe điện
Biển số
OF-157077
Ngày cấp bằng
17/9/12
Số km
2,633
Động cơ
425,690 Mã lực
Nơi ở
Ở nhà bế con cho Gấu.

duongphong

Xe container
Biển số
OF-431207
Ngày cấp bằng
20/6/16
Số km
9,768
Động cơ
389,459 Mã lực
Nơi ở
Lầu Năm Góc
Bạn viết rất dài, nhưng tôi không thấy có nội dung, mà toàn là những lời lẽ chung chung và lý thuyết suông, chưa kể đến sự thiếu hiểu biết về công nghệ. Ví dụ

Tàu hỏa, máy bay, tàu thủy là những sản phẩm ra đời cách đây hàng trăm năm rồi. Trong số đó có những công nghệ vượt trội thì không ai bán và chúng ta đều hiểu Việt Nam cũng không muốn mua. Chỉ nên hiểu rằng Việt Nam đang rất cần công nghệ để đặt nền móng phát triển chứ không phải là cần công nghệ để dẫn dắt thế giới. Nội hàm đó cũng đủ hiểu thứ công nghệ ta cần mua là thứ người khác có thể bán. Các nước chẳng cần phải lo mất công nghệ vì họ đã đi xa hơn thế rất nhiều rồi. Làm đường sắt chẳng hạn công nghệ đường ray và toa xe họ giữ làm gì, họ bán cho ta vì ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta.

Theo như bạn nói thì những bí quyết công nghệ cao siêu trong máy bay, tàu hỏa, tàu thủy thì sẽ không ai bán cho chúng ta và VN cũng không muốn mua. Như vậy có thể hiểu là các thành phần lõi của những sản phẩm này như động cơ, hệ truyền động, vật liệu cao cấp (composite, hợp kim chịu nhiệt cao, etc.), hệ điều khiển, hệ thống năng lượng, etc. thì họ sẽ không bán cho chúng ta bí kíp để làm ra chúng, nhưng họ sẽ bán cho chúng ta bí kíp làm các thành phần "không cao siêu" như "đường ray", "toa xe" phải k?
Và bạn còn nói rằng "ta có thể làm nhà máy thép, thứ mà ta có lợi thế mà chưa chắc họ có lợi thế sản xuất hơn ta."

Với tôi, nếu họ chỉ bán cho chúng ta cách làm những thành phần râu ria, không quan trọng, thì tôi không coi đó là chuyển giao (bí kíp) công nghệ. Chuyển giao (bí kíp) công nghệ để làm một thứ gì đó, chẳng hạn để làm máy bay hay tàu hỏa cao tốc, tức là phải làm sao để nước được chuyển giao có thể tự mình làm ra được các thành phần quan trọng của sản phẩm đó, giống như Pháp chuyển giao công nghệ tàu cao tốc cho Hàn Quốc ngày xưa vậy, để Hàn Quốc sau đó tự mình làm được các thành phần trọng yếu của tàu cao tốc vậy. Chứ nếu chỉ dạy cho bạn cách xây dựng nhà ga tàu hỏa, đóng cọc thì ai gọi là chuyển giao (bí kíp) công nghệ.

Bây giờ ta sẽ phân tích những gì bạn nói nhé. Chắc bạn nghĩ rằng làm toa tàu, đường ray cho tàu cao tốc là thứ rất đơn giản, mấy cái cơ khí ngày xưa, hàn, gò đục đẽo phải k? Chúng ta hãy cùng xem nhé

1) Với toa tàu cao tốc
Toa của tàu EMU cao tốc phức tạp vì nó là hệ thống cơ-điện-điều khiển-khí động học chạy ở môi trường rung động mạnh, yêu cầu an toàn cực cao. Nó không hề đơn giản, vừa là cơ khí chính xác, vừa là điện công suất + điều khiển + an toàn tiêu chuẩn hóa, cộng thêm pantograph-catenary và khí động học.

- Thiết kế khí động học:
yêu cầu giảm lực cản, tiếng ồn, đảm bảo ổn định ở tốc độ cao.

