[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
(Trọng) Tế đóng quân ở Lạc Đạo樂道, sai người đi do thám, thì Vân đã không còn ở đó. Chỉ thấy hai đạo quân trèo lên lũy, xông vào giết chóc khắp nơi. Người do thám hoảng sợ, chạy về báo gấp. (Trọng) Tế nghe tin biến cố liền đứng dậy, trong lòng đang rối loạn, không biết phải xử trí thế nào, chúng thuộc hạ cũng theo đó mà tản mát khắp nơi. Nhìn trước ngó sau, không còn cách nào khác, ngửa mặt lên trời kêu lên:
- Chỉ vì trời không phù hộ nhà vương, nên mới đến nông nỗi này!
Thế là ông dẫn theo vài người tùy tùng, vượt qua lũy mà bỏ chạy. Tối đó, họ đến Ngọc Xá玉舍, thì Dương Vân đuổi kịp. Đêm ấy, chú cháu bàn bạc, ngủ trọ trong nhà dân. [Ngọc Xá, thời Lê, là tên một xã thuộc tổng Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ngọc Xá, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).] Dương Vân xin trước hết đến Quế Ổ để yết kiến vương:
"Vương từ trước vẫn tin cậy và trọng dụng chú. Gặp chú, người ắt sẽ mừng. Nơi đây toàn là võ nhân; có chú là văn thần, làm mưu sĩ, có sự chỉ huy, chắc chắn họ sẽ nghe theo. Vì vậy, chúng ta có thể tập hợp lại quân lính tan tác, để mưu tính lại cuộc khởi binh. Không đầy mười ngày, thế lực sẽ phục hồi trở lại, có thể đạt được chí nguyện."
(Trọng) Tế nói:
- Không thể được. Mấy hôm trước vương hạ lệnh triệu tập, ta đã từ chối không đi. Nay bị vây khốn thua trận mà đến, lấy lời nào để cáo với thiên hạ đây? Còn mặt mũi nào nữa? Người nhà ở Quế Ổ sẽ nói ta thế nào? Ta và Nhưỡng công cùng công cùng việc, rất hợp nhau. Nay nghe nói y đang chiếm giữ Hàm Giang, chiêu dụ binh lính ở An Quảng, quân số hợp lại mấy vạn, thuyền bè che kín sông. Nhượng công lại là tướng giỏi cầm quân, ta nên nhanh chóng đến Hàm Giang, cùng y bàn kế trở lại, rồi thỉnh cầu vua dời giá đến đây, Quế Ổ sẽ không thể không hộ giá đến hội hợp. Sau đó, sai y (Nhưỡng) từ đường phía Bắc khởi binh, cháu (Vân) dẫn một cánh quân cùng với y. Nhưỡng công sẽ từ đường phía Đông khởi binh. Ta sẽ theo vua đốc chiến. Hẹn ngày cùng tiến đánh, việc lớn có thể thành, không như lần trước quân ta đơn độc bị giặc cướp mất.
Dương Vân nói:
- Rất tốt! Nhưng từ Ngọc Xá đến Hàm Giang, đường khá xa xôi. Vội vã chỉ năm sáu người, lếch thếch mà đến, dáng vẻ thê lương, trông không đẹp mắt. Hơn nữa, vạn nhất có biến cố, dọc đường tay không làm sao chống đỡ? Cháu xin mộ năm sáu mươi chiến sĩ, khí giới tinh nhuệ, đánh trống mà đi, sáng xuất phát tối đến nơi. Nhượng công thấy vậy cũng sẽ không coi thường cháu.
(Trọng) Tế nói:
- Cũng tốt. Cháu có thể gấp rút đi chiêu mộ, hẹn đến tối phải đến.
Không ngờ cuộc nói chuyện của họ, từng lời bị dân làng nghe lén qua vách tường, biết rõ mười mươi. Đến nửa đêm, họ kể hết mọi chuyện cho lý trưởng của thôn. Đến sáng, khi Vân đã đi, vị lý trưởng kia dẫn theo mấy chục đồ đệ, mỗi người cầm vũ khí, khiêng một cái cũi đến, nói với (Trọng) Tế:
- Xin quan nhân vào đây. Quân của Tuyển Quận Công選郡公 [Hoàng Viết] Tuyển đã ở gần rồi, chúng tôi sẽ hộ tống về kinh, yết kiến Bằng Trung [Nguyễn Chỉnh] cũng tốt đấy ạ.
(Trọng) Tế giả vờ kinh ngạc nói:
- Chư vị nhầm rồi! Tôi là học trò Hải Dương, thuê nhà ở kinh đô, ngẫu nhiên gặp binh lửa, nên mới trở về phía Đông. Có việc gì mà phải yết kiến quý nhân của triều đình?
Lý trưởng cười nói:
- Quan nhân đừng hòng dùng lời lẽ mà lừa người! Trước đây ngài từng tung hoành Thăng Long, hô phong hoán vũ ở Kinh Bắc, tự cho mình là người đứng đầu đất nước phương Nam. Một học trò Hải Dương làm sao có được cái khí thế đó? Bây giờ, ngài chỉ cần mau chóng vào trong cái cũi này, để chúng tôi khiêng đi sớm. Xin đừng nói nhiều, chỉ phí công vô ích mà thôi.
Lập tức, họ đưa (Trọng) Tế vào cũi, giải đến quân của Tuyển. Dân chúng tụ tập đứng chật hai bên đường xem, có người còn reo lên:
- Ông tiến sĩ sao lại đến nông nỗi này! Vẫn còn tiếc tên giặc vô lại kia sao lại thoát lưới được. (Ý nói Dương Vân).
Trước đó, Tuyển cùng các tướng khác ra quân, trực tiếp nhận lệnh răn đe của Chỉnh. Đến lúc này, quân của Tế đã rút về, mọi việc đều như đã liệu trước. Các quan triều đình đến chúc mừng Chỉnh về chiến thắng, ai nấy đều tấm tắc khen ngợi và thán phục. Riêng Trần Công Xán nói:
- Không phải công (tức Chỉnh) liệu địch như thần, mà chỉ là do sự sai lầm vô mưu của Tế mà thôi. Đồng loại bị tổn thương, lại càng đáng thương xót!
“Vô mưu” ở đây chỉ việc Tế ban bố hịch văn. Vua ra lệnh luận tội Tế để xử theo pháp luật. Chỉnh tấu:
- Xin lôi hắn ra cửa Bắc chém đi, chết là đủ rồi, không cần làm bẩn giấy mực làm gì.
Duy Phiên nói:
- Giặc khác thì thôi, chứ như Trọng Tế này vốn là người đọc sách đậu khoa, xuất thân là quan triều đình, mà lại dám làm phản nghịch, đây thực sự là tội nhân trong luân thường đạo lý, sao có thể chết một cách dễ dàng như vậy? Nên tuân theo thánh chỉ, rõ ràng ghi lại tội ác lớn, để người khác lấy Tế làm gương răn, thì những kẻ bất hảo sẽ bị ngăn chặn.
Ngay lập tức, ông cầm bút thảo luận rồi dâng lên rằng:
“Với tội thần phản vua, không thể dung thứ giữa trời đất, tên hắn là giặc, đáng để người trong nước cùng diệt trừ. Nên cách bỏ chức Tiến sĩ, dâng tù đến Thái Học, để rõ ràng đoạn tuyệt khỏi giới sĩ phu, không để làm ô nhơ dòng Nho.”
Chiếu rằng: “Được.”
Ngay lập tức, vua ra lệnh cho [Hoàng Viết] Tuyển và các tướng khác mặc binh phục áp giải Tế đến cổng Thái Học太學門 [Cổng Thái Học trong Kinh thành Thăng Long thời Lê không phải là một cổng riêng biệt mà là tên gọi của khu vực bên trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cụ thể là khu vực phía sau Văn Miếu và xung quanh Quốc Tử Giám. Khu vực này bao gồm các công trình như Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, các tòa nhà để học tập và thờ cúng, và đặc biệt là khu vực dành cho các sĩ tử theo học tại Quốc Tử Giám] để xét hỏi, sau đó đem chém ở trường thi Võ武試場 [trong kinh thành Thăng Long thời Lê, trường thi võ (nơi tổ chức các khoa thi võ) được gọi là Giảng Võ đường, nằm ở phía tây kinh thành, khu vực nay thuộc phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình. Đây là một trung tâm luyện tập, khảo hạch và diễn tập quân sự quan trọng, nơi các sĩ tử thi võ và quân lính được huấn luyện. Giảng Võ đường là một khu vực rộng lớn, bao gồm cả khu vực Giảng Võ, Kim Mã, và Ngọc Khánh ngày nay. Các di tích và địa danh liên quan đến trường thi võ như Trạ Bảng, Trảng trên, Trảng dưới cũng nằm trong khu vực này. Các cuộc thi võ và các hoạt động quân sự của triều đình thường được tổ chức tại đây]. Vua gia phong công trạng cho Tuyển và các tướng khác, đồng thời ban thưởng tiền bạc cho binh sĩ tùy theo công trạng. Thế là, các quan triều đình nghị tấu xin tấn phong Chỉnh tước một chữ Công, mở phủ Vũ Thành Quân武城軍, đúc ấn Vũ Thành Quân, viện Xu Mật cũng thuộc về đó. Chỉnh nhân đó tấu xin lấy con trai mình là Hữu Du有攸 làm doanh tướng, lãnh đạo quân đội của mình, Vua đã đồng ý. Từ đó, mọi việc quân vụ đều do Hữu Du điều độ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chỉnh mở phủ ở phía đông dinh thự của mình, xây dựng những tòa nhà cao đẹp, vô cùng xa hoa, và cho Hữu Du ở đó, bắt chước theo câu chuyện thế tử Trịnh Vương ra phủ riêng. Bộ hạ của Chỉnh nương thế mà lộng hành phi pháp, bất kể việc gì của nha môn nào, đều ra văn thư, đóng dấu ấn Vũ Thành Quân, không ai dám trái lời. Triều thần không còn kỷ cương phép tắc, lòng dân ly tán, những người có kiến thức biết chắc chắn sẽ loạn, hoặc có người viện cớ bệnh tật xin từ quan, tìm nơi non nước yên tĩnh để tránh họa. Chỉnh cũng biết mình không được lòng công luận, muốn mượn con đường khoa cử chính thống để thu thập nhân tài, mua chuộc lòng dân trong nước, và củng cố kế sách hậu sự. Vì vậy, ông bàn bạc với Bình chương Duy Phiên, tấu xin phỏng theo phép tuyển sĩ mười khoa của triều Tống, đặc biệt mở chế khoa, ra lệnh cho các quan văn từ tam phẩm trở lên, mỗi người tiến cử những người mình biết, triệu đến điện đình để đối sách. Thế là, các danh sĩ trong cả nước, không ai là không hết lòng đáp ứng, những người đã làm quan cũng đều nỗ lực ứng triệu. Đó là vào mùa xuân tháng Giêng năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống nguyên niên昭統元年 (1787).
