[Funland] Bàn về Sách CNGD tiếng Việt lớp 1

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Khó chịu hay mông lung vấn đề gì, là Cháu cứ Scorpions ạ. :D
Em chờ trẻ con lớn thêm tuổi nữa là bắt đầu tìm lại oai phong. Chứ giờ vợ nó sẵn sàng đàn áp dìm cách mạng trong bể rửa bát.
 

binhsu7273

Xe cút kít
Biển số
OF-191532
Ngày cấp bằng
26/4/13
Số km
15,397
Động cơ
479,022 Mã lực
Em đam mê nhạc và thiết bị nghe lắm đó, nhưng vẫn phải kiếm ăn nên ít có thời gian cụ ạ...
Năm nào cũng nghe đổi mới giáo dục, cải cách, rồi SGK mới mà hãi...
Những miếng bánh cho lũ "Gà què" mà Cụ, đào và lấp, Xây rồi phá.....kiếm bộn Tiền. Nhớ cái thủa Bộ Sách truyền tay nhau qua từng năm, gìn giữ từng trang cho khỏi nát. Cái thủa lên thư viện mượn sách, ngồi tại chỗ hì hục chép những tư liệu cần thiết. Cái con Chữ lúc đó mới quý giá làm sao, chỉ cần thế thôi là đã thuộc gần cả bài rồi. :)
 

binhsu7273

Xe cút kít
Biển số
OF-191532
Ngày cấp bằng
26/4/13
Số km
15,397
Động cơ
479,022 Mã lực
Em chờ trẻ con lớn thêm tuổi nữa là bắt đầu tìm lại oai phong. Chứ giờ vợ nó sẵn sàng đàn áp dìm cách mạng trong bể rửa bát.
He he...! Hậu phương yên ổn, thì Tiền Tuyến mới vững mạnh được. :D
 

nhuataiche

Xe container
Biển số
OF-570365
Ngày cấp bằng
22/5/18
Số km
7,810
Động cơ
245,838 Mã lực
Tuổi
50
Em xin nói ngoài lề tí.

Khi F1 nhà em sắp vào lớp 1, em dạy nó đánh vần vài chữ đơn giản, kiểu như " con nhớ được thì tốt, không thì cũng chẳng sao ". Theo thời gian, em dạy thêm được một ít, cô ở trường dạy thêm một ít.

Tới một ngày đẹp trời, F1 6 tuổi hiểu ra cái gì đó và tự đánh vần được nhiều chữ mà nó chưa được dạy bao giờ.

Đứa thứ 2 chậm hơn nhưng tình hình cũng tương tự.

Rất rõ ràng, sách lớp 1 không phải từ điển tiếng Việt, nó không thể chứa tất cả mọi chữ trong tiếng Việt. Học sinh chỉ cần biết đánh vần một số chữ làm căn bản là có thể tự động biết đánh vần tất cả những chữ còn lại.

Do đó em ko hiểu sách lớp 1 phải đưa vào vô số chữ nghĩa lắt léo, thành ngữ phức tạp để làm gì ? Chỉ là sách lớp 1 dạy đánh vần, có cần cải tiến cải lùi suốt bao nhiêu năm hay không ?

Suy nghĩ của em chỉ đơn giản thế thôi, em cũng chẳng phải thầy giáo hay chuyên viên sư phạm gì.
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Em xin nói ngoài lề tí.

Khi F1 nhà em sắp vào lớp 1, em dạy nó đánh vần vài chữ đơn giản, kiểu như " con nhớ được thì tốt, không thì cũng chẳng sao ". Theo thời gian, em dạy thêm được một ít, cô ở trường dạy thêm một ít.

Tới một ngày đẹp trời, F1 6 tuổi hiểu ra cái gì đó và tự đánh vần được nhiều chữ mà nó chưa được dạy bao giờ.

Đứa thứ 2 chậm hơn nhưng tình hình cũng tương tự.

Rất rõ ràng, sách lớp 1 không phải từ điển tiếng Việt, nó không thể chứa tất cả mọi chữ trong tiếng Việt. Học sinh chỉ cần biết đánh vần một số chữ làm căn bản là có thể tự động biết đánh vần tất cả những chữ còn lại.

Do đó em ko hiểu sách lớp 1 phải đưa vào vô số chữ nghĩa lắt léo, thành ngữ phức tạp để làm gì ? Chỉ là sách lớp 1 dạy đánh vần, có cần cải tiến cải lùi suốt bao nhiêu năm hay không ?

Suy nghĩ của em chỉ đơn giản thế thôi, em cũng chẳng phải thầy giáo hay chuyên viên sư phạm gì.
Không được thực hiện đơn giản. Phải càng phức tạp càng tốt thì mới n.gu d.ân được.
 

doctor76

Xe ba gác
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
23,806
Động cơ
689,200 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Những miếng bánh cho lũ "Gà què" mà Cụ, đào và lấp, Xây rồi phá.....kiếm bộn Tiền. Nhớ cái thủa Bộ Sách truyền tay nhau qua từng năm, gìn giữ từng trang cho khỏi nát. Cái thủa lên thư viện mượn sách, ngồi tại chỗ hì hục chép những tư liệu cần thiết. Cái con Chữ lúc đó mới quý giá làm sao, chỉ cần thế thôi là đã thuộc gần cả bài rồi. :)
Em có thời gian dạy học, dạy tiếng Anh, cho các em vùng cao Sơn La, miễn phí, em rất xúc động khi các em ở bản xa, đi xe đạp, xe Minsk xuống học, các em học vào buổi tối, cả lớp rất trật tự nghe dạy, giáo -trình em tự soạn, đại khái giao tiếp thông -dụng, các em cần ít kiến thức trước khi đi lao động xuất khẩu.
Đừng nói người học dốt, có chăng ta đã có cách dạy phù hợp chưa thôi.
 

binhsu7273

Xe cút kít
Biển số
OF-191532
Ngày cấp bằng
26/4/13
Số km
15,397
Động cơ
479,022 Mã lực
Em có thời gian dạy học, dạy tiếng Anh, cho các em vùng cao Sơn La, miễn phí, em rất xúc động khi các em ở bản xa, đi xe đạp, xe Minsk xuống học, các em học vào buổi tối, cả lớp rất trật tự nghe dạy, giáo -trình em tự soạn, đại khái giao tiếp thông -dụng, các em cần ít kiến thức trước khi đi lao động xuất khẩu.
Đừng nói người học dốt, có chăng ta đã có cách dạy phù hợp chưa thôi.
Dốt thì mới phải Học, Người dạy hay truyền đạt tốt là Người có kiến thức Sư Phạm giỏi.
 

kvboto

Xe container
Biển số
OF-405256
Ngày cấp bằng
17/2/16
Số km
6,849
Động cơ
294,832 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Ngày 12/9, tại Hà Nội đã diễn ra buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục". Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh
https://congluan.vn/gs-ho-ngoc-dai-phuong-phap-cua-toi-la-hoc-cai-gi-duoc-cai-day-mot-lan-duy-nhat-post67830.html




Quang cảnh buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục" (Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh)
.... suốt 50 năm qua "GS" chỉ nghiên cứu chuyên về tiểu học và tập trung vào xử lý tiểu học,...

Và đây, báo giáo dục, chỉ bàn thuần túy về kết qủa 50 năm về nội dung, chất lượng, tính văn, thể, mỹ, giáo dục, sư phạm,... của môn ngôn ngữ Tiếng Việt Công nghệ giáo dục ông Đại đó thôi nhé:
https://giaoduc.net.vn/GDVN/Cho-con-tre-hoc-sach-cua-Giao-su-Ho-Ngoc-Dai-tuong-lai-cua-chung-ta-se-ra-sao-post162071.gd

LTS: Khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại đang được phổ cập ở 40 tỉnh thành, tác giả Trần Hương Giang gửi thư tới những người làm trong ngành giáo dục.
Bức thư này, phải nói là chứa nhiều nước mắt và sự lo lắng cao độ cho tương lai của mọi người...
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả.

Kính gửi: Những người làm trong ngành giáo dục

Tôi chỉ là một người công nhân bình thường và cũng là một người mẹ. Con tôi năm nay bước vào lớp 1, bắt đầu làm quen với con chữ và đó cũng là hành trang mà cháu sẽ mang theo trong suốt cuộc đời.

Vâng, chính bởi vậy tôi luôn nhất trí với quan điểm của các nhà lãnh đạo rằng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” hay “Giáo dục là nền tảng của mỗi quốc gia” .

Trước những trọng trách như vậy thì những người làm trong ngành giáo dục cũng phải chịu sức ép vô cùng lớn. Tôi hết sức thông cảm với điều đó.

Tôi cũng hiểu rằng để có được như ngày nay chúng ta phải trải qua biết bao cuộc cải cách, đó là thành quả đóng góp của biết bao người tâm huyết với ngành giáo dục nước nhà.

Và hiện nay thế hệ con tôi cũng đang phải tiếp tục đối mặt với những cuộc cải cách mới.

Phải có cải cách thì xã hội mới tiến bộ vì cải cách là sửa đổi cái cũ đã trở thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện tại và định hướng cho tương lai. Tôi hoàn toàn ủng hộ điều đó.

Nhưng khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại mà nhà trường đang dạy con tôi (theo thông tin tôi tìm hiểu được thì cả nước hiện nay có khoảng 40 tỉnh thành đang được phổ cập chương trình này, trong đó có Hải Phòng), tôi nhận thấy những vấn đề sau:

- Ý nghĩa của nhiều từ ngữ trong sách không phù hợp với lứa tuổi Tiểu học.

Đặc biệt nội dung một số câu chuyện không mang tính giáo dục, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển đạo đức, trí tuệ và hình thành nhân cách của trẻ.

- Nhiều nội dung mâu thuẫn với những điều mà Luật Giáo dục quy định. Cụ thể:

I. Dùng từ không mang tính phổ thông, không thống nhất, nhiều từ không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11:

1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học”.

khoản 2 Điều 6 của Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12: “2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý...

1. Trong một câu vừa dùng từ “mẹ” vừa dùng từ “” khiến các cháu khó hiểu:

VD: là chị dì Na / Bà là mẹ cả , cả dì Na. (tr43-Tiếng Việt 1-tập 1).

2. Cùng đề cập đến bãi biển nhưng lúc thì dùng từ “bể”, lúc thì “biển”. Trong từ điển tiếng Việt phổ thông chỉ giải nghĩa từ “bể” trong : bể bơi, bể phốt.

