Áo may-ô thực chất có gốc từ tiếng Pháp maillot, nghĩa là áo bó sát bằng vải dệt kim, ban đầu chỉ đồ bơi hoặc áo lót thân người (maillot de corps). Khi du nhập vào Việt Nam thời thuộc địa, từ này được Việt hóa thành “may-ô”, dùng phổ biến để chỉ loại áo ba lỗ bằng vải cotton, mỏng nhẹ, thấm mồ hôi, mặc bên trong áo sơ mi. Cũng như nhiều từ mượn khác từ tiếng Pháp (cà vạt, măng-sét, vét-tông…), “may-ô” trở thành thuật ngữ quen thuộc trong đời sống thị dân và công chức.
Thói quen mặc áo may-ô bên trong sơ mi hình thành rõ nét từ thời công chức Pháp. Do quy định ăn mặc nghiêm ngặt – sơ mi dài tay, cà vạt, quần tây, giày da – trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, lớp áo lót may-ô giúp thấm hút mồ hôi, giữ áo sơ mi luôn trắng sạch, bền lâu và tạo dáng đứng đắn, chỉn chu nơi công sở. Sang thời bao cấp, tập quán này vẫn được duy trì: cán bộ, công chức, thầy giáo, học sinh… đều quen mặc sơ mi trắng bên ngoài, áo may-ô bên trong. Trong hoàn cảnh đời sống còn khó khăn, việc có một chiếc áo may-ô cũng là cách giữ vệ sinh, tiết kiệm vì giúp bảo quản áo sơ mi vốn đắt đỏ. Chính vì vậy, hình ảnh sơ mi trắng phủ ngoài lớp may-ô ba lỗ đã trở thành dấu ấn rất đặc trưng của nếp sống công chức Việt Nam trong nhiều thập niên.
Ngày nay, áo may-ô gần như biến mất trong đời sống công sở. Nếu trước kia nó cần thiết để thấm mồ hôi, giữ cho sơ mi trắng sạch, bền lâu trong bối cảnh áo quần khan hiếm, đắt đỏ, môi trường làm việc nóng ẩm, thiếu quạt, điều hòa; thì nay điều kiện đã thay đổi hoàn toàn. Áo sơ mi sản xuất hàng loạt, rẻ và dễ giặt; công sở, trường học, phương tiện đều mát mẻ; thị hiếu thời trang chuộng sự thoải mái, gọn nhẹ; áo may-ô không còn cần thiết, trở thành ký ức một thời bao cấp – khi chiếc sơ mi trắng phủ ngoài lớp may-ô ba lỗ từng là hình ảnh quen thuộc của công chức, trí thức Việt Nam.