Khi đó, có Hiến Phó Ngô Tương Đào吳蔣燾, vì triều đình tiến cử người hiền lương phương chính, đã dâng biểu kiên quyết từ chối rằng:
“Nay kế thừa sự suy đồi sau loạn lạc, việc thiên hạ đáng than thở thì làm sao kể xiết? Há chỉ một đau, hai lệ, ba thở dài là đủ sao? Không có tài năng xuất chúng thì ai có thể gánh vác vận nước? Vả lại, kỳ tài kỳ ngộ há đều từ khoa cử mà ra? Nếu đời có người tài, Bệ hạ hãy lấy lễ mà vời đến, như mời Y Doãn hay tìm Khương Tử Nha, may ra mới có thể chiêu mộ được! Đến như thần, vinh dự giữ một chức quan, còn e không kham nổi, làm sao dám làm ô nhơ thịnh cử này, để làm tổn hại sự sáng suốt của thánh triều trong việc cất nhắc người tài ư!”
Duy Phiên nghe vậy nói:
- Sao cứ phải là người khác thường mới được?
Đào (Ngô Tương Đào) nói riêng với Công Xán:
- Thế nào là ‘Sao cứ phải là người khác thường mới được?’ Quân địch ở ngoài, chẳng mấy chốc sẽ có báo động, bỏ qua việc này không lo liệu, lại muốn mở khoa thi tuyển sĩ, hư trương thanh thế về chế độ thái bình, e rằng khi quân phương Nam [Tây Sơn] trở lại, không biết sẽ dùng sách lược gì đối phó, đây mới chính là nỗi lo trước mắt.
Lúc bấy giờ, những người đối sách trong kỳ thi Đình có hơn 200 người. Chỉnh muốn vơ vét nhân tài khắp thiên hạ, nhưng khi niêm yết danh sách trúng tuyển, chỉ có hai cái tên là Trần Bá Lãm陳伯覽 và Nguyễn Gia Cát阮嘉吉. Chỉnh không hài lòng, nên vào mùa đông năm đó lại xin thi lại ở Ngũ Long Lâu五龍樓, lấy thêm 15 người đỗ Tiến sĩ, gồm Bùi Dương Lịch裴楊櫪 và những người khác. Nguyễn Khuê阮奎, người thân tín của Trịnh, đứng thứ tư, trong và ngoài triều đình khá nhiều lời dị nghị về việc ông ta có ý thiên vị.
Lại nói, Chỉnh lúc mới từ Nghệ An về triều, được vua trọng dụng, các quan tôn thần, cố tướng không ai sánh bằng. Vì thế, hễ động là đạt ý nguyện, không còn bận tâm đến việc biên cương địch quốc. Lúc bấy giờ, những kẻ nắm binh quyền ở bên ngoài đối địch với Chỉnh, phía Tây có Thạc quận, phía Đông có Nhưõng quận. Chỉnh đều xem thường họ. Mỗi khi nói chuyện với người khác, Chỉnh thường nói:
- Nhưỡng tuy xuất thân từ cửa tướng, nhưng người đó thô lỗ, không am hiểu mưu lược tướng tài. Xưa kia, khi còn ở dưới trướng Tiên Công, hắn từng coi ta như anh. Giữa đường, thế cuộc xoay vần, thành ra bất hòa. Nhưỡng nhất định không dám tranh giành với ta, ta cũng không nỡ lấy Nhưỡng, cứ tạm gạt hắn ra ngoài tính toán. Còn như Thạc là võ tướng, hắn chỉ giỏi đánh nhau, chứ ứng biến tùy cơ thì không phải sở trường của hắn. Năm nay hắn đã già yếu, cũng không đáng sợ.
Có người thân tín của Chỉnh là Lệ Vũ麗武 từ Sơn Tây đến, nói với Chỉnh rằng:
- Thạc quận đi Hưng Hóa, chiêu dụ phiên thần, đúc vũ khí, chiêu mộ binh lính, nay đã trở về trấn. Quân lính của hắn có mấy vạn, đã truyền hịch cho các thổ mục Sơn Tây, lệnh cho mỗi người dẫn quân lính của mình theo, hẹn ngày tiến kinh. Lại nghe nói hắn đã sai người mang mật biểu về trình, Tướng công có biết không?
Chỉnh đáp:
- Ta biết rồi! Biểu của Thạc tự kể rằng: 'Trước đây, do sai lầm mà mất quân, sau lại bảo vệ không chu toàn, quá được khoan dung, lại được ban cho trấn tiết, khiến người ta có thể sửa chữa lỗi lầm trước. Nay cẩn thận kính cẩn hướng về triều đình, lại sợ ý này không rõ ràng, kẻ không cùng phe với ta sẽ được dịp chỉ trích, gán cho ác danh, cho nên còn do dự không dám vội vàng nhậm chức.' Vua đã đưa biểu này cho ta xem, ta nay thầm đoán ý của Thạc, hẳn là không dám chống đối, chỉ muốn giảng hòa. Ở ngoài lâu, tình nghĩa sẽ càng ngày càng xa cách, chỉ sợ trên kia thấy ghét bỏ. Nếu đột ngột đến thì sợ ta ở trong triều, họa phúc cũng chưa thể đoán trước được. Cho nên hắn trước tiên dùng cách này để thăm dò ý triều đình vậy. Ta muốn dâng tấu xin hạ chỉ triệu hắn về, nhân tiện viết thư cho hắn để bày tỏ ý. Nhưng chuyến đi này vẫn khó tìm người thích hợp, ngươi đã rõ tình hình, nên cùng với trung sứ mang thư đi cùng.
Lệ Vũ thưa:
- Xin vâng lệnh.
Chỉnh bèn viết thư gửi cho Thạc, thư rằng:
"Tướng quân đi thượng du, lo liệu việc biên cương, vượt suối sâu, đi qua chỗ hiểm, lặn lội gian nan vất vả. Nếu quả thực muốn chuyên chế một phương, làm chỗ dựa vững chắc cho biên thùy phía Tây, ta xin được tấu trình lên trên, để tướng quân tùy ý hành động. Nếu vì đã lâu ở quân đội, sức lực đã hao mòn, muốn từ bỏ việc quân, ta há dám không giúp đỡ tướng quân, sẽ chọn cho tướng quân một nơi tốt để an hưởng, bảo toàn công danh, làm một lão tướng của triều đại trước. Bậc trượng phu ở đời, chỉ có đi hay ở, hai việc này không thể không chọn sớm, tướng quân hãy suy tính cho kỹ!
Thạc lúc đầu nghe chiếu chỉ triệu về, liền xuống điện bái lạy nhận lệnh, hạ lệnh cho các tướng tá kiểm điểm binh mã để chờ ngày khởi hành. Đến khi mở thư của Chỉnh ra, Thạc liền nổi giận đùng đùng, nói với Lệ Vũ rằng:
- Ngươi là người riêng của Chỉnh ư?
Trung sứ nói:
- Bức thư đó Bằng Công đã dâng lên, đã được vua xem qua, sứ thần là do nhà vua sai đi, không phải người riêng đâu.
Thạc nói:
- Tục ngữ có câu: 'Bê con mới sinh không sợ hổ', chính là nói Chỉnh đó. Ta đây là kẻ võ biền, không biết giả dối, mọi việc đều thẳng thắn hành động, hễ có điều gì không vừa ý, chỉ có gươm giáo mà thôi! Xin các vị hãy nói với Chỉnh rằng, hắn ban đầu phản lại quốc gia tôn kính để viện trợ cho người Tây Sơn, sau lại phản bội Tây Sơn để chiếm cứ bản châu, rồi khi không được Tây Sơn dung nạp, cũng không được bản châu chứa chấp, lúc đó mới đầu hàng Hoàng đế. Các văn thần ở Nam Nha南衙 [ý nói triều đình] đã bị Chỉnh lừa gạt, khiến hắn có thể mượn mệnh lệnh của Thiên tử để sai khiến người trong nước. Chỉ có Trọng Tế dám chống đối hắn, nhưng lại không rõ đại nghĩa, nên Chỉnh mới có cớ để thao túng lời lẽ. Nhưỡng Quận lại có ân oán cũ với Chỉnh, đành phải bay lượn ở sông Hàm Giang, không dám vượt một bước để tiến về Kinh Kỳ hỏi tội kẻ phản tặc. Hiện nay, kẻ thề sẽ dẹp yên Chỉnh làm trách nhiệm của mình, chỉ có một mình ta. Các vị hãy về nói với Chỉnh rằng: 'Hắn quen dùng mưu mô xảo quyệt để lừa bịp người trong nước, làm sao lừa bịp được ta! Ta nay vâng chiếu chỉ về triều, để hỏi tội Chỉnh. Nếu Chỉnh có thể giao chiến với ta, hãy ra khỏi thành vài dặm để tiện đối đầu, không làm kinh động cung khuyết; bằng không thì hãy tự trói mình chờ tội ngoài cửa Đại Hưng, tự khắc triều đình sẽ có xử lý'".