VD: Hè cả nhà đi bể nghỉ... (tr47-Tiếng Việt 1-tập 1)

...Bé Ngân đi nghỉ mát ở bể (tr29-Tiếng Việt 1-tập 2)

Biển Nha Trang... (tr71-Tiếng Việt 1-tập 2)

3. Cùng nói về con gà lúc thì dùng từ “”, lúc thì “” làm các cháu khó hiểu dễ nhầm lẫn:

VD: Bố mẹ ra phố, Nga ở nhà nghe ra-đi-ô. Ra-đi-ô rè rè, Nga bỏ ra hè. Ồ, ở ổ rạ có cô gà ri. A, đã đẻ. (tr55-Tiếng Việt 1-tập 1).

4. Nhiều từ mang tính chất địa phương, không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông:

VD: chú ỉ (tr69-Tiếng Việt 1-tập 1).

Giô ra, dô ra, vô ra , vỏ xe (tr72-Tiếng Việt 1-tập 1).

Sắp nhỏ các nhà lân cận... (tr39-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ghe ngo (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2)


5. Câu văn miêu tả hành động không phù hợp với không gian ngoài bãi biển.



II. Dùng những từ ngữ, đoạn văn gợi cho trẻ liên tưởng đến những hình ảnh - hành động - thái độ tiêu cực, tạo cho trẻ tâm lí nặng nề, bị ám ảnh bởi những hành động – thái độ đó.

Nhiều cụm từ khó hiểu, không mang tính chất giáo dục, không phù hợp với lứa tuổi của trẻ gây ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ...”.

Và khoản 2 Điều 28 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: 2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

1. Cụm từ “Thu đủ bù chi(tr4-Tiếng Việt 1-tập 2): nội dung không phù hợp với trẻ lớp 1



2. kề cà / cò kè /ghe ngo/ Cứ kể cà kê (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2).

kề cà: để mất nhiều thì giờ về những việc không quan trọng.

cò kè: có nghĩa là nài thêm bớt từng chút một khi mặc cả.

ghe ngo: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

cà kê: dài dòng hết chuyện này sang chuyện khác.

Trang 29 sách Tiếng Việt 1 – tập 1 có viết: Bé kể cà kê. Bà để bé kể, bà chả chê bé.

3. lúy túy/xúy xóa/quỵ lụy/dĩ hòa vi quý (tr14,15-Tiếng Việt 1-tập 2).

lúy túy/xúy xóa : không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

quỵ lụy: tự hạ mình chịu nhục trước người khác để cầu xin, nhờ vả.

dĩ hòa vi quý: coi sự hòa thuận êm ấm là quý hơn cả, có thể từ đó sinh ra xuê xoa, không phân biệt phải trái (khó hiểu đối với các cháu).

4. bạt ngàn man dã (tr21-Tiếng Việt 1-tập 2).

bạt ngàn: nhiều vô kể và trên một diện rất rộng.

man dã ~man dại~dã man: tàn ác theo lối loại thú, hết sức vô nhân đạo.

(Vậy nên giải thích ý nghĩa của cụm từ này cho các cháu thế nào? Có cần thiết phải đưa vào sách lớp 1 không?).

5. sàm sỡ (tr31-Tiếng Việt 1-tập 2)

sàm sỡ: (tt) đến mức gần như thô bỉ trong quan hệ giao tiếp giữa nam và nữ
thô bỉ: là thô lỗ và bỉ ổi, đáng khinh.

6. chằm chặp/nhắm mắt làm ngơ (tr32-Tiếng Việt 1-tập 2)

chằm chặp~ chằm chằm: (cách nhìn) chăm chú, thẳng và lâu, không chớp mắt, thường có ý dò xét (hành vi thiếu lịch sự)

nhắm mắt làm ngơ: làm như không biết gì cả về một sự việc có thật đang diễn ra trước mắt.( cách tự lừa dối mình)

7. nhăm nhe/lăm le/trăm thứ bà giằn (tr33-Tiếng Việt 1-tập 2)

nhăm nhe~lăm le: có ý định và sẵn sàng, chỉ chờ có cơ hội là làm ngay (việc gì đó với ý đồ không tốt).

trăm thứ bà giằn : nhiều thứ linh tinh, lôi thôi.

8. câng cấc/xấc lấc/tâng hẩng (tr41-Tiếng Việt 1-tập 2).

câng: (tt) trơ lì và vênh váo, tỏ ra bướng bỉnh, trông rất đáng ghét

xấc: (tt) thiếu lễ độ, khinh thường người khác

tâng hẩng: (từ địa phương) chưng hửng

(cách biểu hiện những thái độ của những kẻ vô học)

9. cà rịch cà tàng (tr47-Tiếng Việt 1-tập 2): không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

10. xập xí xập ngầu (tr55-Tiếng Việt 1-tập 2).

- mười bốn mười năm, tiếng Quảng Đông Trung Quốc

- làm nhập nhằng để gian lận (Phương ngữ, Thông tục).

11. xiết nợ/nghiệt ngã (tr70,71-Tiếng Việt 1-tập 2)

xiết nợ: lấy của người khác, bất kể đồng ý hay không, để trừ vào nợ.

nghiệt ngã: khắt khe đến mức gắt gao, khó chịu đựng nổi.

12. Què quặt/quá quắt/ngoa ngoắt/quằn quặt (tr86, 87-Tiếng Việt 1-tập 2)

ngoa ngoắt: ngoa và lắm lời một cách quá quắt, hỗn hào

quằn quặt: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

13. Ghen ghét/bèn bẹt/kèn cựa (tr90,91-Tiếng Việt 1-tập 2)

Ghen ghét : do ghen tị mà sinh ra ghét

kèn cựa : ghen tức với người khác về địa vị, quyền lợi và thường tìm cách dìm họ để giành phần hơn cho mình

(không giáo dục trẻ biết yêu thương chia sẻ mà từ nhỏ đã được biết thế nào là kèn cựa, ghen ghét thì liệu có thành người tử tế được không?)

14. Xoen xoét/toèn toẹt (tr94-Tiếng Việt 1-tập 2)

Xoen xoét: từ gợi tả lối nói luôn mồm (thường là những điều không thành thực) một cách dễ dàng, trơn tru như không biết ngượng.

toèn toẹt : từ mô phỏng tiếng nhổ hoặc tiếng hất nước mạnh, (làm việc gì) một cách dứt khoát, thẳng thắn, không cần lưỡng lự, giữ gìn (hàm ý coi thường người khác, ví dụ : Nói toẹt ra trước mặt).

15. Ăn quỵt/suỵt chó/hàng thịt nguýt hàng cá (tr97-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ăn quỵt : cố tình ăn không, lấy không, không chịu trả cái lẽ ra phải trả

hàng thịt nguýt hàng cá: đây là thái độ của những người làm ăn buôn bán kèn cựa nhau, không phù hợp đưa vào trường học để giáo dục trẻ em.

16. Mồm loa mép giải (tr107-Tiếng Việt 1-tập 2) : to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác (hàm ý chê)

17. Hùng hục (tr114-Tiếng Việt 1-tập 2) (làm việc gì) dốc toàn bộ sức ra để làm nhưng thiếu suy nghĩ, tính toán.

18. Quýt làm cam chịu/hứa hươu hứa vượn (tr129,130-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quýt làm cam chịu : ví trường hợp kẻ này gây nên lỗi lầm, sai trái nhưng người khác (thường là người thân thiết, gần gũi) lại phải gánh chịu hậu quả.
hứa hươu hứa vượn: hứa rất nhiều nhưng không thực hiện lời hứa.

19. Oái oăm/quằm quặp/khuýp khuỳm khuỵp (tr132-Tiếng Việt 1-tập 2)

Oái oăm: trái với bình thường một cách kì quặc

quằm quặp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

khuýp khuỳm khuỵp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Nếu có thì dùng trong hoàn cảnh nào?

20. Huyễn hoặc (tr133-Tiếng Việt 1-tập 2)

huyễn hoặc: làm cho mất sáng suốt, lầm lẫn, tin vào những điều không có thật hoặc có tính chất mê tín.

Ví dụ: tự huyễn hoặc mình/dùng những chuyện kì bí để huyễn hoặc người khác

21. Quyềnh quàng/huyếch hoác (tr136-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quyềnh quàng: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

huyếch hoác: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

22. Câu chuyện “Mụ phù thủy”: làm trẻ bị ám ảnh bởi những điều không có thực (tr15-Tiếng Việt 1-tập 2)

23. Câu chuyện “Vẽ gì khó”: (tr63-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Tạo cho trẻ có tâm lí tự ti, sợ bị chê khi làm những việc thiết thực, có những chuẩn mực cụ thể :

Chó, trâu quanh năm ngày tháng ai chẳng thấy, vẽ sai bị chê ngay.”

- Khuyến khích trẻ làm những việc không có thực, mọi người không biết để không bị góp ý, phê bình:

Ma quỷ đã ai thấy bao giờ, thích thế nào thì vẽ thế ấy, ai dám hoạnh họe

hoạnh họe: bắt bẻ điều này điều nọ để ra oai, làm khó dễ cho người khác


24. Câu chuyện “Quả bứa”: (tr87-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Người lớn hành xử thiếu văn hóa, ngôn từ thô tục, cần phải loại bỏ những hành động và ngôn từ này nếu muốn giáo dục các cháu thành người văn minh lịch sự.

Khi hai cháu tranh nhau quả bứa, cậu Cả phân xử bằng cách bổ quả bứa ra và nói: “Năm, mày thấy quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Dành phần ruột trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu cả vừa ăn vừa bỏ đi.



25. Câu chuyện “Cá gỗ” (tr101-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu yêu lao động để vươn lên khỏi cuộc sống nghèo đói, thiếu thốn mà dạy các cháu thích sự ảo tưởng, tự lừa dối chính bản thân mình.

Bà mẹ dặn các con: “Khi thích ăn hãy nhìn vào cá gỗ, mút mút mấy cái y như đang ăn cá thật vậy.”


- Nội dung không phù hợp với xã hội hiện nay.

26. Câu chuyện “Cháo rìu” (tr129-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu có lòng tự trọng. Sẵn sàng dùng trí khôn vặt để lợi dụng người khác, làm lợi cho bản thân mình.

27. Câu chuyện “An Dương Vương” (tr16-Tiếng Việt 1-tập 3)

- Không giáo dục các cháu tính kiên trì, sáng tạo và tự học hỏi mà hướng các cháu có tư duy dựa dẫm ỉ lại vào người khác để đạt được mục đích của bản thân.

An Dương Vương xây thành Cổ Loa mãi không xong. Sau nhờ Rùa Vàng giúp mới xây được.

Tôi tự hỏi:

- Chúng ta có cần thiết phải đưa những từ ngữ thiếu trong sáng làm vẩn đục tâm hồn thơ ngây của chúng như vậy không?

- Chúng ta có thể mong các con thành người tử tế qua những câu chuyện không có tính giáo dục như vậy không?

- Đọc thông viết thạo để làm gì nếu không hiểu ý nghĩa của điều mình đang đọc hay viết?