- Khung vỏ nhẹ nhưng cứng: dùng hợp kim nhôm hoặc composite để giảm trọng lượng mà vẫn chịu lực. Thân vỏ/khung toa phải nhẹ nhưng phải bền và an toàn va chạm. Và crashworthiness (EN 15227) cho các kịch bản va chạm, hấp thụ năng lượng, vùng biến dạng có kiểm soát…
Thực tế các đoàn HSR dùng nhiều nhôm (extrusion + hàn) để giảm khối lượng, tăng hiệu quả năng lượng, nhưng hàn nhôm/kiểm soát mỏi/ăn mòn lại là bài toán công nghệ riêng.

- Bogie:
Ở 250-350 km/h, bogie phải đảm bảo: ổn định chống “hunting oscillation”, độ êm và bám ray, quản trị mài mòn bánh–ray, hệ treo, giảm chấn, đôi khi có điều khiển chủ động.
Đây là mảng mà các OEM như Siemens có cả portfolio bogies/traction riêng.

- Hệ thống truyền động phân tán:
EMU có động cơ ở nhiều bogie, không tập trung ở đầu máy, giúp tăng gia tốc và phân bố lực đều.
EMU gồm nhiều động cơ kéo phân tán, biến tần, điều khiển lực kéo, phối hợp phanh (điện + khí + tái sinh), quản trị nhiệt… Tích hợp phần mềm/điều khiển là xương sống của vận hành êm và an toàn.

- Hệ thống điện và điều khiển:
công nghệ biến tần, động cơ đồng bộ hoặc không đồng bộ, phần mềm điều khiển SIL4.

- Pantograph–catenary (lấy điện ở tốc độ cao): Đây là điểm khó chịu khi lên tốc độ cao: chất lượng tiếp xúc, lực tiếp xúc biến thiên, gió ngang, băng tuyết… đều làm tăng nguy cơ mất tiếp xúc/phóng điện. Các tổng quan kỹ thuật nhấn mạnh pantograph-catenary là cửa ngõ điện năng duy nhất và rất nhạy với môi trường/tốc độ.

- An toàn và tiêu chuẩn quốc tế: chống cháy, cách âm, điều hòa áp suất khi vào hầm, giảm rung.

2) Thép chuyên dụng của tàu cao tốc
Loại thép này cũng đòi hỏi công nghệ cao. Tàu cao tốc đẩy cực mạnh các cơ chế hư hỏng ở tiếp xúc bánh-ray: mài mòn, rolling contact fatigue (RCF), nứt mỏi, corrugation… nên đòi hỏi tiêu chí chất lượng cao ở ray:
- chống mòn + chống RCF
- giữ hình học ổn định,
- đảm bảo độ sạch thép / độ dai gãy / ứng suất dư tốt hơn.

Ở châu Âu, ray thường theo EN 13674-1, với các mác từ R260 đến các mác premium như R350HT (heat-treated/head-hardened). Ví dụ voestalpine mô tả 350HT theo EN 13674-1 là thép peclit mịn (fine pearlitic) và được nhiệt luyện (HSH heat-treatment).
Các hãng như Siemens, Alstom, Hitachi thường không có công nghệ luyện kim, mà cung cấp tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình kiểm tra cho nhà sản xuất thép bên ngoài. Ở phương Tây thì công nghệ luyện kim vẫn là bí quyết của các tập đoàn thép (Nippon Steel, Voestalpine, ArcelorMittal), và họ đã làm ra thép cho tàu cao tốc. Ở Nga thì hãng luyện kim EVRAZ đã làm ra thép cho tàu cao tốc mới mà Nga đang phát triển (không phải tàu Sapsan ngày xưa. Nếu tôi không nhầm thì thép cho đường ray tàu điện Nhổn mà Pháp xây ở Việt Nam cũng là do hãng EVRAZ này làm, dù có thể VN không đặt hàng trực tiếp từ Nga)


Từ những phân tích trên, bác hãy nói họ có thể chuyển giao công nghệ làm toa tàu và đường ray cho tàu cao tốc cho ta nếu trả tiền, bác hãy nói rõ xem họ chuyển giao cho ta những cái gì ở trên, để ta có thể làm ra được toa tàu và đường ray tàu cao tốc?