Bởi vậy, Thạc Quận liền cử Trung sứ trở về tâu mệnh, trước đó đã trình Biểu xuất sư (biểu xin ra quân), đại ý rằng:
"Thần trước đây vâng mệnh trấn giữ, đúng lúc Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đến chầu, Bệ hạ vì Chỉnh có công phò tá, giao phó chính sự quốc gia. Kẻ tiểu nhân đắc chí, dần dần nuôi mưu đồ khác. Thần ngu dốt cho rằng Chỉnh không phải thuần thần, mà là kẻ quốc tặc. Quan sát hành vi của hắn, hầu như là quỷ mị; xét cái lòng dạ độc ác của hắn, còn hơn cả hổ lang. Kính mong Thánh minh soi xét thấu đáo, cho phép thần khống chế hắn từ ban đầu, không để hắn làm điều ác đến cùng, đó thực sự là phúc lớn vô biên cho xã tắc."
Ngay lập tức, Thạc Quận chuyển hịch đến các lộ Quảng Quốc廣國 [các lộ người dân tộc ít người ở Hưng Hóa và các vùng xa hơn kinh thành], tố cáo tội ác của Chỉnh, xem hắn là kẻ tặc thần bên cạnh vua, định bụng sẽ tru diệt Chỉnh để làm trong sạch triều đình.
Chỉnh nghe tin Thạc Quận dẫn quân đến, giận dữ nói:
- Lão tặc này đáng giết, không cần làm người có công danh trên đời, mà phải theo Trọng Tế làm quỷ phản loạn.
Liền vào tâu, xin lệnh cho bộ tướng Lê Duật黎遹 thống lĩnh quân ra chống cự, còn mình thì tự đốc đại quân đón đánh. Lê Duật đến Đại Phùng大馮 [nay thuộc thôn Đại Phùng, xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng], quân của Thạc Quận vừa tới, vừa giao chiến một trận, quân của Lê Duật không thể chống đỡ nổi, bỏ giáp kéo quân mà chạy. Con của Thạc Quận là Gia Vũ嘉武 xin thừa thắng truy kích, để quân hậu của Chỉnh kinh sợ, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn. Thạc Quận không nghe, nói:
- Quân lệnh ban ra buổi sáng, giữa trưa phải đến Đại Phùng để dùng bữa. Chư quân, hãy nghỉ ngơi và ăn cơm cho no. Mà giặc đã đột ngột đến, ta chỉ vẫy cờ một cái đã đẩy lui được chúng, vậy thì có thể truyền lệnh dùng bữa được rồi. Nếu lại thúc trống tiến lên, đến tối mới đến thành, địch tất sẽ liều chết chiến đấu, quân ta đói mệt, làm sao mà ứng phó? Binh pháp nói: 'Vội vã trăm dặm để giành lợi, sẽ làm cho tướng soái vấp ngã, đó là con đường nguy hiểm.' Hơn nữa, hãy cho binh sĩ nghỉ ngơi dùng bữa, ăn xong rồi thúc trống tiến lên, gặp giặc liền chiến đấu, ăn no khí thế hăng hái, lo gì không thắng? Huống hồ, ta bắt Chỉnh dễ như bắt đứa trẻ con, sao phải vội dùng sức người, mà làm cho quân lệnh không đáng tin?
Thế là, Thạc Quận hạ lệnh đánh chiêng ngừng tiến quân. Lê Duật chạy đến nửa đường, ngoảnh lại, biết Thạc Quận không truy kích, lại sợ Chỉnh đến, liền thu quân lập trận, rồi tiến lên khiêu chiến lại. Quân Thạc Quận đang ngồi ăn, đội ngũ tan rã, thấy quân Lê Duật xông đến giết, không kịp ứng phó, kinh hoàng tan tác tứ phía. Thạc Quận đang ngồi ở đình Đại Phùng, vội vàng lên voi, dưới tay chỉ có mười người, hộ vệ voi ra sức chiến đấu, Thạc Quận trên bành ném giáo, giết vài trăm quân Lê Duật, Lê Duật không dám đến gần. Một lát sau, thấy Chỉnh đốc đại quân nối tiếp đến, Lê Duật liền vẫy quân vây quanh đội của Thạc Quận, dùng sào dài đâm chọc. Thạc Quận dùng móc điều khiển voi lui vào trong cát, xuống voi lên ngựa, vung đao chém loạn xạ, đi lại như bay. Gia Vũ ở phía sau trận, thúc ngựa hô lớn, xông lên phấn kích, giết và làm bị thương rất nhiều. Thiên tướng Hoàng Đăng黃登 tập hợp được vài trăm tản quân, quay lại hợp chiến. Chỉnh nhìn thấy, sợ Thạc Quận được viện trợ, liền phi ngựa bỏ chạy, vội vàng vẫy quân Thiết Đột (đột kích) tứ phía bao vây, bắn vào ngựa của Thạc Quận. Ngựa bị vấp, Thạc Quận bị Lê Duật bắt sống, Vũ Đăng biết không thể chống đỡ, cùng với Thượng Hiệp rút lui.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760348742065.png


Thạc Quận đánh nhau với quân của Lê Duật
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong trận chiến này, Thạc Quận đích thân dẫn đầu phiên thần Hưng Hóa và thổ mục Sơn Tây, tập hợp đại quân của hai trấn, giáp trụ sắc bén, sau một trận bại trận, tất cả đều bị bắt sống, không còn sót lại một ai, và uy thế của Chỉnh chấn động thiên hạ. Tin thắng trận truyền về, các quan triều thần vào chúc mừng. Hoàng đế miễn cưỡng ra ngoài, riêng nói với Ngô Vi Dực吳為翼 rằng:
- Thạc Quận không phải là phản thần của Trẫm, khi Thạc Quận còn sống, kẻ gian hùng vẫn còn phải kiêng dè. Không may chết đi, Trẫm rất đau xót! Có gì đáng chúc mừng chứ?
Sau đó, Chỉnh rút quân đưa Thạc Quận về kinh, tâu rằng đáng chém. Hoàng đế dụ rằng:
"Thạc Quận về nghĩa thì nhiều mà về lý thì ít, nên danh tiếng và thực tế không xứng, hành vi khó rõ ràng. Nay chiến bại bị bắt, theo pháp lẽ phải chết, nhưng nghĩ lại khi ông ta chưa đến, Trọng Tế đã thả quân vây bức kinh thành, Trẫm cô lập trong điện, suýt chút nữa có biến cố khôn lường. Nếu không có Thạc Quận, làm sao có ngày nay? Chuẩn theo cổ lệ 'bát nghị' [tám điều nghị tội, một phép tắc trong luật cổ cho phép xem xét giảm tội cho người có công trạng, địa vị], dẫu cùng tội chết nhưng có thể có sự khác biệt, lòng Trẫm thực sự không nỡ, có thể sửa lại nghị án để giữ lại ân điển truy điệu."
Chỉnh và Thạc Quận vốn không có thù oán cũ, một trận mà thắng, cơn giận cũng nguôi, lại nghe lời dụ của vua, liền xin xuống để phúc nghị (xem xét lại). Ngự sử Ngô Trọng Khuê吳仲圭 sửa lại nghị án có đoạn rằng:
"Độc chiếm binh quyền, kháng cự mệnh lệnh, tội đáng phải hình phạt. Lấy công chuộc tội, chết cũng là có lý."
Thế là, Hoàng đế ra lệnh tại ngoài cửa Tây thành, ban cho Thạc Quận thuốc độc để tự sát. Thạc Quận hai lần vái lạy, uống thuốc rồi qua đời.
Khi Thạc Quận mới bị bắt, sĩ dân trong kinh thành tụ tập lại xem, Thạc Quận nói:
- Cha con nhà cố lão tướng Hoàng Phùng Cơ黃馮基, sáu người chết vì việc nước, phải trái tự có công luận, thành bại là do trời! Ta không thể giết được Chỉnh, nhưng Tây Sơn tất sẽ giết hắn, thiên đạo có luân hồi, tiếc là ta không được thấy thôi.
Sóc Quận chết, được an táng tại Sơn Tây, quân dân đều rơi lệ vì ông.


1760348809953.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói về Chỉnh, kể từ khi chuyên quyền nắm giữ việc nước, mọi quyền hành đều do mình ban ra, ngày càng lộng hành thái quá, lòng dân ly tán, các quan văn võ không ai không rời rã. Người công bằng giữ phép thì bị tướng sĩ của đạo Vũ Thành làm cho khó xử; người thẳng thắn dám nói thì thường bị Chỉnh làm hại, tai họa bất ngờ ập đến, nên thường lấy việc nói thẳng làm điều cấm kỵ, hoặc viện cớ bệnh tật xin trả ấn từ quan.
Cường hào các làng xã ở khắp nơi tụ tập lại, hùa nhau cướp bóc, ngoài thành vài dặm đều trở thành hang ổ của bọn trộm cướp. Vua vô cùng lo lắng, bèn triệu cố Tham tụng Bùi Huy Bích裴輝璧 vào hỏi việc thiên hạ. Bích sợ Chỉnh, không nói gì cả, chỉ tạ rằng:
- Thần may mắn có được một chức vị, nhưng tài kinh tế [kinh bang tế thế] không có, cho nên Trịnh Vương đã đề bạt thần vào triều, quân lính kiêu ngạo dân chúng oán hận, kẻ địch xâm lấn, thần không có một kế sách nào để cứu vãn, tội làm lỡ việc nước, thực không thể trốn tránh. Nay thiên hạ đã thống nhất, chính sự ban đầu thanh minh, cần phải tìm một người khác, thần nào dám lại làm ô uế triều đình, để lại làm lỡ việc thiên hạ? Kính xin được về quê.
Sau khi lui ra, Bích nói với người thân cận rằng:
- Thiên hạ loạn rồi! Ta cũng từ đây mà đi thôi.