- Nắm chắc ngữ pháp để làm gì trong khi đạo đức và nhân cách phát triển sai lệch?

- Nếu rèn luyện kỹ năng vận dụng những kiến thức này vào thực tiễn thì liệu có đảm bảo cho các con phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ... theo khoản 2 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 không?

- Nếu nội dung học như vậy thì liệu có đảm bảo tính kế thừa giữa các cấp học; liệu có bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế theo như khoản 2 Điều 6 của Luật giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12 không?

- Nếu cứ tiếp tục được truyền dạy những kiến thức như vậy, liệu các con có thể hình thành và phát triển các phẩm chất theo mục 1 - Điều 9 của Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT:

Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu trách nhiệm về các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm chưa đúng; sẵn sàng nhận lỗi khi làm sai;

Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói dối, không nói sai về người khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực hiện nghiêm túc quy định về học tập; không lấy những gì không phải của mình; biết bảo vệ của công; giúp đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng người lao động; nhường nhịn bạn; để giáo viên có thể đánh giá các con hay không?



Vì tương lai của chính chúng ta, người lớn chúng ta hãy nghiêm túc nhìn lại mình và tự cải cách mình ngay lúc này. Hãy làm gương để chính con em mình noi theo. Hãy tôn trọng và lắng nghe những nguyện vọng của lớp trẻ.

Những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục hãy xem xét lại nội dung của chương trình Giáo dục công nghệ trước khi áp dụng trên diện rộng như hiện nay.

Đừng biến các cháu thành vật thí nghiệm vô giá...trị nữa mà tội nghiệp các cháu. Xin các vị hãy nghĩ lại đi. Làm ơn hãy vì tương lai con em chúng tôi, dù chỉ một chút thôi.

Có thể những ý kiến của tôi chưa chắc đã được các vị quan tâm nhưng nếu không lên tiếng thì tôi thực sự cảm thấy xấu hổ với chính mình, với con tôi.

Nếu không lên tiếng thì có lẽ tôi đã mắc bệnh nan y “có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như câm

Tôi rất mong sớm nhận được câu trả lời của những người quan tâm tới giáo dục.

Xin trân trọng cảm ơn!

Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn riêng của tác giả Trần Hương Giang
..............

MẸ BỐ KHỈ

p/s hôm nay cháu mới học sách Tiếng Việt lớp 1 công nghệ về ạ
 
Chỉnh sửa cuối:

nhuataiche

Xe container
Biển số
OF-570365
Ngày cấp bằng
22/5/18
Số km
7,810
Động cơ
245,838 Mã lực
Tuổi
50
Ngày 12/9, tại Hà Nội đã diễn ra buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục". Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh
https://congluan.vn/gs-ho-ngoc-dai-phuong-phap-cua-toi-la-hoc-cai-gi-duoc-cai-day-mot-lan-duy-nhat-post67830.html




Quang cảnh buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục" (Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh)
.... suốt 50 năm qua "GS" chỉ nghiên cứu chuyên về tiểu học và tập trung vào xử lý tiểu học,...

Và đây, báo giáo dục, chỉ bàn thuần túy về nội dung, chất lượng, tính văn, thể, mỹ, giáo dục, sư phạm,... của môn ngôn ngữ Tiếng Việt thôi nhé:
https://giaoduc.net.vn/GDVN/Cho-con-tre-hoc-sach-cua-Giao-su-Ho-Ngoc-Dai-tuong-lai-cua-chung-ta-se-ra-sao-post162071.gd

LTS: Khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại đang được phổ cập ở 40 tỉnh thành, tác giả Trần Hương Giang gửi thư tới những người làm trong ngành giáo dục.
Bức thư này, phải nói là chứa nhiều nước mắt và sự lo lắng cao độ cho tương lai của mọi người...
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả.

Kính gửi: Những người làm trong ngành giáo dục

Tôi chỉ là một người công nhân bình thường và cũng là một người mẹ. Con tôi năm nay bước vào lớp 1, bắt đầu làm quen với con chữ và đó cũng là hành trang mà cháu sẽ mang theo trong suốt cuộc đời.

Vâng, chính bởi vậy tôi luôn nhất trí với quan điểm của các nhà lãnh đạo rằng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” hay “Giáo dục là nền tảng của mỗi quốc gia” .

Trước những trọng trách như vậy thì những người làm trong ngành giáo dục cũng phải chịu sức ép vô cùng lớn. Tôi hết sức thông cảm với điều đó.

Tôi cũng hiểu rằng để có được như ngày nay chúng ta phải trải qua biết bao cuộc cải cách, đó là thành quả đóng góp của biết bao người tâm huyết với ngành giáo dục nước nhà.

Và hiện nay thế hệ con tôi cũng đang phải tiếp tục đối mặt với những cuộc cải cách mới.

Phải có cải cách thì xã hội mới tiến bộ vì cải cách là sửa đổi cái cũ đã trở thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện tại và định hướng cho tương lai. Tôi hoàn toàn ủng hộ điều đó.

Nhưng khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại mà nhà trường đang dạy con tôi (theo thông tin tôi tìm hiểu được thì cả nước hiện nay có khoảng 40 tỉnh thành đang được phổ cập chương trình này, trong đó có Hải Phòng), tôi nhận thấy những vấn đề sau:

- Ý nghĩa của nhiều từ ngữ trong sách không phù hợp với lứa tuổi Tiểu học.

Đặc biệt nội dung một số câu chuyện không mang tính giáo dục, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển đạo đức, trí tuệ và hình thành nhân cách của trẻ.

- Nhiều nội dung mâu thuẫn với những điều mà Luật Giáo dục quy định. Cụ thể:

I. Dùng từ không mang tính phổ thông, không thống nhất, nhiều từ không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11:

1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học”.

khoản 2 Điều 6 của Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12: “2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý...

1. Trong một câu vừa dùng từ “mẹ” vừa dùng từ “” khiến các cháu khó hiểu:

VD: là chị dì Na / Bà là mẹ cả , cả dì Na. (tr43-Tiếng Việt 1-tập 1).

2. Cùng đề cập đến bãi biển nhưng lúc thì dùng từ “bể”, lúc thì “biển”. Trong từ điển tiếng Việt phổ thông chỉ giải nghĩa từ “bể” trong : bể bơi, bể phốt.

VD: Hè cả nhà đi bể nghỉ... (tr47-Tiếng Việt 1-tập 1)

...Bé Ngân đi nghỉ mát ở bể (tr29-Tiếng Việt 1-tập 2)

Biển Nha Trang... (tr71-Tiếng Việt 1-tập 2)

3. Cùng nói về con gà lúc thì dùng từ “”, lúc thì “” làm các cháu khó hiểu dễ nhầm lẫn:

VD: Bố mẹ ra phố, Nga ở nhà nghe ra-đi-ô. Ra-đi-ô rè rè, Nga bỏ ra hè. Ồ, ở ổ rạ có cô gà ri. A, đã đẻ. (tr55-Tiếng Việt 1-tập 1).

4. Nhiều từ mang tính chất địa phương, không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông:

VD: chú ỉ (tr69-Tiếng Việt 1-tập 1).

Giô ra, dô ra, vô ra , vỏ xe (tr72-Tiếng Việt 1-tập 1).

Sắp nhỏ các nhà lân cận... (tr39-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ghe ngo (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2)


5. Câu văn miêu tả hành động không phù hợp với không gian ngoài bãi biển.



II. Dùng những từ ngữ, đoạn văn gợi cho trẻ liên tưởng đến những hình ảnh - hành động - thái độ tiêu cực, tạo cho trẻ tâm lí nặng nề, bị ám ảnh bởi những hành động – thái độ đó.

Nhiều cụm từ khó hiểu, không mang tính chất giáo dục, không phù hợp với lứa tuổi của trẻ gây ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ...”.

Và khoản 2 Điều 28 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: 2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

1. Cụm từ “Thu đủ bù chi(tr4-Tiếng Việt 1-tập 2): nội dung không phù hợp với trẻ lớp 1



2. kề cà / cò kè /ghe ngo/ Cứ kể cà kê (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2).

kề cà: để mất nhiều thì giờ về những việc không quan trọng.

cò kè: có nghĩa là nài thêm bớt từng chút một khi mặc cả.

ghe ngo: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

cà kê: dài dòng hết chuyện này sang chuyện khác.

Trang 29 sách Tiếng Việt 1 – tập 1 có viết: Bé kể cà kê. Bà để bé kể, bà chả chê bé.

3. lúy túy/xúy xóa/quỵ lụy/dĩ hòa vi quý (tr14,15-Tiếng Việt 1-tập 2).

lúy túy/xúy xóa : không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

quỵ lụy: tự hạ mình chịu nhục trước người khác để cầu xin, nhờ vả.

dĩ hòa vi quý: coi sự hòa thuận êm ấm là quý hơn cả, có thể từ đó sinh ra xuê xoa, không phân biệt phải trái (khó hiểu đối với các cháu).

4. bạt ngàn man dã (tr21-Tiếng Việt 1-tập 2).

bạt ngàn: nhiều vô kể và trên một diện rất rộng.

man dã ~man dại~dã man: tàn ác theo lối loại thú, hết sức vô nhân đạo.

(Vậy nên giải thích ý nghĩa của cụm từ này cho các cháu thế nào? Có cần thiết phải đưa vào sách lớp 1 không?).

5. sàm sỡ (tr31-Tiếng Việt 1-tập 2)

sàm sỡ: (tt) đến mức gần như thô bỉ trong quan hệ giao tiếp giữa nam và nữ
thô bỉ: là thô lỗ và bỉ ổi, đáng khinh.

6. chằm chặp/nhắm mắt làm ngơ (tr32-Tiếng Việt 1-tập 2)

chằm chặp~ chằm chằm: (cách nhìn) chăm chú, thẳng và lâu, không chớp mắt, thường có ý dò xét (hành vi thiếu lịch sự)

nhắm mắt làm ngơ: làm như không biết gì cả về một sự việc có thật đang diễn ra trước mắt.( cách tự lừa dối mình)

7. nhăm nhe/lăm le/trăm thứ bà giằn (tr33-Tiếng Việt 1-tập 2)

nhăm nhe~lăm le: có ý định và sẵn sàng, chỉ chờ có cơ hội là làm ngay (việc gì đó với ý đồ không tốt).

trăm thứ bà giằn : nhiều thứ linh tinh, lôi thôi.

8. câng cấc/xấc lấc/tâng hẩng (tr41-Tiếng Việt 1-tập 2).

câng: (tt) trơ lì và vênh váo, tỏ ra bướng bỉnh, trông rất đáng ghét

xấc: (tt) thiếu lễ độ, khinh thường người khác

tâng hẩng: (từ địa phương) chưng hửng

(cách biểu hiện những thái độ của những kẻ vô học)

9. cà rịch cà tàng (tr47-Tiếng Việt 1-tập 2): không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

10. xập xí xập ngầu (tr55-Tiếng Việt 1-tập 2).

