Chuyện lính Tây Nam
(Trung Sỹ)
Buổi chiều một ngày trong tuần, nhớ ra trong tất cả những cuốn sách viết về đề tài chiến tranh biên giới Tây Nam, còn thiếu một cuốn cũng rất nổi tiếng: "Chuyện lính Tây Nam", nên em vào Tiki đặt. Trở lại với nhịp điệu của những ngày nghỉ, cũng chắc mẩm sẽ nhận được sớm thôi - tuần sau chứ mấy!
Rất nhanh, sáng hôm sau, đã lại có điện thoại của bên giao hàng "em giao sách cho chị". Cầm trên tay cuốn Hồi ký đậm chất văn chương của một binh sĩ, sau hơn 30 năm im lặng, cảm xúc vẫn háo hức, tò mò, và, trong lòng dâng lên một niềm xúc cảm rất "đặc biệt". "Đặc biệt", bởi vì, có những người thân tham gia hai cuộc chiến tranh, Pháp, Mỹ, và giờ đây, là cuốn Hồi ký được kể lại khi còn là một Trung sỹ Thông tin, đâu đó, có sự gần gũi đến kỳ lạ. Hơn nữa, riêng dòng văn học chiến tranh, với sự kể lại, ghi chép của những người lính, có một sức quyến rũ đến mê mẩn với riêng em. Có lẽ, cái khí phách, cái chính trực, sự bồng bột hay trong sáng của họ, đến từ những cuộc đời, những lát cắt của từng số phận, tạo nên một màu sắc vừa ma mị, vừa kiêu hùng. Chỉ bấy nhiêu thôi, không đủ nói lên sức hấp dẫn, mà còn là vẻ bình thản, không oán trách, không phán xét hay đổ lỗi do chiến tranh, do số phận của họ. Cái sự chấp nhận, dấn thân và dám liều mình bảo vệ nghĩa vụ quốc tế ấy, thoát ra khỏi cái nhỏ nhen, tầm thường mà cuộc đời vốn đã chẳng dễ dàng gì, ngay cả khi, chỉ cần được sống thôi - là đủ!
Văn chương vốn dĩ có một màu sắc nghệ thuật, tuỳ ý người kể. Mang trạng thái thấu cảm hay lột tả sự trần trụi, đều ở tâm thế và góc nhìn của nhân vật Tôi. Những cảm xúc được chưng cất bằng văn chương thuần khiết, ít nhiều đều làm cho người đọc một nỗi khao khát được "chạm", được "sờ", được "nắn, bóp" những hình hài (có thực), mà dưới giọng kể của Tôi, ai cũng đều mang một vẻ huyền bí. Vậy đó, Trung Sỹ (tên thật là Xuân Tùng), đã kể lại một cách trọn vẹn, đủ và vừa vặn với bối cảnh chiến tranh biên giới Tây Nam (giai đoạn 1978-1983). Kể cho hàng ngàn độc giả thôi là thứ yếu, nhưng bác đã kể, kể cho cả những người đã chết, như là họ vẫn bên nhau những buổi tối, sau những giờ hành quân, bập bùng ánh lửa và nghêu ngao cùng với chiếc đàn ghi-ta, hay với những đạo cụ là báng súng, xoong nồi. Kể như là những đồng đội vẫn đâu đó, tề tựu bên dưới, há miệng, ngẩn người để "nuốt" từng từ, từng chữ...
Lời kể này, có gì khác với "Mùa chinh chiến ấy", "Rừng khộp mùa thay lá", hay "Mùa linh cảm" không?
Chuyện lính Tây Nam
(Trung Sỹ)
[...]
Có lẽ, thành công nhất của cuốn Hồi ký này, là sự chân thực và bình thản trong giọng kể, xen lẫn một màu văn chương nhuốm màu “áo lính”. Không một lời trách móc khi chiến tranh đẩy họ vào biển lửa, vào cỗ máy “nghiến xác người”. Nếu như trong “Rừng khộp mùa thay lá”, hay “Mùa chinh chiến ấy”, có rất nhiều đoạn khiến cho độc giả bật khóc, vì những miêu tả quá xúc động, quá “đời”, thì trong
“Chuyện lính Tây Nam”, không ít lần, độc giả sẽ cảm thấy tim mình như nghẹn lại, hoặc cúi mặt rưng rưng vì những rung động rất “con người”…
“Từ hồi chiều, chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho các đại đội cấm lính bắn. Nhưng tới giờ phút thiêng liêng nào ai kiềm chế được xúc cảm con người. Chúng tôi nhớ quê nhà lá dong khói pháo, hy vọng một ngày mai về lại, câu khấn thầm thằng bạn sáng nay tử trận, nỗi lạnh lùng cô đơn của người lính tha hương…Tất cả những ẩn ức dồn nén ấy chợt hộc lên trong tiếng súng, bi tráng và day dứt hơn bất cứ dàn giao hưởng nào. Như con sói của Jack London cũng đã từng tru lên như thế trong đêm lạnh dưới vầng trăng vùng cực. Nghe nỗi nhớ độc thoại với cô đơn, người lính thêm trưởng thành, thêm thương bạn bè cùng cảnh ngộ, dù trong khoảnh khắc giao hoà trời đất xa xôi có nhoi nhói một nỗi tủi thân riêng tư.”