Rồi dắt gia quyến đi về phía đông. Đốc đồng Nghệ An Phạm Tòng Khiêm范捴謙 cũng bỏ quan mà đi, đến thượng nguồn Thanh Chương mưu việc dấy binh cần vương, ban hịch kể tội Chỉnh, nhưng việc chưa thành thì mất. Những bậc sĩ phu đang giữ chức vụ, lại có một hạng người coi việc dẹp loạn phò suy (giúp đỡ triều đại đang suy yếu) là trách nhiệm của mình, đã cùng nhau tụ tập những người cùng chí hướng, chiêu mộ nghĩa quân, các hào kiệt bốn phương nhận chiếu thư đến ứng nghĩa, ở khắp nơi đều có.
Đốc trấn Cao Bằng高平 Lưu Tiệp劉睫 nhận mật chỉ của Vương (chúa Trịnh), Đốc đồng Nguyễn Hàn阮翰 nhận mật chỉ của Đế (vua Lê), mỗi người tự dụ các quan lại, thổ mục ở trấn mình, sai họ dốc sức, cấp binh phù, chế tạo khí giới, để đợi khi cần điều động. Một trấn chia thành hai phe, người dưới quyền Đốc trấn thì không biết đến Đốc đồng; người nghe theo Đốc đồng thì không biết đến Đốc trấn. Hai người mỗi người ở một doanh trại riêng, không chịu họp công, tiếng là đồng liêu, nhưng thực chất là đối địch, Lưu Tiệp ngầm sai thuộc hạ giả vờ phản loạn, dẫn quân về với Hàn, lại sai người cầu hòa để chiêu dụ kẻ phản loạn, Hàn không hề hay biết, đã tiếp nhận những thuộc hạ giả hàng mà từ chối lời cầu hòa của Tiệp, Tiệp bèn dẫn quân vây đánh doanh trại của Hàn, kẻ phản loạn nội ứng, quân Hàn đại loạn, vội vàng bỏ chạy. Tiệp đuổi giết, vợ con Hàn ở công đường đều bị hại. Thế là Cao Bằng đại loạn, các thổ mục đều tự giữ đất đai riêng, chỉnh đốn binh mã đánh lẫn nhau, Lưu Tiệp cũng không thể khống chế được.
Hà Quốc Ký何國驥 ở Lạng Sơn諒山, Triệu Văn Khương趙文姜ở Thái Nguyên太原, Hoàng Văn Tương黃文相 ở Tuyên Quang宣光, Đinh Công Hồ丁公湖 ở Hưng Hóa興化, cùng các tù trưởng ở Phù Thường扶床, Tây Lĩnh西嶺, cũng đều noi theo gương xấu, ở khắp nơi cản trở quân lính, liên tục chống lại mệnh lệnh triều đình, quan trấn thủ có người bị họ đuổi đi, trong vòng bốn phương không còn nơi nào yên ổn nữa.

Đúng là:
不怕烏狐分赤黑,卻驚龍虎鬥玄黃。
Bất phạ ô Hồ phân xích hắc, khước kinh Long Hổ đấu huyền hoàng.
[Chẳng sợ hồ ly đen đỏ phân tranh, Chỉ kinh rồng hổ đấu đến đất trời tối tăm].
Chưa biết đại thế sẽ về đâu, xin xem hồi sau sẽ rõ.


1760348863915.png

Lưu Tiệp và Nguyễn Hàn đánh lẫn nhau, vùng cao đại loạn
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ CHÍN
武文任提兵掠境 ,陳公燦奉使議疆.
Võ Văn Nhậm đề binh lược cảnh, Trần Công Xán phụng sứ nghị cương.
[Võ Văn Nhậm đem quân cướp phá biên cương, Trần Công Xán vâng mệnh đi sứ bàn định bờ cõi]
Lại nói về lúc Cao Bằng bắt đầu xảy ra binh biến, Lưu Tiệp劉琨 [nguyên tác in nhầm là Lưu Côn] và Nguyễn Hàn cùng gửi thư hỏa tốc về kinh báo tin biến loạn. Tiệp tố Hàn làm phản, Hàn tố Tiệp làm phản, nói rằng hiện đang tập hợp binh lính truy bắt, trong vòng mười ngày sẽ bắt được kẻ tội đồ. Bình chương Duy Phiên維藩 xem thư cả kinh nói:
- Hai bề tôi đều là quan thanh liêm trong triều, ra gánh vác trọng trách biên cương, đáng lẽ phải vì công quên tư, sao không hòa thuận với nhau, lại đi khởi xướng chuyện làm loạn, cùng loại mà làm hại lẫn nhau? Đây cũng là một biến cố lớn! Thật quái gở, đáng ngạc nhiên!
Cùng lúc đó, các trấn thần ở bốn lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng lần lượt gửi thư hỏa tốc báo động. Vua cùng Bằng công Chỉnh bàn bạc, Chỉnh đối đáp rằng:
- Các trấn đánh nhau, vốn cũng là thói cũ của các tù trưởng biên cương, chỉ cần hạ một tờ thư, thông báo họa phúc, liệu chắc chúng sẽ tuân theo, yên ổn chúng cũng không khó. Riêng biến loạn ở Cao Bằng, gây ác lại xuất phát từ trấn thần, các tù trưởng biên cương không đáng trách. Tội tự ý điều động binh lính, tự ý giết chóc, triều đình tự có cách xử lý, xin đưa ra công luận.
Đồng bình chương Trương Đăng Quỹ張登揆, Tham tri Nguyễn Diệu阮耀 nói:
- Xin hãy mau chóng chọn người khác làm Đốc trấn, Đốc đồng, và quan lại có năng lực để thay thế việc trấn giữ, đồng thời hạ chỉ cho Tiệp và Hàn về triều, may ra loạn mới có thể dẹp yên.
Duy Phiên nói:
- Đúng vậy! Gốc rễ chằng chịt, phải dùng khí cụ sắc bén (ám chỉ những vấn đề khó khăn, phức tạp phải dùng người tài giỏi, sắc sảo để giải quyết), những trấn thần biên cương đó, không phải dễ sai khiến.
Đồng bình chương Công Xán nói:
- Ngày xưa khi Cao Bằng có loạn, tiên thần Nghĩa Thành Vương 義成王vâng mệnh đi chiêu phủ, ở trấn bảy năm, dân tộc man di đều quy phục. Sau khi ông qua đời, địa phương vì thế mà bãi chợ, lập đền thờ phụng ông. Nay Thượng thư Bộ Binh Nguyễn Đình Tú阮廷傃 là con cháu của ông, người ông ấy rộng lượng, có phép tắc, xử lý việc cũng nhanh nhẹn, xin hãy mau chóng dùng ông ấy.
Thế là lấy Đình Tú làm Đốc trấn Cao Bằng, cử Tiến triều Nguyễn Huy Túc阮輝宿 làm Phó. Mệnh lệnh xuống, thúc giục quan đến nhậm chức. Tú nói:
- Cha thần trấn giữ Cao Bằng, mất ở Cao Bằng, thần cũng sinh ra ở đây, nay lại trở lại, việc có thể biết trước rồi. Xin cho mười ngày phép, để lo liệu việc nhà.
Khi đi đến địa giới Lạng Sơn, nghe tin Cựu Đốc đồng Nguyễn Hàn đã bị hại, Tú kinh hãi nói:
- Ai thay! Mạng ông ấy thế rồi! Cũng là lỗi ta chậm trễ.
Lập tức thúc ngựa đi nhanh về phía trước. Quan trạm báo tin tân Đốc trấn Nguyễn Đình Tú đến, các bộ lạc Mán, Mường nghe tin, hoan hỷ nghênh đón. Khi đến trấn, Lưu Tiệp vẫn đóng cửa thành cùng tàn quân của Hàn chống cự. Tú vâng mệnh vua tuyên bố uy đức, lệnh cho các bên giải binh, rồi thong dong chỉ huy, một phương lại yên ổn…
Một hôm đi viếng đền Nghĩa Thành Vương, nói với Đốc đồng Huy Túc rằng:
- Ta nay có lẽ theo tiên nhân đi rồi! Trách nhiệm biên cương, sau này chắc có việc khó khăn lớn. Trấn này thông với nội địa, ta trước đây từng đi sứ, đường sá khá quen, chỉ tiếc là không còn ở đây. Ông hãy còn ở lại đây, cố gắng gánh vác việc đó.
Lại quay sang nói với các tù trưởng:
- Nếu ta đi rồi, chỉ nên nghe lời quan Phó Đốc trấn, đừng như gần đây gây ra nhiều chuyện, tất sẽ có đại họa.
Mọi người không ai không lấy làm lạ lời nói đó, bèn hỏi. Tú nói:
- Điều này khó nói.
Chiều tối về đến doanh trại thì mất. Huy Túc lo việc tang, gửi thư về triều báo tin, vâng chỉ lãnh chức trấn giữ, không cần phải nói thêm.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Kể từ khi Tây Sơn Vương [Nguyễn Nhạc] thu quân về phía nam, đến Nghệ An ở lại hơn mười ngày, giao cho biệt tướng Nguyễn Duệ阮睿 trấn giữ vùng đất này. Cùng với đó, Đô đốc Chiêu Viễn招遠 đóng quân ở doanh Hà Trung河中, sau đó Chiêu Viễn chuyển đến đồn trú ở châu Bố Chính布政州. Con rể của Tây Sơn Vương là Vũ Văn Nhậm武文任, người nắm giữ binh quyền, đóng quân lớn tại Đồng Hới洞海 để làm thế ỷ dốc (hỗ trợ lẫn nhau) và tiếp ứng.
Lúc đó, Chỉnh đã theo kịp. Tây Sơn Vương an ủi và cho Chỉnh ở lại châu này, cùng làm việc với Nguyễn Duệ. Bề ngoài tuy nói lời ngọt ngào hứa hẹn với Chỉnh, nhưng lại dặn riêng Nguyễn Duệ rằng:
- Hữu Chỉnh vốn là người Bắc Hà, trốn tránh về với ta. Xét về con người hắn, thì hắn lật lọng, xảo trá, không thể tin cậy. Hơn nữa, người Bắc oán hận Chỉnh quá sâu sắc, ta muốn bỏ rơi hắn để hắn tự chuốc lấy diệt vong, không ngờ hắn lại một lần nữa chạy trốn theo ta để thoát chết. Nghệ An là quê hương của hắn, nay để ngươi ở lại đây, cần phải dò xét kỹ lưỡi người (ý chỉ lòng dân) thuận nghịch, cũng như động tĩnh của Chỉnh ra sao. Chiêu Viễn ở đây, gọi một tiếng là đến; Tả quân cũng không xa lắm. Việc có thể hay không thể, hãy gửi thư cấp báo cho ta, cùng bàn bạc. Đất khách của địch, cần đặc biệt cẩn thận đề phòng, chớ khinh suất tin Chỉnh, tất sẽ mắc vào kế của hắn. Cẩn thận, cẩn thận!