- mười bốn mười năm, tiếng Quảng Đông Trung Quốc

- làm nhập nhằng để gian lận (Phương ngữ, Thông tục).

11. xiết nợ/nghiệt ngã (tr70,71-Tiếng Việt 1-tập 2)

xiết nợ: lấy của người khác, bất kể đồng ý hay không, để trừ vào nợ.

nghiệt ngã: khắt khe đến mức gắt gao, khó chịu đựng nổi.

12. Què quặt/quá quắt/ngoa ngoắt/quằn quặt (tr86, 87-Tiếng Việt 1-tập 2)

ngoa ngoắt: ngoa và lắm lời một cách quá quắt, hỗn hào

quằn quặt: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

13. Ghen ghét/bèn bẹt/kèn cựa (tr90,91-Tiếng Việt 1-tập 2)

Ghen ghét : do ghen tị mà sinh ra ghét

kèn cựa : ghen tức với người khác về địa vị, quyền lợi và thường tìm cách dìm họ để giành phần hơn cho mình

(không giáo dục trẻ biết yêu thương chia sẻ mà từ nhỏ đã được biết thế nào là kèn cựa, ghen ghét thì liệu có thành người tử tế được không?)

14. Xoen xoét/toèn toẹt (tr94-Tiếng Việt 1-tập 2)

Xoen xoét: từ gợi tả lối nói luôn mồm (thường là những điều không thành thực) một cách dễ dàng, trơn tru như không biết ngượng.

toèn toẹt : từ mô phỏng tiếng nhổ hoặc tiếng hất nước mạnh, (làm việc gì) một cách dứt khoát, thẳng thắn, không cần lưỡng lự, giữ gìn (hàm ý coi thường người khác, ví dụ : Nói toẹt ra trước mặt).

15. Ăn quỵt/suỵt chó/hàng thịt nguýt hàng cá (tr97-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ăn quỵt : cố tình ăn không, lấy không, không chịu trả cái lẽ ra phải trả

hàng thịt nguýt hàng cá: đây là thái độ của những người làm ăn buôn bán kèn cựa nhau, không phù hợp đưa vào trường học để giáo dục trẻ em.

16. Mồm loa mép giải (tr107-Tiếng Việt 1-tập 2) : to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác (hàm ý chê)

17. Hùng hục (tr114-Tiếng Việt 1-tập 2) (làm việc gì) dốc toàn bộ sức ra để làm nhưng thiếu suy nghĩ, tính toán.

18. Quýt làm cam chịu/hứa hươu hứa vượn (tr129,130-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quýt làm cam chịu : ví trường hợp kẻ này gây nên lỗi lầm, sai trái nhưng người khác (thường là người thân thiết, gần gũi) lại phải gánh chịu hậu quả.
hứa hươu hứa vượn: hứa rất nhiều nhưng không thực hiện lời hứa.

19. Oái oăm/quằm quặp/khuýp khuỳm khuỵp (tr132-Tiếng Việt 1-tập 2)

Oái oăm: trái với bình thường một cách kì quặc

quằm quặp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

khuýp khuỳm khuỵp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Nếu có thì dùng trong hoàn cảnh nào?

20. Huyễn hoặc (tr133-Tiếng Việt 1-tập 2)

huyễn hoặc: làm cho mất sáng suốt, lầm lẫn, tin vào những điều không có thật hoặc có tính chất mê tín.

Ví dụ: tự huyễn hoặc mình/dùng những chuyện kì bí để huyễn hoặc người khác

21. Quyềnh quàng/huyếch hoác (tr136-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quyềnh quàng: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

huyếch hoác: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

22. Câu chuyện “Mụ phù thủy”: làm trẻ bị ám ảnh bởi những điều không có thực (tr15-Tiếng Việt 1-tập 2)

23. Câu chuyện “Vẽ gì khó”: (tr63-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Tạo cho trẻ có tâm lí tự ti, sợ bị chê khi làm những việc thiết thực, có những chuẩn mực cụ thể :

Chó, trâu quanh năm ngày tháng ai chẳng thấy, vẽ sai bị chê ngay.”

- Khuyến khích trẻ làm những việc không có thực, mọi người không biết để không bị góp ý, phê bình:

Ma quỷ đã ai thấy bao giờ, thích thế nào thì vẽ thế ấy, ai dám hoạnh họe

hoạnh họe: bắt bẻ điều này điều nọ để ra oai, làm khó dễ cho người khác


24. Câu chuyện “Quả bứa”: (tr87-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Người lớn hành xử thiếu văn hóa, ngôn từ thô tục, cần phải loại bỏ những hành động và ngôn từ này nếu muốn giáo dục các cháu thành người văn minh lịch sự.

Khi hai cháu tranh nhau quả bứa, cậu Cả phân xử bằng cách bổ quả bứa ra và nói: “Năm, mày thấy quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Dành phần ruột trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu cả vừa ăn vừa bỏ đi.



25. Câu chuyện “Cá gỗ” (tr101-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu yêu lao động để vươn lên khỏi cuộc sống nghèo đói, thiếu thốn mà dạy các cháu thích sự ảo tưởng, tự lừa dối chính bản thân mình.

Bà mẹ dặn các con: “Khi thích ăn hãy nhìn vào cá gỗ, mút mút mấy cái y như đang ăn cá thật vậy.”


- Nội dung không phù hợp với xã hội hiện nay.

26. Câu chuyện “Cháo rìu” (tr129-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu có lòng tự trọng. Sẵn sàng dùng trí khôn vặt để lợi dụng người khác, làm lợi cho bản thân mình.

27. Câu chuyện “An Dương Vương” (tr16-Tiếng Việt 1-tập 3)

- Không giáo dục các cháu tính kiên trì, sáng tạo và tự học hỏi mà hướng các cháu có tư duy dựa dẫm ỉ lại vào người khác để đạt được mục đích của bản thân.

An Dương Vương xây thành Cổ Loa mãi không xong. Sau nhờ Rùa Vàng giúp mới xây được.

Tôi tự hỏi:

- Chúng ta có cần thiết phải đưa những từ ngữ thiếu trong sáng làm vẩn đục tâm hồn thơ ngây của chúng như vậy không?

- Chúng ta có thể mong các con thành người tử tế qua những câu chuyện không có tính giáo dục như vậy không?

- Đọc thông viết thạo để làm gì nếu không hiểu ý nghĩa của điều mình đang đọc hay viết?

- Nắm chắc ngữ pháp để làm gì trong khi đạo đức và nhân cách phát triển sai lệch?

- Nếu rèn luyện kỹ năng vận dụng những kiến thức này vào thực tiễn thì liệu có đảm bảo cho các con phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ... theo khoản 2 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 không?

- Nếu nội dung học như vậy thì liệu có đảm bảo tính kế thừa giữa các cấp học; liệu có bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế theo như khoản 2 Điều 6 của Luật giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12 không?

- Nếu cứ tiếp tục được truyền dạy những kiến thức như vậy, liệu các con có thể hình thành và phát triển các phẩm chất theo mục 1 - Điều 9 của Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT:

Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu trách nhiệm về các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm chưa đúng; sẵn sàng nhận lỗi khi làm sai;

Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói dối, không nói sai về người khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực hiện nghiêm túc quy định về học tập; không lấy những gì không phải của mình; biết bảo vệ của công; giúp đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng người lao động; nhường nhịn bạn; để giáo viên có thể đánh giá các con hay không?



Vì tương lai của chính chúng ta, người lớn chúng ta hãy nghiêm túc nhìn lại mình và tự cải cách mình ngay lúc này. Hãy làm gương để chính con em mình noi theo. Hãy tôn trọng và lắng nghe những nguyện vọng của lớp trẻ.

Những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục hãy xem xét lại nội dung của chương trình Giáo dục công nghệ trước khi áp dụng trên diện rộng như hiện nay.

Đừng biến các cháu thành vật thí nghiệm vô giá...trị nữa mà tội nghiệp các cháu. Xin các vị hãy nghĩ lại đi. Làm ơn hãy vì tương lai con em chúng tôi, dù chỉ một chút thôi.

Có thể những ý kiến của tôi chưa chắc đã được các vị quan tâm nhưng nếu không lên tiếng thì tôi thực sự cảm thấy xấu hổ với chính mình, với con tôi.

Nếu không lên tiếng thì có lẽ tôi đã mắc bệnh nan y “có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như câm

Tôi rất mong sớm nhận được câu trả lời của những người quan tâm tới giáo dục.

Xin trân trọng cảm ơn!

Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn riêng của tác giả.
Trần Hương Giang
Trong khuôn khổ những dẫn chứng được đưa ra, em nghĩ tác giả có lý.
 

htc4

Xe buýt
Biển số
OF-373487
Ngày cấp bằng
13/7/15
Số km
657
Động cơ
255,348 Mã lực
Các tỉnh dùng sách ông Đại đều tự nguyện. Thậm chí như Lào Cai là tỉnh tiên phong xử dụng rộng rãi (trong khi vẫn dùng những bộ sgk khác), thì họ còn phải dũng cảm mới dám "không nghe lời" bộ GD. Sau này bộ GD cho phép dùng thì ai thích thì dùng chứ không bắt buộc. Thực ra các tỉnh, các sở giáo dục cũng không thích cái mới, vì phải mất công tập huấn đào tạo giáo viên, lại phải thêm việc. Thế nên, các tỉnh áp dụng phương pháp mới đa phần là do tình thế thúc ép, do áp lực xóa mù chữ, nên phải thử nghiệm và sau này áp dụng thành công.

Và theo như thông tin báo chí, có trích dẫn lời của những vị có chức sắc rõ ràng, thì hiệu quả của phương pháp là rất tốt đối với vùng xâu vùng xa, dân tộc thiểu số.

Phương pháp của ông Đại, nói cho ngắn gọn thế thôi, chứ thực ra là đóng góp của nhiều người nữa ví dụ như GS Phạm Toàn vừa mất. PP này có thể ko được chào đón ở thành phố, vì áp lực biết đọc biết viết thật nhanh không có. Theo pp cũ hay cải cách cải kiếc gì thì cũng chỉ 2 đến 3 năm là ê a tàm tạm. Nhưng nếu thử nghĩ đến vùng sâu vùng xa, nơi mà hs đi học rất vất vả, lôi kéo được lũ trẻ rất khó khăn, rồi thiên tai bão lũ 1 năm chỉ học đc vài tháng, thì tính hiệu quả của việc học đọc học viết là rất cấp thiết. 3 tháng đi học của trẻ em vùng cao có khi quý giá hơn 3 năm học của trẻ em thành phố!
Kinh quá, tự nhiên các quan tỉnh chống lại cả quan trung ương chỉ bằng lòng dũng cảm và mong ước cải thiện chất lượng giáo dục, đúng là chuyện chỉ có trong truyền thuyết, được kể bởi một người chưa bao giờ làm việc (đúng nghĩa) với quan chức Việt Nam.
 