PS: bác ngây thơ quá khi nghĩ rằng những cái công nghệ cũ họ sẽ luôn chuyển giao cho nước khác. Chắc chắn việc chuyển giao công nghệ không phải là chính sách chung, có chuyển giao hay không đều phải đi vào những trường hợp cụ thể.
Bác có tin rằng, nếu ta bảo với Nga hoặc Mỹ, rằng hãy bán cho chúng tôi bí kíp công nghệ, để chúng tôi có thể tự mình chế tạo ra máy bay như Mig-21 hay F-4 Fantom, hay tự mình chế tạo ra máy bay chở khách như IL-62M hay Boeing 707, thì Nga hay Mỹ có đồng ý bán k?
Dĩ nhiên khi có những bí kíp công nghệ đó, không có nghĩa là ta sẽ làm ra những sản phẩm máy bay trên, mà ta sẽ sử dụng những tri thức năng lực thu được khi tiếp nhận những công nghệ đó (khí động học, động lực học, etc.), để tiếp tục phát triển tiếp rồi làm việc khác.

Hay đơn giản hơn, bảo họ bán cho chúng tôi mã nguồn hệ điều hành Windows 3.X hay 95 thời xưa, họ có bán k? Dù có bán thì nếu chính phủ Mỹ phản đối, họ có còn dám bán nữa k?
Những hệ điều hành này rất cổ lỗ, nhưng nếu nắm được mã nguồn của nó, cũng sẽ rất bổ ích cho việc phát triển năng lực tin học hệ thống đấy. Mã nguồn các hệ điều hành đời cũ giúp các quốc gia/tổ chức rèn luyện/phát triển năng lực hệ thống theo những cách mà tài liệu hiện đại khó có thể thay thế. Nói chung bí kíp công nghệ dù là cũ cực kỳ hữu ích cho việc nâng cấp năng lực R/D công nghệ của một quốc gia/tổ chức. Đừng ngây thơ khi nghĩ rằng có thể dễ dàng có được bằng cách chỉ cần bỏ tiền mua

PS: Microsoft từng công bố việc cung cấp mã nguồn Windows XP, Windows 2000 cho một số khách hàng, cơ quan chính phủ, đối tác và giới học thuật theo khuôn khổ Shared Source (không phải public). Ví dụ thông cáo 03/12/2001 nói Bộ Nội vụ Áo được cấp quyền truy cập mã nguồn Windows XP trong SSI.
Cụ nào nói chuyển giao công nghệ thì cụ nên hỏi rõ chuyển giao công nghệ làm cái gì? Chứ cái tàu nó rất nhiều chi tiết cấu thành. Nói chung chung chuyển giao công nghệ vậy cãi nhau vài năm chả hết. Chuyển giao công nghệ; làm má phanh, làm cao su, lò xo, làm đường ray, làm bulon, bánh xe, hay làm động cơ..... Có mỗi cái nhà vệ sinh trên tàu bao năm nay làm chả nên hồn kia kìa cụ. :D
 

victory_1980

Xe container
Biển số
OF-201593
Ngày cấp bằng
11/7/13
Số km
6,700
Động cơ
327,104 Mã lực
TQ không bao giờ làm tuyến BN này đâu, các cụ cứ yên tâm. Trừ khi mình xuống nước van nài họ.
Mỗi năm họ xây đều đều khoảng 2000 đến 3000km bên họ, không thiếu việc.
Theo quan điểm của họ, họ không cần làm dự án BN này, nói đơn giản là họ không cần mình. Nếu mình cần họ thì mình mới là bên phải nhượng bộ. Còn mình không cần họ mà tự làm thì cứ làm thôi, hay Nhật Hàn Đức TBN tùy, họ chả quan tâm, cùng lắm dân mạng bên họ ngồi cắn hạt dưa xem có nát bét giống các dự án của Anh, của Ấn hay không.
Cụ chém hơi quá, chẳng có doanh nghiệp nào mà thừa việc làm cả, DNTQ thì càng không.
Mỗi lần lđ VN qua thăm là hàng loạt tập đoàn đăng ký xin gặp (cụ có thể xem VTV thời sự đưa tin khi có chuyến thăm), gần đây họ còn qua liên tục.
Tích cực nhất có lẽ là Tập đoàn TBD, đi làm việc với từng tỉnh để quảng bá, xin tham gia các dự án.
Ở HN thì họ mới nhận dự án cầu Tứ Liên, Ngọc Hồi, metro tuyến Văn Cao- Hoà Lạc.
Nếu thuê họ làm ĐSCT BN họ cũng nhận luôn.
 