Sau khi Tây Sơn Vương trở về, Hữu Chỉnh tìm được chiếu chỉ của vua (Lê), bèn cất quân về Bắc, đồng thời để lại người của mình là Lê Duật黎遹 theo giúp Nguyễn Duệ. Ngày chia tay, Chỉnh dặn dò kỹ lưỡng, bày tỏ thiện ý mong đợi, Nguyễn Duệ cũng dùng thiện ý tiễn đưa. Chỉnh sau khi nắm quyền, thường xuyên thư từ qua lại với Nguyễn Duệ, quà cáp rất hậu hĩnh. Lại sai người mật triệu Lê Duật về kinh, dò xét tình hình Tây Sơn, đoán ý Nguyễn Duệ. Biết được Tây Vương và Thượng Công [Nguyễn Huệ] huynh đệ đang giao chiến, sau đó lại nhận được thư của Nguyễn Duệ, hẹn cùng dốc sức đánh chiếm phương Nam, Chỉnh rất đỗi vui mừng, cho rằng Nghệ An chắc chắn có thể chiếm được. Thế là Chỉnh chuẩn bị mười lạng vàng, mười tấm đoạn, sai Lê Duật về yết kiến Nguyễn Duệ, dùng lợi hại, họa phúc để uy hiếp. Hơn nữa còn dụ dỗ Nguyễn Duệ sai người chiếm giữ Nghệ An, cắt đứt đường đi của Chiêu Viễn, sửa chữa đồn lũy cũ ở Hoành Sơn橫山, lấy sông Đại Linh霝江 làm ranh giới, như chuyện đời trước.
Ngay lúc đó, thám tử của Vũ Văn Nhậm ở Nghệ An đã phát hiện ra sự việc, vội vàng báo về. Vũ Văn Nhậm liền dùng binh phù triệu Nguyễn Duệ, Nguyễn Duệ từ chối nói:
-Tướng ở ngoài, quân lệnh có chỗ không thể tuân theo. Khi Thượng Công về, đã giao cho hạ thần ở lại trấn giữ đất này, không dám tự tiện rời đi.
Vũ Văn Nhậm nói:
- Nguyễn Duệ phản rồi! Quả nhiên là vậy.
Thế là Vũ Văn Nhậm liền gửi thư hỏa tốc báo biến, lại nói:
- Ngày trước dùng Hữu Chỉnh, là nuôi hổ dưới đình; ngày nay giữ Nguyễn Duệ, là nuôi ong trong tay áo. Xin hãy mau chóng phát binh bắc phạt, trước giết Nguyễn Duệ ở Nghệ An, sau bắt Hữu Chỉnh ở Thăng Long, dẹp loạn định quốc, chính là ở lần hành động này, không thể bỏ lỡ!
Gặp lúc Thượng Công [Huệ] và Tây Vương [Nhạc] có hiềm khích, binh đao chưa dứt, nội biến ở phía nam biên giới lại cấp bách hơn nỗi lo ở Bắc Hà, nên không thể hành quân. Bèn sai người báo cho Vũ Văn Nhậm, thúc giục Vũ Văn Nhậm đến Nghệ An bắt Nguyễn Duệ, đồng thời điểm binh trưng lương, chia quân đồn trú các nơi hiểm yếu, gửi thư hỏi tội Chỉnh thông mưu với Nguyễn Duệ, xem Chỉnh báo đáp thế nào. Nếu Chỉnh biết sợ, thoái thác lời lẽ, thì hãy tạm gác lại, chưa thể vội tiến quân; nếu hắn rõ ràng cự tuyệt mệnh lệnh, dùng lời lẽ ngang ngược, thì có thể trực tiếp tiến quân.
Vũ Văn Nhậm nghe lệnh, tự mình dẫn đại quân gấp rút lên đường, ngày đêm đến trại Kỳ Hoa, thì Nguyễn Duệ đã không còn ở đó. Nguyên do là từ năm trước, khi Thượng Công công khai cho Chỉnh dẫn quân vào bảo vệ (kinh đô), sợ có biến khác, bèn sai Nguyễn Văn Đức阮文德 [tức là tướng Nguyễn Huỳnh Đức阮黃德, tướng của Nguyễn Ánh] dẫn quân ra chiếm Diễn Châu演州, cùng Nguyễn Duệ cùng nắm ấn trấn thủ, làm thế môi răng (hỗ trợ lẫn nhau). Đến khi nghe tin phía nam biên giới giao chiến, Nguyễn Duệ và Nguyễn Văn Đức bèn gửi thư cho Chỉnh, cùng mưu hợp binh về nam, thừa cơ gây loạn. Sau khi thắng lợi sẽ về quy phục vùng đất phía bắc Hoành Sơn. Chỉnh cũng do dự chưa quyết, đến khi bị Vũ Văn Nhậm phát giác, hai người bèn bỏ đi. Nguyễn Văn Đức dẫn quân theo đường thượng đạo về nam, Nguyễn Duệ về với Tây Vương. Nguyễn Văn Đức là đại thần triều đình [Nguyễn Ánh], bị người Tây Sơn bắt được, miễn cưỡng làm việc, cũng không vui vẻ gì khi bị họ sử dụng, đến lúc đó liền nhìn về con đường núi phía tây nam thẳng tiến về Xiêm La, đi đã lâu rồi. Thượng Công nhận được thư hỏa tốc của Vũ Văn Nhậm, sai quân chặn bắt, nhưng cũng không kịp.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói, khi Vũ Văn Nhậm đến Nghệ An, đã kiểm điểm binh lính khỏe mạnh, trưng thu lương thực và khí giới, đồng thời gửi thư về Thăng Long để nghiêm khắc trách cứ Hữu Chỉnh. Chỉnh nhận được thư, giấu không cho ai biết, rồi viết thư hồi đáp biện giải và tạ lỗi rằng:
"Tôi trước đây rời nước trở về, được ngài thu nhận vào phủ, cùng kề vai sát cánh đã bốn năm năm. Mùa thu năm ngoái khi quân trở về, ngài không báo cho tôi biết, tôi biết rằng thượng công (Nguyễn Huệ) muốn thử lòng tôi xem tôi đi hay ở. Người Bắc [Hà] cố giữ tôi lại, nhưng tôi quyết định ra đi, nghĩ rằng tấm lòng này không hai lòng, đáng được bậc cao minh thấu hiểu. Tôi luôn muốn được theo hầu, tôi đã xin được theo quân cùng đi, nhưng được ngài ban lời dụ rằng: 'Thạc Nhưỡng là cái gai, không thể không dẹp, cứ ở lại đây, lo liệu việc này một phen.' Tôi dám nào không vâng lệnh? Đã trót lấy thân mình ra cống hiến, không dám tiếc thân, tự mình xông pha tên đạn, để cùng Thạc Nhưỡng đối đầu, chỉ mong dẹp được hai cái gai này, rồi tức khắc một mình cưỡi ngựa trở về phương Nam. Cách đây một tháng, tôi đã giao chiến ở Sơn Tây, mới bắt được Thạc Quận, còn Tích Nhưỡng thì vẫn hoành hành ở Hải Dương, vẫn đang cần tiêu diệt, nên tôi chưa về triều. Những kẻ ghét bỏ tôi thấy tôi ở lại Bắc Hà mà gán cho tôi tiếng xấu, sao không xem xét kỹ rằng sau khi thượng công trở về, tôi ở Nghệ An chỉ hơn mười ngày, cũng lại đi về Bắc, làm gì có thời gian để suy tính với những kẻ tiểu nhân? Kể từ đó, một người ở Nam Hà, một người ở Bắc Hà, ai lo việc người nấy, nào có qua lại với kẻ tiểu nhân bao giờ? Tình hình đã rõ ràng, không cần phải biện bạch nữa. Vả lại, tôi và tướng quân cùng làm việc đã không phải là thời gian ngắn, nếu quả thật có lòng khác, há có thể giấu giếm không lộ ra sao? Mong tướng quân tâu rõ lên chúa công giúp tôi, tôi sẽ mang ơn rất nhiều!"
Nhậm nhận được thư, biết Chỉnh vẫn còn chút sợ hãi, bèn dùng lời lẽ ôn hòa an ủi, để Chỉnh yên tâm mà tập trung lo liệu việc ở Nghệ An. Ông chỉ ra lệnh cho Chỉnh sớm tối phải bình định được Nhưỡng, rồi đem quân về Nam, để không phụ lòng mong đợi.