Kitcat

Xe container
Biển số
OF-569708
Ngày cấp bằng
18/5/18
Số km
8,952
Động cơ
236,360 Mã lực
Trong khuôn khổ những dẫn chứng được đưa ra, em nghĩ tác giả có lý.
Những dẫn chứng ấy lại chính là ưu điểm của bộ sách theo 1 góc nhìn khác. Nói chung phụ huynh nông dưn hay làm nghề gì cứ chuyên tâm mà kiếm tiền là tốt nhất ạ. Có phải chuyên gia giáo dục tiểu học hay tâm lý trẻ em đâu mà mang sách tập đọc ra nhận xét.
Ng ta dạy ngầm phương ngữ từ đồng nghĩa... Thì lại chê dùng từ k thống nhất.
Tài liệu dễ học tới nỗi vùng cao ng ta dùng vì ít tái mù chữ thì các ông đánh giá chê ... Khó hiểu ... Nhiều kiến thức quá. Oimeoi.
 

htc4

Xe buýt
Biển số
OF-373487
Ngày cấp bằng
13/7/15
Số km
657
Động cơ
255,348 Mã lực
Với ng biết chữ cụ đọc sách toàn chữ thấy dễ hiểu là phải rồi. Còn bọn 6 t chưa biết chữ, giao cho nó quyển toàn chữ giun dế với nó khó hiểu hơn nhiều mấy cái ô vuông. Mỗi ô là 1 từ. Rồi tách từ ra âm. Oimeoi, cụ là 1 ng lớn bình thường, còn chả là giáo viên, k biết sách đó sẽ dùng để giảng thế nào. Cụ đừng giận chứ, nhận xét của cụ em cho là còn chả đáng tin cậy bằng nx của chính các bé cấp 1 đang học sách này ;))
Mẹ em là giáo viên dạy lớp 1 (đã nghĩ hưu hơn chục năm) có nhận xét với em là dạy theo cái sách đó giáo viên thì mệt mà học sinh thì khó hiểu, đâm ra các cô giáo phải dạy chen cả phương pháp cũ. Dữ liệu này có đáng tin không cụ/mợ?
 

Kitcat

Xe container
Biển số
OF-569708
Ngày cấp bằng
18/5/18
Số km
8,952
Động cơ
236,360 Mã lực
Mẹ em là giáo viên dạy lớp 1 (đã nghĩ hưu hơn chục năm) có nhận xét với em là dạy theo cái sách đó giáo viên thì mệt mà học sinh thì khó hiểu, đâm ra các cô giáo phải dạy chen cả phương pháp cũ. Dữ liệu này có đáng tin không cụ/mợ?
Nhà em nhiều ng làm giáo viên cụ ạ. Thôi có lẽ em nói nó Sai với đa số. Thiểu số gvien chậm , thích kiểu đọc chép ngại cách dạy để học sinh tham gia tích cực trong lớp theo cách tiếp cận của cụ Đại thì chơi trò lách luật.
 

htc4

Xe buýt
Biển số
OF-373487
Ngày cấp bằng
13/7/15
Số km
657
Động cơ
255,348 Mã lực
Vâng, nghĩ đến cách giải quyết vấn đề của cụ/mợ em biết mà, nhà cụ/mợ đúng là điển hình của cải cách giáo dục.
Cụ/mợ có thể cho nhận xét về các bức hình trích từ SGK của CỤ ĐẠI mà các cụ kia trích ở trên này không, qua đó người ta cũng có thể đánh giá nền tảng giáo dục của từng người mà cụ!
 

nhuataiche

Xe container
Biển số
OF-570365
Ngày cấp bằng
22/5/18
Số km
7,810
Động cơ
245,838 Mã lực
Tuổi
50
Những dẫn chứng ấy lại chính là ưu điểm của bộ sách theo 1 góc nhìn khác. Nói chung phụ huynh nông dưn hay làm nghề gì cứ chuyên tâm mà kiếm tiền là tốt nhất ạ. Có phải chuyên gia giáo dục tiểu học hay tâm lý trẻ em đâu mà mang sách tập đọc ra nhận xét.
Ng ta dạy ngầm phương ngữ từ đồng nghĩa... Thì lại chê dùng từ k thống nhất.
Tài liệu dễ học tới nỗi vùng cao ng ta dùng vì ít tái mù chữ thì các ông đánh giá chê ... Khó hiểu ... Nhiều kiến thức quá. Oimeoi.
Em xin nói ngoài lề tí.

Khi F1 nhà em sắp vào lớp 1, em dạy nó đánh vần vài chữ đơn giản, kiểu như " con nhớ được thì tốt, không thì cũng chẳng sao ". Theo thời gian, em dạy thêm được một ít, cô ở trường dạy thêm một ít.

Tới một ngày đẹp trời, F1 6 tuổi hiểu ra cái gì đó và tự đánh vần được nhiều chữ mà nó chưa được dạy bao giờ.

Đứa thứ 2 chậm hơn nhưng tình hình cũng tương tự.

Rất rõ ràng, sách lớp 1 không phải từ điển tiếng Việt, nó không thể chứa tất cả mọi chữ trong tiếng Việt. Học sinh chỉ cần biết đánh vần một số chữ làm căn bản là có thể tự động biết đánh vần tất cả những chữ còn lại.

Do đó em ko hiểu sách lớp 1 phải đưa vào vô số chữ nghĩa lắt léo, thành ngữ phức tạp để làm gì ? Chỉ là sách lớp 1 dạy đánh vần, có cần cải tiến cải lùi suốt bao nhiêu năm hay không ?

Suy nghĩ của em chỉ đơn giản thế thôi, em cũng chẳng phải thầy giáo hay chuyên viên sư phạm gì.
Đây bác, lý luận của em.
 

htc4

Xe buýt
Biển số
OF-373487
Ngày cấp bằng
13/7/15
Số km
657
Động cơ
255,348 Mã lực
Ngày 12/9, tại Hà Nội đã diễn ra buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục". Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh
https://congluan.vn/gs-ho-ngoc-dai-phuong-phap-cua-toi-la-hoc-cai-gi-duoc-cai-day-mot-lan-duy-nhat-post67830.html




Quang cảnh buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục" (Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh)
.... suốt 50 năm qua "GS" chỉ nghiên cứu chuyên về tiểu học và tập trung vào xử lý tiểu học,...

Và đây, báo giáo dục, chỉ bàn thuần túy về kết qủa 50 năm về nội dung, chất lượng, tính văn, thể, mỹ, giáo dục, sư phạm,... của môn ngôn ngữ Tiếng Việt Công nghệ giáo dục ông Đại đó thôi nhé:
https://giaoduc.net.vn/GDVN/Cho-con-tre-hoc-sach-cua-Giao-su-Ho-Ngoc-Dai-tuong-lai-cua-chung-ta-se-ra-sao-post162071.gd

LTS: Khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại đang được phổ cập ở 40 tỉnh thành, tác giả Trần Hương Giang gửi thư tới những người làm trong ngành giáo dục.
Bức thư này, phải nói là chứa nhiều nước mắt và sự lo lắng cao độ cho tương lai của mọi người...
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả.

Kính gửi: Những người làm trong ngành giáo dục

Tôi chỉ là một người công nhân bình thường và cũng là một người mẹ. Con tôi năm nay bước vào lớp 1, bắt đầu làm quen với con chữ và đó cũng là hành trang mà cháu sẽ mang theo trong suốt cuộc đời.

Vâng, chính bởi vậy tôi luôn nhất trí với quan điểm của các nhà lãnh đạo rằng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” hay “Giáo dục là nền tảng của mỗi quốc gia” .

Trước những trọng trách như vậy thì những người làm trong ngành giáo dục cũng phải chịu sức ép vô cùng lớn. Tôi hết sức thông cảm với điều đó.

Tôi cũng hiểu rằng để có được như ngày nay chúng ta phải trải qua biết bao cuộc cải cách, đó là thành quả đóng góp của biết bao người tâm huyết với ngành giáo dục nước nhà.

Và hiện nay thế hệ con tôi cũng đang phải tiếp tục đối mặt với những cuộc cải cách mới.

Phải có cải cách thì xã hội mới tiến bộ vì cải cách là sửa đổi cái cũ đã trở thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện tại và định hướng cho tương lai. Tôi hoàn toàn ủng hộ điều đó.

Nhưng khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại mà nhà trường đang dạy con tôi (theo thông tin tôi tìm hiểu được thì cả nước hiện nay có khoảng 40 tỉnh thành đang được phổ cập chương trình này, trong đó có Hải Phòng), tôi nhận thấy những vấn đề sau:

- Ý nghĩa của nhiều từ ngữ trong sách không phù hợp với lứa tuổi Tiểu học.

Đặc biệt nội dung một số câu chuyện không mang tính giáo dục, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển đạo đức, trí tuệ và hình thành nhân cách của trẻ.

- Nhiều nội dung mâu thuẫn với những điều mà Luật Giáo dục quy định. Cụ thể:

I. Dùng từ không mang tính phổ thông, không thống nhất, nhiều từ không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11:

1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học”.

khoản 2 Điều 6 của Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12: “2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý...

1. Trong một câu vừa dùng từ “mẹ” vừa dùng từ “” khiến các cháu khó hiểu:

VD: là chị dì Na / Bà là mẹ cả , cả dì Na. (tr43-Tiếng Việt 1-tập 1).

2. Cùng đề cập đến bãi biển nhưng lúc thì dùng từ “bể”, lúc thì “biển”. Trong từ điển tiếng Việt phổ thông chỉ giải nghĩa từ “bể” trong : bể bơi, bể phốt.

VD: Hè cả nhà đi bể nghỉ... (tr47-Tiếng Việt 1-tập 1)

...Bé Ngân đi nghỉ mát ở bể (tr29-Tiếng Việt 1-tập 2)

Biển Nha Trang... (tr71-Tiếng Việt 1-tập 2)

3. Cùng nói về con gà lúc thì dùng từ “”, lúc thì “” làm các cháu khó hiểu dễ nhầm lẫn:

VD: Bố mẹ ra phố, Nga ở nhà nghe ra-đi-ô. Ra-đi-ô rè rè, Nga bỏ ra hè. Ồ, ở ổ rạ có cô gà ri. A, đã đẻ. (tr55-Tiếng Việt 1-tập 1).

4. Nhiều từ mang tính chất địa phương, không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông:

VD: chú ỉ (tr69-Tiếng Việt 1-tập 1).

Giô ra, dô ra, vô ra , vỏ xe (tr72-Tiếng Việt 1-tập 1).