.Bo My

Xe lăn
Biển số
OF-795404
Ngày cấp bằng
1/11/21
Số km
14,996
Động cơ
349,316 Mã lực
Cụ nào nói chuyển giao công nghệ thì cụ nên hỏi rõ chuyển giao công nghệ làm cái gì? Chứ cái tàu nó rất nhiều chi tiết cấu thành. Nói chung chung chuyển giao công nghệ vậy cãi nhau vài năm chả hết. Chuyển giao công nghệ; làm má phanh, làm cao su, lò xo, làm đường ray, làm bulon, bánh xe, hay làm động cơ..... Có mỗi cái nhà vệ sinh trên tàu bao năm nay làm chả nên hồn kia kìa cụ. :D
Dễ ệch, cứ nội địa hóa 20-40% đoàn tàu là ok, hay là sẽ giở thói dân dan, chưa làm thì bảo không làm được, làm 40% thì bảo sao không làm 60%. làm tàu thì chúng nó bảo sao không làm cao tốc, làm cao tốc thì chúng nó bảo BOT, sao không làm tàu..
 

Lá me xanh

Xe buýt
Biển số
OF-722540
Ngày cấp bằng
28/3/20
Số km
945
Động cơ
115,381 Mã lực
Tuổi
36
Làm như ý cụ rồi các ông mõm ở trỏng lại gào lên cái đk: thu nam đắp bắc. =))
Vin làm cái svđ mà các ông miền nam cũng chửi là sao chỉ có miền bắc đc hưởng, họ có biết nhiều dân miền bắc cũng ngán bủ mợ ra đây này:|
TQ không bao giờ làm tuyến BN này đâu, các cụ cứ yên tâm. Trừ khi mình xuống nước van nài họ.
Mỗi năm họ xây đều đều khoảng 2000 đến 3000km bên họ, không thiếu việc.
Theo quan điểm của họ, họ không cần làm dự án BN này, nói đơn giản là họ không cần mình. Nếu mình cần họ thì mình mới là bên phải nhượng bộ. Còn mình không cần họ mà tự làm thì cứ làm thôi, hay Nhật Hàn Đức TBN tùy, họ chả quan tâm, cùng lắm dân mạng bên họ ngồi cắn hạt dưa xem có nát bét giống các dự án của Anh, của Ấn hay không.
Nếu VN k đòi chuyển giao CN, k đòi vay lãi suất ưu đãi thì chắc vẫn làm thôi, chả ai chê cả. Pháp, Đức hay TQ cũng vậy, k kèm điều kiện thì họ làm ngay
 

duongphong

Xe container
Biển số
OF-431207
Ngày cấp bằng
20/6/16
Số km
9,768
Động cơ
389,459 Mã lực
Nơi ở
Lầu Năm Góc
Dễ ệch, cứ nội địa hóa 20-40% đoàn tàu là ok, hay là sẽ giở thói dân dan, chưa làm thì bảo không làm được, làm 40% thì bảo sao không làm 60%. làm tàu thì chúng nó bảo sao không làm cao tốc, làm cao tốc thì chúng nó bảo BOT, sao không làm tàu..
Em vote theo phương án nội địa hóa. ủng hộ DN trong nước làm để phát triển CN Đất nước. Nhưng nhìn lại thì cũng phải đặt câu hỏi. Danh sách DN nào trong nước đủ năng lực tài chính/kỹ thuật để cung cấp:
- Đường ray.
- Bánh tàu
- Khung thân tàu
- Động cơ
- Hệ thống điện/chuyển đổi điện
- Hệ thống phanh
- Hệ thống điều khiển
- Hệ thống thông gió
.........
Các ofer thông thạo có thể cung cấp danh sách DN có khả năng/tiềm năng triển khai nội dung này được không? Có tên DN để bọn Dân gian, 3/ đỡ chém gió. Em thật. :D
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top