Chỉnh không hiểu ý Nhậm, cho rằng Nhậm có thể bán đứng mình, và nhất định sẽ làm giảm bớt mối lo ngại về Nam Hà. Lúc bấy giờ, trong ngoài lan truyền tin đồn rằng, Tây Sơn Tả quân西將左軍 Nhậm đã xuất quân từ Nghệ An, tuyển chọn tráng đinh, định kỳ xuất phát, quân Tây Sơn chẳng mấy chốc sẽ trở lại, và Thăng Long sẽ trở thành chiến trường. Trong kinh thành ồn ào náo loạn, dân chúng kéo nhau di tản, quân Kim Ngô (cấm vệ) không thể ngăn cấm. Nhiều quan thần đã tâu lên. Hoàng đế triệu Chỉnh đến hỏi, Chỉnh tâu rằng:
- Lời đồn của dân chúng không đáng tin, thần đã từng sai người đi dò xét, đã biết rõ sự thật. Tây Vương [Nguyễn Nhạc] từ Bắc trở về Nam, thẳng đến quốc thành [thành Đồ Bàn ở Bình Định, lúc này gọi là thành Hoàng Đế]. Thượng công thì ở Phú Xuân, đóng quân an nhàn, ban bố hiệu lệnh, tu sửa thành lũy, và tất cả quân tư, khí giới, của cải quý báu thu được khi về Bắc, đều thu giữ cất giữ. Tây Vương sai sứ triệu về triều, nhưng thượng công không chịu về. Mọi việc phong tước, bổ nhiệm, sắp đặt đều do thượng công tự quyết định. Tây Vương sai người mang ấn đến phong làm Bắc Bình Vương. Lại hỏi về hàng hóa, của cải thu được từ phủ chúa Trịnh, thượng công từ chối không chịu tiến dâng, Tây Vương nổi giận, vì thế huynh đệ nảy sinh binh biến, xung đột nội bộ còn nghiêm trọng hơn cả kẻ địch. Họ đang tự cứu mình còn không kịp, làm sao dám vượt qua Hoành Sơn một bước để tranh quyền với ta. Tôi muốn việc trị nước được ổn định, tự khắc thái bình sẽ đến. Còn như trấn Nghệ An, tôi đã đặc biệt sai sứ cầm quốc thư đến đó, bàn bạc với họ, chỉ cần một lời là xong. Quan hệ thông gia giữa ta và họ đã thành, không cần phải lo ngại.
Ngự sử Nguyễn Đình Giản阮廷簡 nói:
- Từ xưa đến nay, quan hệ thông gia đều không đáng tin cậy, Bắc Bình Vương cũng là một anh hùng, không thể xem thường được.
Chỉnh nói:
- Thần đã từng cùng làm việc với ông ta, há lại không hiểu rõ sao? Ông ta đúng là anh hùng, nhưng nhân tài Bắc Hà của ta cũng không kém cạnh. Vạn nhất xảy ra binh biến, thần xin được tự mình đối phó, còn những người khác như Vũ Văn Nhậm thì không đáng kể gì! Nay nghe nói Nhậm đã chiếm cứ Nghệ An, mặc cho hắn ta có vạn khách binh đồn trú, cũng chẳng khác gì Chiêu Vũ Thuận Nghĩa trước đây, chiếm cứ Nghệ An, bảy huyện Nam Hà, chẳng bao lâu sau cũng sẽ trở về tay ta thôi.
Hoàng đế nói:
- Lòng người kinh sợ nghi ngờ, chỉ cần xem động tĩnh ở phương Nam, đó là việc trọng đại của quốc gia. Khanh hãy suy tính kỹ lưỡng, dự liệu trước, để làm cho trẫm an lòng.
Chỉnh tâu:
- Đây là việc trong phận sự của thần, thần dám nào không dốc hết tâm sức!
Chỉnh tuy bên ngoài tỏ vẻ khoa trương để trấn an dân chúng, nhưng từ khi nhận được thư của Nhậm, trong lòng thực sự lo sợ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Một hôm Chỉnh vào chầu, kín đáo tâu riêng với Hoàng đế rằng:
- Tuy Vũ Văn Nhậm là Tả tướng dưới quyền Bắc Bình Vương, nhưng ông ta vốn là con rể của Tây Vương. Từ mấy năm nay, trong việc chỉ huy quân sự, ông ta cũng tự xưng là 'quốc tế' (cháu rể của vua). Một khi thấy huynh đệ (Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc) có hiềm khích, Nhậm có thể giữ thái độ trung lập, chỉ tuân lệnh tướng, nhưng liệu lòng ông ta có thể thờ ơ với cha vợ mình sao? Mới đây, có thám tử báo rằng Nhậm ở Động Hải muốn thay đổi ý định, xin được vào chầu, nhưng Bắc Bình Vương không cho phép, mà lại sai thẳng đến Nghệ An. Nay ông ta đang ở vào vùng nguy hiểm và nghi ngờ, chắc chắn không khỏi có ý lo cho nội bộ. Thần xin nhân cơ hội này, bàn về việc biên giới Nghệ An, và đặc biệt dùng ân nghĩa để đối đãi với ông ta, đưa lễ vật hậu hĩnh, lời lẽ ngọt ngào [nguyên văn: 幣重言甘 tệ trọng ngôn cam]. Bên ngoài có Nhậm đứng ra tuyên dương, bên trong có công chúa [Ngọc Hân] làm trung gian dàn xếp, dù Bắc Bình Vương có ý đồ gì cũng không thể không miễn cưỡng thuận theo chúng ta.
Hoàng đế nói:
- Hay!
Sáng hôm sau, Hoàng đế nói với quần thần:
- Nghệ An gần kề Thanh Hóa, là vùng đất căn bản (湯沐輔郡 thang mộc phụ quận) của triều đình, con em ở đó được bổ sung vào hàng thị vệ, là móng vuốt của quốc gia. Nơi này không thể để người khác chiếm giữ lâu dài. Trẫm sẽ cử sứ giả đến Phú Xuân để bàn bạc với Bắc Bình Vương. Các khanh hãy chọn người có thể đi sứ?
Trương Đăng Quỹ張登揆 tâu:
- Nguyễn Đình Giản阮廷簡 và Phạm Đình Dư范廷璵 là người chính trực, có thể đảm đương việc này.
Phan Duy Phiên潘維藩 nói:
- Giản cương trực quá mức mà không đủ ôn hòa; Dư tuy có lập luận chính xác nhưng nhận việc hơi chậm. Bắc Bình Vương rất xảo quyệt, giỏi dùng mưu mẹo để khống chế người khác, lời nói lúc lên lúc xuống, khó lường, e rằng hai thần đó sẽ tranh cãi với ông ta, làm hỏng việc nước.
Việc chọn người cứ trì hoãn mấy ngày không quyết định được. Chỉnh tâu cử Trần Công Sán, Hoàng đế nói:
- Được rồi!
Bèn triệu Công Sán vào dụ rằng:
"Khanh trung trinh vì nước, trẫm luôn ghi nhớ trong lòng. Xưa Phú Bật富弼 đi sứ nước Khiết Đan契丹, khiến địch quốc kính nể, công việc thành công viên mãn. Chuyến đi này cũng tương tự, khanh hãy cố gắng làm sứ mệnh cho trẫm, cũng là Phú Bật của nước Nam vậy. Một hoàng tộc, Trẫm đặc mệnh Duy Án đi cùng; một viên phụ tá, khanh tự chọn.
[Phú Bật, người đất Hà Nam đời Tống, rất chăm học và có độ lượng. Khi quân Khiết Đan xâm lăng Tống, đóng đồn ngay trên đất Tống. Phú Bật được cử đi sứ đòi lại đất, cực lực phản kháng bọn xâm lược đồng thời ông trình bày cái lẽ lợi hại của việc chiến hay hòa. Quân Khiết Đan nghe ra phải rút quân về nước. Đi sứ về ông được phong chức Khu Mật Phó sứ. Đến đời vua Tống Anh Tông, ông được lên chức Khu Mật sứ tước Trình Quốc Công. Về hưu, ông cùng Văn Ngạn Bác, Tư Mã Quang... gồm 13 người theo chuyện Của Lão Đồ của Bạch Cư Dị mà lập nên Lạc Dương Kỳ Anh hội, cùng uống rượu, họa thi làm vui]
Công Sán kiên quyết xin đi, tâu:
- Chúa ưu thần nhục (Vua lo thì thần chịu nhục), thần dám nào chọn lựa? Người có thể cùng thần làm việc, theo như thần biết là Ngô Nho吳儒.
Hoàng đế ưng thuận, lệnh ban ra, cả triều đều khen ngợi đã chọn được người tài.
Duy Án là con trai thứ sáu của [vua Lê] Ý Tông, là tổ thúc (ông chú) của Hoàng đế. Ông là người cẩn trọng, dày dặn kinh nghiệm, và chân thật. Khi công chúa Ngọc Hân chưa lấy chồng, thường lấy lễ của bậc trên mà đối xử với Duy Án, việc gì có nên hay không đều hỏi ý kiến ông. Đến khi về với Bắc Bình Vươn, Duy Án từng có việc đến gặp, Bắc Bình Vương cũng khen ngợi lời nói và cử chỉ của ông có chừng mực. Bởi vậy, đến lúc này, khi Hoàng đế hỏi công chúa Ngọc Hân để chọn người trong hoàng tộc có thể đi sứ, nên đã cử Duy Án đi.
Trần Công Sán là người Đông An東安, An Vỹ安偉 [nay là thôn Trung, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên]. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng. Khi Đoan Vương nắm quyền, Công Sán được bổ làm Tả Thị lang Bộ Công工部左侍郎, kiêm chức Tham tụng. Đến khi biến loạn Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn áp sát kinh thành, quân của Thạc Quận Công tan rã, các quan văn võ nối gót nhau chạy trốn trong đêm. Duy [chỉ có] Công Sán xin vua quyết chiến một trận ngoài thành, ông mặc giáp, đeo kiếm, hộ giá tại Ngũ Long Lầu. Đến khi Bắc Bình Vương [Nguyễn Huệ] vào kinh, Tiên Hoàng đế [Lê Hiển Tông] lệnh quần thần lần lượt vào tham kiến. Thấy khí phách anh dũng của ông, không ai là không kinh hãi biến sắc, nhưng Công Sán vẫn tiến thoái như thường, không mất phong thái của đại thần. Bắc Bình Vương lấy làm lạ, nhiều lần vời ông đến hỏi về việc Bắc Hà, Công Sán tùy câu hỏi mà trả lời như nước chảy, không chút ngập ngừng. Những việc Bắc Bình Vương không vừa ý, ông cũng phản bác và tranh luận nhiều lần mà không hề chịu khuất phục. Bắc Bình Vương nói với Tả quân Nhậm [Vũ Văn Nhậm]:
- Ta nghe nói Bắc Hà nhân tài rất nhiều, tự thân đến đây, chỉ thấy Công Sán mới là người có nhân sắc (khí phách của con người).