Sắp nhỏ các nhà lân cận... (tr39-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ghe ngo (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2)


5. Câu văn miêu tả hành động không phù hợp với không gian ngoài bãi biển.



II. Dùng những từ ngữ, đoạn văn gợi cho trẻ liên tưởng đến những hình ảnh - hành động - thái độ tiêu cực, tạo cho trẻ tâm lí nặng nề, bị ám ảnh bởi những hành động – thái độ đó.

Nhiều cụm từ khó hiểu, không mang tính chất giáo dục, không phù hợp với lứa tuổi của trẻ gây ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ...”.

Và khoản 2 Điều 28 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: 2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

1. Cụm từ “Thu đủ bù chi(tr4-Tiếng Việt 1-tập 2): nội dung không phù hợp với trẻ lớp 1



2. kề cà / cò kè /ghe ngo/ Cứ kể cà kê (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2).

kề cà: để mất nhiều thì giờ về những việc không quan trọng.

cò kè: có nghĩa là nài thêm bớt từng chút một khi mặc cả.

ghe ngo: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

cà kê: dài dòng hết chuyện này sang chuyện khác.

Trang 29 sách Tiếng Việt 1 – tập 1 có viết: Bé kể cà kê. Bà để bé kể, bà chả chê bé.

3. lúy túy/xúy xóa/quỵ lụy/dĩ hòa vi quý (tr14,15-Tiếng Việt 1-tập 2).

lúy túy/xúy xóa : không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

quỵ lụy: tự hạ mình chịu nhục trước người khác để cầu xin, nhờ vả.

dĩ hòa vi quý: coi sự hòa thuận êm ấm là quý hơn cả, có thể từ đó sinh ra xuê xoa, không phân biệt phải trái (khó hiểu đối với các cháu).

4. bạt ngàn man dã (tr21-Tiếng Việt 1-tập 2).

bạt ngàn: nhiều vô kể và trên một diện rất rộng.

man dã ~man dại~dã man: tàn ác theo lối loại thú, hết sức vô nhân đạo.

(Vậy nên giải thích ý nghĩa của cụm từ này cho các cháu thế nào? Có cần thiết phải đưa vào sách lớp 1 không?).

5. sàm sỡ (tr31-Tiếng Việt 1-tập 2)

sàm sỡ: (tt) đến mức gần như thô bỉ trong quan hệ giao tiếp giữa nam và nữ
thô bỉ: là thô lỗ và bỉ ổi, đáng khinh.

6. chằm chặp/nhắm mắt làm ngơ (tr32-Tiếng Việt 1-tập 2)

chằm chặp~ chằm chằm: (cách nhìn) chăm chú, thẳng và lâu, không chớp mắt, thường có ý dò xét (hành vi thiếu lịch sự)

nhắm mắt làm ngơ: làm như không biết gì cả về một sự việc có thật đang diễn ra trước mắt.( cách tự lừa dối mình)

7. nhăm nhe/lăm le/trăm thứ bà giằn (tr33-Tiếng Việt 1-tập 2)

nhăm nhe~lăm le: có ý định và sẵn sàng, chỉ chờ có cơ hội là làm ngay (việc gì đó với ý đồ không tốt).

trăm thứ bà giằn : nhiều thứ linh tinh, lôi thôi.

8. câng cấc/xấc lấc/tâng hẩng (tr41-Tiếng Việt 1-tập 2).

câng: (tt) trơ lì và vênh váo, tỏ ra bướng bỉnh, trông rất đáng ghét

xấc: (tt) thiếu lễ độ, khinh thường người khác

tâng hẩng: (từ địa phương) chưng hửng

(cách biểu hiện những thái độ của những kẻ vô học)

9. cà rịch cà tàng (tr47-Tiếng Việt 1-tập 2): không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

10. xập xí xập ngầu (tr55-Tiếng Việt 1-tập 2).

- mười bốn mười năm, tiếng Quảng Đông Trung Quốc

- làm nhập nhằng để gian lận (Phương ngữ, Thông tục).

11. xiết nợ/nghiệt ngã (tr70,71-Tiếng Việt 1-tập 2)

xiết nợ: lấy của người khác, bất kể đồng ý hay không, để trừ vào nợ.

nghiệt ngã: khắt khe đến mức gắt gao, khó chịu đựng nổi.

12. Què quặt/quá quắt/ngoa ngoắt/quằn quặt (tr86, 87-Tiếng Việt 1-tập 2)

ngoa ngoắt: ngoa và lắm lời một cách quá quắt, hỗn hào

quằn quặt: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

13. Ghen ghét/bèn bẹt/kèn cựa (tr90,91-Tiếng Việt 1-tập 2)

Ghen ghét : do ghen tị mà sinh ra ghét

kèn cựa : ghen tức với người khác về địa vị, quyền lợi và thường tìm cách dìm họ để giành phần hơn cho mình

(không giáo dục trẻ biết yêu thương chia sẻ mà từ nhỏ đã được biết thế nào là kèn cựa, ghen ghét thì liệu có thành người tử tế được không?)

14. Xoen xoét/toèn toẹt (tr94-Tiếng Việt 1-tập 2)

Xoen xoét: từ gợi tả lối nói luôn mồm (thường là những điều không thành thực) một cách dễ dàng, trơn tru như không biết ngượng.

toèn toẹt : từ mô phỏng tiếng nhổ hoặc tiếng hất nước mạnh, (làm việc gì) một cách dứt khoát, thẳng thắn, không cần lưỡng lự, giữ gìn (hàm ý coi thường người khác, ví dụ : Nói toẹt ra trước mặt).

15. Ăn quỵt/suỵt chó/hàng thịt nguýt hàng cá (tr97-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ăn quỵt : cố tình ăn không, lấy không, không chịu trả cái lẽ ra phải trả

hàng thịt nguýt hàng cá: đây là thái độ của những người làm ăn buôn bán kèn cựa nhau, không phù hợp đưa vào trường học để giáo dục trẻ em.

16. Mồm loa mép giải (tr107-Tiếng Việt 1-tập 2) : to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác (hàm ý chê)

17. Hùng hục (tr114-Tiếng Việt 1-tập 2) (làm việc gì) dốc toàn bộ sức ra để làm nhưng thiếu suy nghĩ, tính toán.

18. Quýt làm cam chịu/hứa hươu hứa vượn (tr129,130-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quýt làm cam chịu : ví trường hợp kẻ này gây nên lỗi lầm, sai trái nhưng người khác (thường là người thân thiết, gần gũi) lại phải gánh chịu hậu quả.
hứa hươu hứa vượn: hứa rất nhiều nhưng không thực hiện lời hứa.

19. Oái oăm/quằm quặp/khuýp khuỳm khuỵp (tr132-Tiếng Việt 1-tập 2)

Oái oăm: trái với bình thường một cách kì quặc

quằm quặp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

khuýp khuỳm khuỵp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Nếu có thì dùng trong hoàn cảnh nào?

20. Huyễn hoặc (tr133-Tiếng Việt 1-tập 2)

huyễn hoặc: làm cho mất sáng suốt, lầm lẫn, tin vào những điều không có thật hoặc có tính chất mê tín.

Ví dụ: tự huyễn hoặc mình/dùng những chuyện kì bí để huyễn hoặc người khác

21. Quyềnh quàng/huyếch hoác (tr136-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quyềnh quàng: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

huyếch hoác: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

22. Câu chuyện “Mụ phù thủy”: làm trẻ bị ám ảnh bởi những điều không có thực (tr15-Tiếng Việt 1-tập 2)

23. Câu chuyện “Vẽ gì khó”: (tr63-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Tạo cho trẻ có tâm lí tự ti, sợ bị chê khi làm những việc thiết thực, có những chuẩn mực cụ thể :

Chó, trâu quanh năm ngày tháng ai chẳng thấy, vẽ sai bị chê ngay.”

- Khuyến khích trẻ làm những việc không có thực, mọi người không biết để không bị góp ý, phê bình:

Ma quỷ đã ai thấy bao giờ, thích thế nào thì vẽ thế ấy, ai dám hoạnh họe

hoạnh họe: bắt bẻ điều này điều nọ để ra oai, làm khó dễ cho người khác


24. Câu chuyện “Quả bứa”: (tr87-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Người lớn hành xử thiếu văn hóa, ngôn từ thô tục, cần phải loại bỏ những hành động và ngôn từ này nếu muốn giáo dục các cháu thành người văn minh lịch sự.

Khi hai cháu tranh nhau quả bứa, cậu Cả phân xử bằng cách bổ quả bứa ra và nói: “Năm, mày thấy quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Dành phần ruột trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu cả vừa ăn vừa bỏ đi.



25. Câu chuyện “Cá gỗ” (tr101-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu yêu lao động để vươn lên khỏi cuộc sống nghèo đói, thiếu thốn mà dạy các cháu thích sự ảo tưởng, tự lừa dối chính bản thân mình.

Bà mẹ dặn các con: “Khi thích ăn hãy nhìn vào cá gỗ, mút mút mấy cái y như đang ăn cá thật vậy.”


- Nội dung không phù hợp với xã hội hiện nay.

26. Câu chuyện “Cháo rìu” (tr129-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu có lòng tự trọng. Sẵn sàng dùng trí khôn vặt để lợi dụng người khác, làm lợi cho bản thân mình.
27. Câu chuyện “An Dương Vương” (tr16-Tiếng Việt 1-tập 3)

- Không giáo dục các cháu tính kiên trì, sáng tạo và tự học hỏi mà hướng các cháu có tư duy dựa dẫm ỉ lại vào người khác để đạt được mục đích của bản thân.

An Dương Vương xây thành Cổ Loa mãi không xong. Sau nhờ Rùa Vàng giúp mới xây được.

Tôi tự hỏi:

- Chúng ta có cần thiết phải đưa những từ ngữ thiếu trong sáng làm vẩn đục tâm hồn thơ ngây của chúng như vậy không?

- Chúng ta có thể mong các con thành người tử tế qua những câu chuyện không có tính giáo dục như vậy không?

- Đọc thông viết thạo để làm gì nếu không hiểu ý nghĩa của điều mình đang đọc hay viết?

- Nắm chắc ngữ pháp để làm gì trong khi đạo đức và nhân cách phát triển sai lệch?

- Nếu rèn luyện kỹ năng vận dụng những kiến thức này vào thực tiễn thì liệu có đảm bảo cho các con phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ... theo khoản 2 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 không?

- Nếu nội dung học như vậy thì liệu có đảm bảo tính kế thừa giữa các cấp học; liệu có bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế theo như khoản 2 Điều 6 của Luật giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12 không?