Hoặc những bất lực vì hoàn cảnh chiến tranh, không cho con người ta được lãng mạn, được cứu rỗi tinh thần mình thoát ra khỏi cái vòng vây của súng, của những cái chết rình rập, bất thình lình, không biết đến lúc nào. Dù có thể, vừa trêu nhau cách đây chừng 5’:
…"Sau này, khi được xem bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười
, thấy cậu trai làng đốt cánh diều tuổi thơ lúc chia tay người yêu ra trận, tôi cười nhạt cúi đầu thương nhớ cây đàn cũ. Đàn tan diều cháy đã hoá vàng ngày xưa êm ấm thanh bình. Chết chóc chia ly theo chiến tranh kéo đến, giờ thản nhiên hoá kiếp nốt hai chục phím đồng khát khao lãng mạn. Trận mạc lược bỏ đi phù phiếm, tối giản phận lính trụi trần sinh tử còn vương ít nhiều tiếc nuối thuở thanh bình.”…
Chiến tranh là như vậy, ít nhất trong giọng kể của “Tôi’, mọi thứ đều trần trụi và nghiệt ngã đến cùng cực. Khi đói, khi khát, khi hành quân trong rừng khộp mùa khô, nắng và bụi bám lên áo một màu nhờ nhờ; mặt mũi rộc rạc vì những cơn đói ngủ, chôn vội giấc thèm khi gác súng chờ hành quân…
Cái hay của Trung Sỹ khác với các tác giả khác trong cùng bối cảnh như Nguyễn Vũ Điền, Đoàn Tuấn,…là với chất giọng rất “lính” rất thật nhưng lại xen được cái nghệ thuật của một cậu trai hàng phố (từ chỉ những người lính sinh ra và lớn lên ở những con phố bắt đầu bằng từ Hàng, thuộc Hà Nội). Những liên tưởng, suy ngẫm hay những cảm xúc thanh thuần từ khi là tân binh, cho đến khi đã dạn dày súng đạn, đều cho người đọc những cảm nhận thân quen, gần gũi. Có lúc lại được mở ra với những mỹ cảm vô cùng dịu ngọt.
…"Các đơn vị nổi lửa nấu cơm chiều ven sông. Đôi bờ tối bập bùng những bếp lửa lính kéo dài xa hút trong sương, ngó thấy ấm lòng. Những đống lửa chiều hôm ở bến sông xa khiến tôi nhớ bếp ấm quê nhà. Trong nỗi nhớ có riêng thêm một niềm kiêu hãnh ngấm ngầm của người lính vừa đánh thắng”…
Nhưng không bởi những cảm nhận mang hơi hướng văn học nghệ thuật làm cho độc giả bị cuốn vào những dòng chữ. Mà còn có rất nhiều hình ảnh đẹp đẽ được viết lên trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Đặc biệt, những cái chết đến với người lính hoàn toàn bất ngờ, khiến cho ai đọc cũng đều đau xót. Có lúc, dâng lên niềm căm phẫn đến tột độ, khi tội ác, sự dã man của Pon Pot đã từng làm. Chỉ bằng những từ ngữ, được ghi chép lại mà sục sôi niềm căm hận. Bởi chính sách “vườn không nhà trống” hay những tiểu xảo mà Kh’mer Đỏ đã dùng, làm cho các đồng đội của bác (Trung Sỹ) trở tay không kịp. Chòng chành giấc ngủ vội vàng bị súng đạn làm cho tan tác; những bữa cơm ruồi bu đen như tổ ong rơi “bịch” xuống đất khi quá nặng; những vũng nước đục ngầu bên dưới lấp ló một chiếc đầu lâu trắng bệch…
Dường như tất cả những điều đó, ẩn sâu bên trong sự bình thản, không oán trách, còn là nỗi bất lực khi sự nhỏ bé, có hạn của nhân lực, vật lực, mà không làm sao để thoát ra khỏi những khó khăn mà mỗi ngày đều là một cuộc vật lộn.
Ngay từ trang bìa, một màu ngà đục bi thương, cùng với màu máu nhoè đi như là vệt tay viết trên bức tường của thời gian, đã toát lên sự trần trụi đến tàn nhẫn của chiến tranh, sự mất mát của những đồng đội. Không một lời rên rỉ, một tiếng ai oán khóc than, mà tưởng như mỗi một người “đi”, dù toàn vẹn thân thể hay không, là mất đi một phần trong đời của (bác) Trung Sỹ. Sự mất mát đó, những khi lặng tiếng súng, dội về bên trong một tiếng nói khe khẽ, muốn gọi tên đồng đội, để được thấy họ như đâu đây:
“Tiếng hoét hoét đạn rơi hút gió dựng liền liền mấy bựng khói thưa xám. Thằng Khoát vận tải dính trái cối giữa đỉnh đầu. Phần sọ biến mất, hình hài còn nguyên khúc vai nhám khói trở xuống…Khoảng lặng đen giữa nhịp thoát đầu nòng và tiếng trái phá nổ chỉ vài chục giây, nghe dằng dặc như muốn già thêm nửa đời người.:…
Đọc xong
“Chuyện lính Tây Nam”, không hề có cảm giác nặng nề, u ám. Chỉ thấy một nỗi thương cảm, xót xa vây quanh, và sự căm ghét quân diệt chủng Pon Pot. Man mác trong lòng một câu hỏi: Người viết 119 thiên truyện này, đã làm cách nào để nhớ lại chi tiết từng hình ảnh, của đồng đội đến như vậy? Làm cách nào, để đi qua những ngày khi nhớ về chiến trường xưa ấy, cảm xúc “dữ dội” của nỗi nhớ, của niềm thương vọng về? Của những khi trở lại tìm đồng đội, bặt tin và hàng ngày vẫn đau đáu khôn nguôi…?