Ông được trọng vọng từ lâu là như thế. Ông từng giữ chức Thượng thư Bộ Hình刑部尚書 kiêm Thị giảng Kinh diên, kiêm Đồng Bình chương Quân quốc trọng sự侍經筵同平章車國重事. Khi đứng trong triều cương trực, khi đối phó việc biến ứng biến linh hoạt, lại có học vấn uyên thâm, ai cũng đề cao ông. Ông là thầy dạy của Chỉnh, Chỉnh có việc riêng không thể nói với ai, chưa từng không hỏi ý kiến Công Sán để quyết định, bởi vậy mới xin Hoàng đế cử ông đi.
Ngô Nho là người thôn Tri Chỉ知止, huyện Phú Xuyên富川 [xưa thuộc xã Tri Chỉ, tổng Hòa Mỹ, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng thời Lê, nay là thôn Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội]. Ban đầu, Công Sán khi làm quan Ngự sử đã chủ trì kỳ thi Hương, chấm trúng Nho đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi [1775]. Vì thế, Nho lấy lễ thầy trò mà đối xử với ông, thường đến thăm nhà ông. Công Sán thấy Nho là người hào hiệp, trọng tiết tháo lớn, không a dua quyền thế, tiếng tăm tương hợp, Công Sán rất yêu quý và trọng thị ông, vì vậy mới rủ ông cùng đi. Nho lúc đầu nhận lệnh vào chầu, Công Sán nói với Nho rằng:
- Nước địch lấn lướt, báo tin biên giới đang khẩn cấp, nay đi thì có thể, nhưng không biết có về được không. Ta là đại thần của quốc gia, nghĩa lớn phải đi, sống chết không phải điều đáng tính toán. Còn ông, mới nhậm chức, địa vị thấp, mẹ già ở nhà, trung hiếu không thể vẹn cả đôi đường, hãy suy nghĩ kỹ, ta không dám ép ông.
Nho nói:
- Thừa tướng được ơn trọng của quốc gia, tôi được thừa tướng trọng vọng. Đại thần vì nước lo việc lớn, kẻ sĩ chết vì tri kỷ, đều là điều phải làm theo nghĩa, ngoài ra không có gì phải suy nghĩ nữa.
Công Sán mừng rỡ nói:
- Hào hùng thay! Kẻ sĩ như thế mới gọi là thông đạt vậy!
Bèn dẫn Nho vào yết kiến Hoàng đế, được ban lạy tại nội điện. Hoàng đế hỏi:
- Khanh ôm hoài bão kinh sử, thấu hiểu thế sự, tự thấy chuyến đi này thế nào?
Nho tâu:
- Nhờ hồng phúc của quốc gia, mưu lược xa rộng của triều đình, việc chắc chắn sẽ thành công, nghĩ cũng không khó. Hơn nữa, ở đây có lương thần để đối đáp, chắc chắn không làm nhục quốc thể, thần làm phụ tá, chỉ biết hết phận sự của mình mà thôi.
Hoàng đế gật đầu, lập tức lệnh Bình chương Duy Phiên và Bằng Công Chỉnh tập hợp bàn bạc soạn thảo quốc thư, đại ý nói rằng:
"Nghệ An là nơi căn bản để triều ta hưng thịnh trở lại, cùng với Thanh Hóa là quận trọng yếu, văn thần võ tướng nhiều người xuất thân từ đây, binh sĩ túc vệ cũng chọn lính khỏe mạnh mà bổ sung. Nếu dùng người của họ mà bỏ đất của họ, khiến họ bị cách trở quê hương, thân thích ly biệt, xét về tình người, là điều trái ngược nhất. Quý Quốc vương vốn tin vào sự hòa mục láng giềng, đối đãi chân thành, nghĩ cũng không gì là không rõ ràng, huống hồ việc này lại minh bạch như vậy. Lại nghĩ Quý vương ban đầu đến, vốn lấy việc phò tá làm việc quan trọng nhất, Tiên đế khi còn tại vị, đã mời ngồi ghế, cầm tay cùng nói chuyện, lời vàng ngọc còn văng vẳng bên tai, sao có thể quên ngay được? Đến khi dựa ghế di chúc, dặn dò về việc tiểu tử còn nhỏ tuổi (trẻ người non dạ), trong lòng muốn mời phúc của quý quốc, có thể làm chỗ dựa vững chắc. Gần đây nghe nói sai tướng ra đóng giữ Nghệ An, người dân nghi ngờ ngăn cản, hoặc cho rằng là do biên thần gây sự, không phải xuất phát từ ý muốn của Quý vương. Đến khi nhận được văn thư, mới biết thực ra là tuân theo mệnh lớn, lấy lý do cắt đất khao quân vào mùa thu năm ngoái. Tiểu tử mới nhận mệnh trời, chưa tìm hiểu rõ nguyên nhân trước đó, đã sai đình thần tra cứu hiệp ước cắt đất, chỉ rõ là hai châu Bố Chính, Minh Linh, không liên quan đến địa giới Nghệ An. Khi ấy từng được quý ngài răn dạy, quả là đất đai nhà Lê, một tấc cũng không lấy. Nếu khao quân bằng đất, chi bằng bằng tiền bạc, xin tính toán địa phận, tổng số thu nhập hàng năm, dùng làm khoản khao thưởng, hàng năm gửi đến biên giới, làm thành lệ mãi mãi, từ xa kính mong Quý vương xem xét, để giữ trọn tình hữu nghị hai nước, một nước may mắn thay."
Thư viết xong, dâng lên vua xem, vua sai lấy vàng, gấm vóc, lụa, vải trong kho ra, làm phẩm vật ban tặng, triệu Công Xán vào mặt dụ, sắc lệnh ban cho mang đi. Ngày hôm đó khởi hành, trăm quan tiễn đến ngoại thành, chỉ có Bằng Công Chỉnh và Xán ngủ lại ở chùa Thịnh Liệt盛烈寺 [Chùa Thịnh Liệt thời Lê, hay còn được biết đến với tên gọi chùa Sét, hiện nay thuộc địa phận phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Cụ thể, chùa nằm tại thôn Giáp Lục, trước thuộc xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, sau chuyển thành phường Thịnh Liệt thuộc quận Hoàng Mai]. Xán nói với Chỉnh:
- Bắc Bình Vương hiểm độc khó lường, chuyến đi này chưa chắc hắn đã chịu nghe, nhưng ta đã nhận mệnh, cứ thử ủy khuất biện giải, liều chết mà tranh. Về phần mưu kế phòng bị, sau khi ta đi, ông nên đặc biệt chú ý đừng lơ là! Địa phận dọc núi Thanh Hóa, cần nhanh chóng chia binh đồn trú giữ hiểm, để phòng bộ binh; cửa biển Sơn Nam, cũng phải đóng cọc ngang dòng, để chặn thủy quân. Nếu họ bội ước đến đánh, ta có cái để chế ngự trước, không đến nỗi lâm thời luống cuống.
Chỉnh nói:
- Xin thầy cứ đi, đừng lo nghĩ quá, lời nói của tiên sinh, ai mà chẳng phải lùi bước lắng nghe, bằng không, học trò này dù việc quân cũng không kém ai, vạn nhất có biến, há chẳng thể một phen sấm vang chớp giật, dời núi lấp biển, để hả lòng ta sao, hắn dù là kẻ kiệt hiệt, cũng làm được gì
Xán không cho là phải. Khi đi đến đầu địa giới Quỳnh Lưu, tướng đồn trú do Văn Nhậm đặt ra, đón vào kiểm tra phẩm vật, chỉ cho phép ba sứ thần và mười tám người phục dịch đi cùng, còn lại đều cho về. Đến trại trấn Nghệ An, Nhậm bày tiệc khoản đãi, thong thả hỏi Xán rằng:
- Văn võ Bắc Hà như lão gia có mấy người? Vua Lê phó thác quốc gia cho tên giặc Chỉnh, tự cho mình là thế nào? Ta nay đã dẫn quân, sớm tối sẽ trực chỉ Thăng Long, trước hết chặt đầu Chỉnh, sau hỏi vua Lê sao lại bội đức chứa chấp phản tặc? Sẽ minh bạch cáo thị cho sĩ dân Bắc Hà biết ý đồ dùng binh. Vua Lê đã không thể bảo vệ quốc gia của mình, cùng với các trấn từ Thanh Hóa trở lên phía Bắc, ta không lấy thì người khác ắt sẽ lấy, Nghệ An là mảnh đất nhỏ bé, cắt hay không cắt, có liên quan gì đến tồn vong? Xa xôi đến đây cầu xin, chỉ thêm khổ sở đường sá, chỉ e tiếng chim lìa tổ, đến khi bay về, không có cành nào để đậu mà thôi
Xán lặng im, người nghe đều kinh hãi. Đến khi ra, nói với Nho:
- Người Tây Sơn hành binh như bay, theo lợi quá nhanh, xem việc họ đến đi, thoáng chốc thần tốc, không thể ngăn chặn, không thể đuổi kịp, từ xưa đến nay chưa từng nghe có kẻ địch nào như vậy. Ý ta lo xa, phòng bị trước những điều chưa xảy ra, đã từng trên đường dặn Bằng Công Chỉnh như thế này thế này, không biết ông ta có nhớ không? Nếu hơi chậm trễ một chút, sẽ không kịp việc mất.
Than thở rất lâu rồi đi. Nho lại nói với Xán rằng:
- Xem chủ tướng của họ, mật mưu tính kế với ta, đã có định cục rồi, việc phò tá năm trước, vẫn là giả dối, lòng lang dạ sói, quyết không thể dùng nhân nghĩa mà nói được. Nay sứ thần đã xuất cảnh, kinh thành bị binh đao, thế sự quá cấp bách, nên tùy cơ ứng biến mà lo liệu, không thể giữ nguyên tắc cứng nhắc. Vả lại xem Bằng Công Chỉnh từ khi đắc ý đến nay, vàng đeo đầy mình, khí thế lẫm liệt, không còn như xưa cắn rễ rau làm việc được nữa. Trộm sợ rằng, khi nguy cấp, ắt sẽ bị Văn Nhậm bắt được, việc đi hay ở của hoàng thượng ta cũng chưa thể đoán được. Chúng ta nên tính toán thế nào, để âm thầm vận dụng mưu kế, may ra có thể vãn hồi, cầu mong yên quốc gia, chuyên tâm vào đó cũng không sao. Nếu chỉ tuân theo nguyên ý, tranh luận việc Nghệ An, thì gọi là kẻ trộm đã vào nhà, mà vẫn còn sửa hàng rào, không phải là kế hay. Xin hãy sửa đổi quốc thư để mang đi.