- Nếu cứ tiếp tục được truyền dạy những kiến thức như vậy, liệu các con có thể hình thành và phát triển các phẩm chất theo mục 1 - Điều 9 của Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT:

Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu trách nhiệm về các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm chưa đúng; sẵn sàng nhận lỗi khi làm sai;

Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói dối, không nói sai về người khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực hiện nghiêm túc quy định về học tập; không lấy những gì không phải của mình; biết bảo vệ của công; giúp đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng người lao động; nhường nhịn bạn; để giáo viên có thể đánh giá các con hay không?



Vì tương lai của chính chúng ta, người lớn chúng ta hãy nghiêm túc nhìn lại mình và tự cải cách mình ngay lúc này. Hãy làm gương để chính con em mình noi theo. Hãy tôn trọng và lắng nghe những nguyện vọng của lớp trẻ.

Những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục hãy xem xét lại nội dung của chương trình Giáo dục công nghệ trước khi áp dụng trên diện rộng như hiện nay.

Đừng biến các cháu thành vật thí nghiệm vô giá...trị nữa mà tội nghiệp các cháu. Xin các vị hãy nghĩ lại đi. Làm ơn hãy vì tương lai con em chúng tôi, dù chỉ một chút thôi.

Có thể những ý kiến của tôi chưa chắc đã được các vị quan tâm nhưng nếu không lên tiếng thì tôi thực sự cảm thấy xấu hổ với chính mình, với con tôi.

Nếu không lên tiếng thì có lẽ tôi đã mắc bệnh nan y “có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như câm

Tôi rất mong sớm nhận được câu trả lời của những người quan tâm tới giáo dục.

Xin trân trọng cảm ơn!

Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn riêng của tác giả Trần Hương Giang
..............

MẸ BỐ KHỈ

p/s hôm nay cháu mới học sách Tiếng Việt lớp 1 công nghệ về ạ
Mời cụ thêm chén nữa mà diễn đàn nó lại không cho, nợ vậy :D
 

rgvmen

Xe container
Biển số
OF-310
Ngày cấp bằng
14/6/06
Số km
6,216
Động cơ
640,957 Mã lực
Chết mẹ cười cái di chúc =))
 

zin80

Xe tải
Biển số
OF-685915
Ngày cấp bằng
10/7/19
Số km
285
Động cơ
105,894 Mã lực
Tuổi
44
Em xin lỗi, hình như cụ học trường thực nghiệm thì phải. Cách mà cụ comment em thấy không ngửi được.
Riêng ở topic này, cụ thử đem những cái cụ học được ra để phản biện lại những ví dụ và nhận xét của cụ doctor76 đã đăng xem nó đúng hay là sai, phù hợp hay không phù hợp. Nếu cụ làm được thế thì cụ bảo vệ được GS Đại hơn là việc cụ cứ đi nằng nằng mặc định là nó hay, nó tiến bộ rồi nên không cần phải xem xét gì nữa.
1. Thường thì em không đáp lại những lời kích bác như của cụ. Đây là ngoại lệ.

2. Hồi em bé, có người bác khuyên ông già em cho em học trường Thực nghiệm, ông già nói "Không muốn đem con mình ra làm thí nghiệm". Ông cũng là giáo viên và ... rất ghét ông Đại.
Mà nếu em học trường TN thì sao? Một học sinh cũ quay lại khen trường không phải đáng quý. Những trường em từng học qua, em thường khuyên bạn bè không nên cho con học.

3. Em không hề khen phương pháp ông Đại hay. Em chỉ đưa dẫn chứng những ý kiến từ người khác đánh giá về nó.
 

cairong_2011

Xe container
Biển số
OF-193288
Ngày cấp bằng
9/5/13
Số km
8,771
Động cơ
475,039 Mã lực
Ngày 12/9, tại Hà Nội đã diễn ra buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục". Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh
https://congluan.vn/gs-ho-ngoc-dai-phuong-phap-cua-toi-la-hoc-cai-gi-duoc-cai-day-mot-lan-duy-nhat-post67830.html




Quang cảnh buổi sinh hoạt chuyên đề “Di chúc nghiệp vụ giáo dục” Hồ Ngọc Đại: Sách giáo khoa cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục" (Chuyên đề đã thu hút sự quan tâm của đông đảo báo giới, các nhà làm giáo dục và phụ huynh học sinh)
.... suốt 50 năm qua "GS" chỉ nghiên cứu chuyên về tiểu học và tập trung vào xử lý tiểu học,...

Và đây, báo giáo dục, chỉ bàn thuần túy về kết qủa 50 năm về nội dung, chất lượng, tính văn, thể, mỹ, giáo dục, sư phạm,... của môn ngôn ngữ Tiếng Việt Công nghệ giáo dục ông Đại đó thôi nhé:
https://giaoduc.net.vn/GDVN/Cho-con-tre-hoc-sach-cua-Giao-su-Ho-Ngoc-Dai-tuong-lai-cua-chung-ta-se-ra-sao-post162071.gd

LTS: Khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại đang được phổ cập ở 40 tỉnh thành, tác giả Trần Hương Giang gửi thư tới những người làm trong ngành giáo dục.
Bức thư này, phải nói là chứa nhiều nước mắt và sự lo lắng cao độ cho tương lai của mọi người...
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả.

Kính gửi: Những người làm trong ngành giáo dục

Tôi chỉ là một người công nhân bình thường và cũng là một người mẹ. Con tôi năm nay bước vào lớp 1, bắt đầu làm quen với con chữ và đó cũng là hành trang mà cháu sẽ mang theo trong suốt cuộc đời.

Vâng, chính bởi vậy tôi luôn nhất trí với quan điểm của các nhà lãnh đạo rằng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” hay “Giáo dục là nền tảng của mỗi quốc gia” .

Trước những trọng trách như vậy thì những người làm trong ngành giáo dục cũng phải chịu sức ép vô cùng lớn. Tôi hết sức thông cảm với điều đó.

Tôi cũng hiểu rằng để có được như ngày nay chúng ta phải trải qua biết bao cuộc cải cách, đó là thành quả đóng góp của biết bao người tâm huyết với ngành giáo dục nước nhà.

Và hiện nay thế hệ con tôi cũng đang phải tiếp tục đối mặt với những cuộc cải cách mới.

Phải có cải cách thì xã hội mới tiến bộ vì cải cách là sửa đổi cái cũ đã trở thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện tại và định hướng cho tương lai. Tôi hoàn toàn ủng hộ điều đó.

Nhưng khi đọc bộ sách Tiếng Việt lớp 1 – chương trình Giáo dục công nghệ của ông Hồ Ngọc Đại mà nhà trường đang dạy con tôi (theo thông tin tôi tìm hiểu được thì cả nước hiện nay có khoảng 40 tỉnh thành đang được phổ cập chương trình này, trong đó có Hải Phòng), tôi nhận thấy những vấn đề sau:

- Ý nghĩa của nhiều từ ngữ trong sách không phù hợp với lứa tuổi Tiểu học.

Đặc biệt nội dung một số câu chuyện không mang tính giáo dục, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển đạo đức, trí tuệ và hình thành nhân cách của trẻ.

- Nhiều nội dung mâu thuẫn với những điều mà Luật Giáo dục quy định. Cụ thể:

I. Dùng từ không mang tính phổ thông, không thống nhất, nhiều từ không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11:

1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học”.

khoản 2 Điều 6 của Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12: “2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý...

1. Trong một câu vừa dùng từ “mẹ” vừa dùng từ “” khiến các cháu khó hiểu:

VD: là chị dì Na / Bà là mẹ cả , cả dì Na. (tr43-Tiếng Việt 1-tập 1).

2. Cùng đề cập đến bãi biển nhưng lúc thì dùng từ “bể”, lúc thì “biển”. Trong từ điển tiếng Việt phổ thông chỉ giải nghĩa từ “bể” trong : bể bơi, bể phốt.

VD: Hè cả nhà đi bể nghỉ... (tr47-Tiếng Việt 1-tập 1)

...Bé Ngân đi nghỉ mát ở bể (tr29-Tiếng Việt 1-tập 2)

Biển Nha Trang... (tr71-Tiếng Việt 1-tập 2)

3. Cùng nói về con gà lúc thì dùng từ “”, lúc thì “” làm các cháu khó hiểu dễ nhầm lẫn:

VD: Bố mẹ ra phố, Nga ở nhà nghe ra-đi-ô. Ra-đi-ô rè rè, Nga bỏ ra hè. Ồ, ở ổ rạ có cô gà ri. A, đã đẻ. (tr55-Tiếng Việt 1-tập 1).

4. Nhiều từ mang tính chất địa phương, không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông:

VD: chú ỉ (tr69-Tiếng Việt 1-tập 1).

Giô ra, dô ra, vô ra , vỏ xe (tr72-Tiếng Việt 1-tập 1).

Sắp nhỏ các nhà lân cận... (tr39-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ghe ngo (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2)


5. Câu văn miêu tả hành động không phù hợp với không gian ngoài bãi biển.



II. Dùng những từ ngữ, đoạn văn gợi cho trẻ liên tưởng đến những hình ảnh - hành động - thái độ tiêu cực, tạo cho trẻ tâm lí nặng nề, bị ám ảnh bởi những hành động – thái độ đó.

Nhiều cụm từ khó hiểu, không mang tính chất giáo dục, không phù hợp với lứa tuổi của trẻ gây ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

Điều này mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ...”.

Và khoản 2 Điều 28 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: 2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

1. Cụm từ “Thu đủ bù chi(tr4-Tiếng Việt 1-tập 2): nội dung không phù hợp với trẻ lớp 1



2. kề cà / cò kè /ghe ngo/ Cứ kể cà kê (tr5-Tiếng Việt 1-tập 2).

kề cà: để mất nhiều thì giờ về những việc không quan trọng.

cò kè: có nghĩa là nài thêm bớt từng chút một khi mặc cả.

ghe ngo: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

cà kê: dài dòng hết chuyện này sang chuyện khác.

Trang 29 sách Tiếng Việt 1 – tập 1 có viết: Bé kể cà kê. Bà để bé kể, bà chả chê bé.

3. lúy túy/xúy xóa/quỵ lụy/dĩ hòa vi quý (tr14,15-Tiếng Việt 1-tập 2).

lúy túy/xúy xóa : không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

quỵ lụy: tự hạ mình chịu nhục trước người khác để cầu xin, nhờ vả.

dĩ hòa vi quý: coi sự hòa thuận êm ấm là quý hơn cả, có thể từ đó sinh ra xuê xoa, không phân biệt phải trái (khó hiểu đối với các cháu).

4. bạt ngàn man dã (tr21-Tiếng Việt 1-tập 2).

bạt ngàn: nhiều vô kể và trên một diện rất rộng.

man dã ~man dại~dã man: tàn ác theo lối loại thú, hết sức vô nhân đạo.

(Vậy nên giải thích ý nghĩa của cụm từ này cho các cháu thế nào? Có cần thiết phải đưa vào sách lớp 1 không?).

5. sàm sỡ (tr31-Tiếng Việt 1-tập 2)

sàm sỡ: (tt) đến mức gần như thô bỉ trong quan hệ giao tiếp giữa nam và nữ
thô bỉ: là thô lỗ và bỉ ổi, đáng khinh.

6. chằm chặp/nhắm mắt làm ngơ (tr32-Tiếng Việt 1-tập 2)

chằm chặp~ chằm chằm: (cách nhìn) chăm chú, thẳng và lâu, không chớp mắt, thường có ý dò xét (hành vi thiếu lịch sự)

nhắm mắt làm ngơ: làm như không biết gì cả về một sự việc có thật đang diễn ra trước mắt.( cách tự lừa dối mình)

7. nhăm nhe/lăm le/trăm thứ bà giằn (tr33-Tiếng Việt 1-tập 2)

nhăm nhe~lăm le: có ý định và sẵn sàng, chỉ chờ có cơ hội là làm ngay (việc gì đó với ý đồ không tốt).

trăm thứ bà giằn : nhiều thứ linh tinh, lôi thôi.

8. câng cấc/xấc lấc/tâng hẩng (tr41-Tiếng Việt 1-tập 2).

câng: (tt) trơ lì và vênh váo, tỏ ra bướng bỉnh, trông rất đáng ghét

xấc: (tt) thiếu lễ độ, khinh thường người khác

tâng hẩng: (từ địa phương) chưng hửng

(cách biểu hiện những thái độ của những kẻ vô học)

9. cà rịch cà tàng (tr47-Tiếng Việt 1-tập 2): không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

10. xập xí xập ngầu (tr55-Tiếng Việt 1-tập 2).

- mười bốn mười năm, tiếng Quảng Đông Trung Quốc

- làm nhập nhằng để gian lận (Phương ngữ, Thông tục).

11. xiết nợ/nghiệt ngã (tr70,71-Tiếng Việt 1-tập 2)

xiết nợ: lấy của người khác, bất kể đồng ý hay không, để trừ vào nợ.

nghiệt ngã: khắt khe đến mức gắt gao, khó chịu đựng nổi.

12. Què quặt/quá quắt/ngoa ngoắt/quằn quặt (tr86, 87-Tiếng Việt 1-tập 2)

ngoa ngoắt: ngoa và lắm lời một cách quá quắt, hỗn hào

quằn quặt: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

13. Ghen ghét/bèn bẹt/kèn cựa (tr90,91-Tiếng Việt 1-tập 2)

Ghen ghét : do ghen tị mà sinh ra ghét

kèn cựa : ghen tức với người khác về địa vị, quyền lợi và thường tìm cách dìm họ để giành phần hơn cho mình

(không giáo dục trẻ biết yêu thương chia sẻ mà từ nhỏ đã được biết thế nào là kèn cựa, ghen ghét thì liệu có thành người tử tế được không?)

14. Xoen xoét/toèn toẹt (tr94-Tiếng Việt 1-tập 2)

Xoen xoét: từ gợi tả lối nói luôn mồm (thường là những điều không thành thực) một cách dễ dàng, trơn tru như không biết ngượng.

toèn toẹt : từ mô phỏng tiếng nhổ hoặc tiếng hất nước mạnh, (làm việc gì) một cách dứt khoát, thẳng thắn, không cần lưỡng lự, giữ gìn (hàm ý coi thường người khác, ví dụ : Nói toẹt ra trước mặt).

15. Ăn quỵt/suỵt chó/hàng thịt nguýt hàng cá (tr97-Tiếng Việt 1-tập 2).

Ăn quỵt : cố tình ăn không, lấy không, không chịu trả cái lẽ ra phải trả

hàng thịt nguýt hàng cá: đây là thái độ của những người làm ăn buôn bán kèn cựa nhau, không phù hợp đưa vào trường học để giáo dục trẻ em.

16. Mồm loa mép giải (tr107-Tiếng Việt 1-tập 2) : to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác (hàm ý chê)

17. Hùng hục (tr114-Tiếng Việt 1-tập 2) (làm việc gì) dốc toàn bộ sức ra để làm nhưng thiếu suy nghĩ, tính toán.

18. Quýt làm cam chịu/hứa hươu hứa vượn (tr129,130-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quýt làm cam chịu : ví trường hợp kẻ này gây nên lỗi lầm, sai trái nhưng người khác (thường là người thân thiết, gần gũi) lại phải gánh chịu hậu quả.
hứa hươu hứa vượn: hứa rất nhiều nhưng không thực hiện lời hứa.

19. Oái oăm/quằm quặp/khuýp khuỳm khuỵp (tr132-Tiếng Việt 1-tập 2)

Oái oăm: trái với bình thường một cách kì quặc

quằm quặp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

khuýp khuỳm khuỵp: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông.

Nếu có thì dùng trong hoàn cảnh nào?

20. Huyễn hoặc (tr133-Tiếng Việt 1-tập 2)

huyễn hoặc: làm cho mất sáng suốt, lầm lẫn, tin vào những điều không có thật hoặc có tính chất mê tín.

Ví dụ: tự huyễn hoặc mình/dùng những chuyện kì bí để huyễn hoặc người khác

21. Quyềnh quàng/huyếch hoác (tr136-Tiếng Việt 1-tập 2).

Quyềnh quàng: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

huyếch hoác: không có trong từ điển tiếng Việt phổ thông

22. Câu chuyện “Mụ phù thủy”: làm trẻ bị ám ảnh bởi những điều không có thực (tr15-Tiếng Việt 1-tập 2)

23. Câu chuyện “Vẽ gì khó”: (tr63-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Tạo cho trẻ có tâm lí tự ti, sợ bị chê khi làm những việc thiết thực, có những chuẩn mực cụ thể :

Chó, trâu quanh năm ngày tháng ai chẳng thấy, vẽ sai bị chê ngay.”

- Khuyến khích trẻ làm những việc không có thực, mọi người không biết để không bị góp ý, phê bình:

Ma quỷ đã ai thấy bao giờ, thích thế nào thì vẽ thế ấy, ai dám hoạnh họe

hoạnh họe: bắt bẻ điều này điều nọ để ra oai, làm khó dễ cho người khác


24. Câu chuyện “Quả bứa”: (tr87-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Người lớn hành xử thiếu văn hóa, ngôn từ thô tục, cần phải loại bỏ những hành động và ngôn từ này nếu muốn giáo dục các cháu thành người văn minh lịch sự.

Khi hai cháu tranh nhau quả bứa, cậu Cả phân xử bằng cách bổ quả bứa ra và nói: “Năm, mày thấy quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Dành phần ruột trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu cả vừa ăn vừa bỏ đi.



25. Câu chuyện “Cá gỗ” (tr101-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu yêu lao động để vươn lên khỏi cuộc sống nghèo đói, thiếu thốn mà dạy các cháu thích sự ảo tưởng, tự lừa dối chính bản thân mình.

Bà mẹ dặn các con: “Khi thích ăn hãy nhìn vào cá gỗ, mút mút mấy cái y như đang ăn cá thật vậy.”


- Nội dung không phù hợp với xã hội hiện nay.

26. Câu chuyện “Cháo rìu” (tr129-Tiếng Việt 1-tập 2)

- Không giáo dục các cháu có lòng tự trọng. Sẵn sàng dùng trí khôn vặt để lợi dụng người khác, làm lợi cho bản thân mình.

27. Câu chuyện “An Dương Vương” (tr16-Tiếng Việt 1-tập 3)

- Không giáo dục các cháu tính kiên trì, sáng tạo và tự học hỏi mà hướng các cháu có tư duy dựa dẫm ỉ lại vào người khác để đạt được mục đích của bản thân.

An Dương Vương xây thành Cổ Loa mãi không xong. Sau nhờ Rùa Vàng giúp mới xây được.

Tôi tự hỏi:

- Chúng ta có cần thiết phải đưa những từ ngữ thiếu trong sáng làm vẩn đục tâm hồn thơ ngây của chúng như vậy không?

- Chúng ta có thể mong các con thành người tử tế qua những câu chuyện không có tính giáo dục như vậy không?

- Đọc thông viết thạo để làm gì nếu không hiểu ý nghĩa của điều mình đang đọc hay viết?

- Nắm chắc ngữ pháp để làm gì trong khi đạo đức và nhân cách phát triển sai lệch?

- Nếu rèn luyện kỹ năng vận dụng những kiến thức này vào thực tiễn thì liệu có đảm bảo cho các con phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ... theo khoản 2 Điều 28 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 không?

- Nếu nội dung học như vậy thì liệu có đảm bảo tính kế thừa giữa các cấp học; liệu có bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế theo như khoản 2 Điều 6 của Luật giáo dục sửa đổi bổ sung số 44/2009/QH12 không?

- Nếu cứ tiếp tục được truyền dạy những kiến thức như vậy, liệu các con có thể hình thành và phát triển các phẩm chất theo mục 1 - Điều 9 của Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT:

Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu trách nhiệm về các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm chưa đúng; sẵn sàng nhận lỗi khi làm sai;

Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói dối, không nói sai về người khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực hiện nghiêm túc quy định về học tập; không lấy những gì không phải của mình; biết bảo vệ của công; giúp đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng người lao động; nhường nhịn bạn; để giáo viên có thể đánh giá các con hay không?



Vì tương lai của chính chúng ta, người lớn chúng ta hãy nghiêm túc nhìn lại mình và tự cải cách mình ngay lúc này. Hãy làm gương để chính con em mình noi theo. Hãy tôn trọng và lắng nghe những nguyện vọng của lớp trẻ.

Những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục hãy xem xét lại nội dung của chương trình Giáo dục công nghệ trước khi áp dụng trên diện rộng như hiện nay.

Đừng biến các cháu thành vật thí nghiệm vô giá...trị nữa mà tội nghiệp các cháu. Xin các vị hãy nghĩ lại đi. Làm ơn hãy vì tương lai con em chúng tôi, dù chỉ một chút thôi.

Có thể những ý kiến của tôi chưa chắc đã được các vị quan tâm nhưng nếu không lên tiếng thì tôi thực sự cảm thấy xấu hổ với chính mình, với con tôi.

Nếu không lên tiếng thì có lẽ tôi đã mắc bệnh nan y “có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như câm

Tôi rất mong sớm nhận được câu trả lời của những người quan tâm tới giáo dục.

Xin trân trọng cảm ơn!

Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn riêng của tác giả Trần Hương Giang
..............

MẸ BỐ KHỈ

p/s hôm nay cháu mới học sách Tiếng Việt lớp 1 công nghệ về ạ
Bà mẹ công nhân này đáng phong làm GS. Em ko tin về trình độ ngườu viết. Nói mẹ luôn là chiên gia cho rồi. Còn nội dung em ko dám bàn.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top