Xán nói:
- Sửa đổi thế nào?
Nho nói:
- Sửa lại rằng: 'Họ Trịnh chuyên quyền, vua Lê đã không còn thiên hạ, may nhờ quý vương phò trợ, trời nếu còn phù hộ nhà Lê, xe cung sao lại đến nỗi mất sớm, con cháu còn nhỏ tuổi, lo sợ không gánh vác nổi, làm nhục xã tắc. Sách nói 'làm khách', thơ nói 'có khách', đều là chuyện xưa, xin được ban đất phong ấp thế tập, để thờ tự tôn miếu, thực là thuận theo mệnh trời mà tự tồn, mời ơn vua Ngô (tức Tây Sơn) vô cùng'. Họ chí ở việc lấy nước, không có ý đồ hại ta, thấy thế này lòng mừng rỡ sinh sôi, ắt sẽ thả sứ thần về nước, chia đất mà cho ở, ta nhân đó có thể phụng hoàng thượng nước ta trú ngụ ở nơi này, họ đã không nghi ngờ lòng ta, liền không còn đến dò xét nữa, ta tiếp theo đó từ từ tính kế, như Thiếu Khang ở Luân ấp, Câu Tiễn ở Hội Kê, việc trung hưng tự khắc sẽ có ngày. Bằng không họ nổi giận mà tàn sát, chúng ta chỉ là những con ma bị biển nuốt, cố nhiên không đáng nói, hoàng thượng ta sau cơn ly loạn mất mát, không có một tấc đất để đặt chân, dù có tài Khổng Minh, cũng khó ra tay!
Xán nói:
- Không thể được. Bằng Công Chỉnh từ khi kết tóc theo quân, đã lão luyện trận mạc, giả sử kinh thành bị binh đao, nghĩ cũng không đến nỗi quá hoảng loạn. Hai nước giao tranh, được mất chưa định, chúng ta nhận mệnh ra biên cương, vội vàng đổi thư giả chiếu, không những phạm tội với quốc gia, nếu địch nhân phát hiện ra lừa dối, cũng không tha cho ta, tai họa càng lớn, để lại tiếng cười vô cùng. Chi bằng minh bạch mà làm, việc thành bại có trời định, ta còn lo gì nữa!
Nho từ đó không dám nói thêm lời nào.
Khi đến Phú Xuân, Trần Công Xán trình bày lễ vật và xin yết kiến. Trần Công Xán dâng thư của thượng quốc. Bắc Bình Vương xem xong, ném thư xuống đất, gằn giọng nói:
- Thư này là của ai làm? Nói năng hoàn toàn vô lý! Người Bắc Hà quen thói dùng lời lẽ ngon ngọt dụ dỗ người khác, ta không phải con nít mà bị lừa đâu!
Trần Công Xán thần sắc không đổi, điềm tĩnh đáp:
- Xin Đại Vương bớt giận, cho phép thần nói rõ. Nếu Đại Vương muốn giết thần, xin cứ nói một lời là thần sẽ chết ngay.
Bắc Bình Vương vốn rất quý trọng Trần Công Xán, liền thay đổi vẻ mặt và nói:
- Ngày xưa, ta dẫn quân ra Bắc, phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước chấn động, triều đình và dân chúng bó tay, không ai dám làm gì. Lần này ta chiếm cứ đất nước họ, xưng đế xưng vương thì có gì là không được? Chỉ vì ta ngưỡng mộ đức của Tiên Đế mà trả lại toàn bộ đất đai cho ngài, giang sơn thống nhất đều là do ta tái tạo. Vậy mà Bắc triều lại lấy việc phong tước Thượng Công để báo đáp, không biết Thượng Công là tước hiệu gì? Có ích gì cho ta đâu? Sau đó, Tiên Đế băng hà, đại lễ tang táng, ta đã lo liệu chu toàn; khi vị vua kế vị lên ngôi, đại lễ sách lập, ta đã chủ trương. Nay lại không nhớ ơn nghĩa này, chứa chấp kẻ phản nghịch của ta, tranh giành với ta, mưu toan chiếm đất Nghệ An. Với những việc làm như vậy, liệu lòng người có thể nhẫn nhịn được không? Ta đã phái 2 vạn quân, do Tả quân Vũ Văn Nhậm chỉ huy, thẳng tiến đến Thăng Long, bắt sống cha con tên giặc Chỉnh để dâng nộp. Ta đoán chắc Chỉnh nghe tin quân ta xuất phát sẽ ôm lấy Tự Tôn [chỉ vua Lê Chiêu Thống] mà bỏ chạy, không biết dưới mũi tên hòn đạn, ngọc đá khó phân, liệu Tự Tôn có được bình an không? Người trong nước lại đổ lỗi sợ hãi cho ta!
Trần Công Xán đáp:
- Ngày xưa, Lê Thái Tổ bình định quân Ngô, lập quốc, công đức lớn như trời, Thánh Tông tự mình mang lại thái bình, rạng rỡ tiền nhân, hậu thế nhờ ơn. Từ phía Bắc bia đá đến phía Nam núi Đại Lĩnh, tất cả thần dân, không ai là không tôn kính, yêu mến, kéo dài hàng trăm năm. Khi họ Mạc soán ngôi, cả nước căm phẫn, Tiên vương tập hợp những người cùng chí hướng, khôi phục họ Lê, họ Trịnh tiếp nối, cũng lấy danh nghĩa phò Lê, nên mới có thể hiệu lệnh khắp bốn phương, mọi người đều hưởng ứng. Mấy đời nay, tuy nói là bị chèn ép, nhưng chính thống vẫn còn đó, chuông đỉnh không dời, thiên hạ vốn là thiên hạ của họ Lê. Đại Vương một lần xuất quân, thẳng đến kinh thành, tuy uy danh chấn động, nhưng cũng chỉ là tôn phò đại nghĩa, được lòng người tin phục. Bằng không, làm sao có thể dễ dàng vào được nước người như vậy? Tiên Đế vừa gặp Đại Vương, lễ độ vô cùng long trọng, phong tước Công, sau đó lại phong Vương. Đó là điển lệ cũ của triều ta, không phải là không có sự đáp trả, không thể vì thế mà cho là bạc bẽo. Một đất nước đã hơn ba trăm năm, được Thượng Đế hưởng, được lòng dân ủng hộ. Đại Vương trả lại toàn bộ đất đai, đó là thuận theo ý trời, hợp lòng dân, chưa thể xem đó là một công đức. Tiên Đế lâm chung, Hoàng Thượng kế vị, mọi việc đều được báo cáo trước. Nếu Đại Vương không làm chủ thì ai sẽ làm chủ? Lý lẽ đến đó không thể dừng lại được, thần không dám nói những lời tán dương, nịnh hót. Đại quân trở về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh theo sau, Đại Vương đã giữ ông ta lại ở Nghệ An. Sao lại gọi ông ta là kẻ phản nghịch? Nghệ An vốn là đất cũ, triều ta giữ vững phần lãnh thổ phong cấp của mình, sao lại gọi là tranh giành? Đại Vương phái quân mã đến, nói là để thăm hỏi, triều ta theo lệ có đón tiếp. Nếu không, người xưa có câu: 'Nước lớn có binh lính chinh phạt, nước nhỏ có sự phòng ngự vững chắc'. Thần đã vượt biên giới, việc đó thần không dám biết. Hoàng Thượng của nước thần đã được trời ban mệnh làm vua, đế vương có chân mệnh, mũi tên hòn đạn cũng có sự chọn lọc. Xin Đại Vương đừng lo lắng. Nếu Đại Vương thuận theo lẽ phải mà hành động, giúp phục hưng khi suy tàn, nối tiếp khi đứt đoạn, để ổn định nước Lê, thần dân ai mà chẳng cảm kích công đức của Đại Vương, còn oán trách gì nữa? Bằng không, thế sự biến đổi, khác thường, không phải cái ngu dốt của thần có thể biết trước được.
1760349096065.png

Trần Công Xán và Nguyễn Huệ
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ông tranh luận đi tranh luận lại, kiên quyết không chịu khuất phục. Trời gần tối, Bắc Bình Vương nói:
- Ngươi hãy về quán xá, suy nghĩ lại cho kỹ.
Trần Công Xán đáp:
- Suy nghĩ nhiều thì càng thêm mê hoặc, một cái chết là đủ rồi.
Bắc Bình Vương tức giận, hạ lệnh giam ông vào ngục. Án, Nho và những người khác cũng bị đưa đến các nơi khác để giam giữ. Trần Công Xán sau khi vào ngục, nói cười vẫn như thường. Bắc Bình Vương sai người đến dò xét, thấy Trần Công Xán viết trong nhà giam rằng:
"Có ba điều trái với đức. Dù chưa làm được, tôi vẫn muốn học. Cẩn thận không hai lòng, làm theo bổn phận của mình thì có gì mà phải oán trách?".
Tư Mã Ngô Văn Sở吳文楚 xin giết ông. Bắc Bình Vương vẫn tiếc tài của ông, nói với Trung thư Trần Văn Kỷ陳文紀 và Lễ bộ Vũ Văn Trụ武文紂:
- Trong số nhân vật Bắc Hà, Trần Công Xán cũng là một người tốt. Ta muốn thu dụng hắn, nhưng hắn nhất định không chịu. Các ngươi thử khuyên nhủ xem sao.
Thế là hai người đến nhà giam, thấy Trần Công Xán đang nằm sấp, bị cùm gỗ, bèn nói:
- Đại nhân sao lại tự hành hạ mình đến thế?
Trần Công Xán đáp:
- Đó là số mệnh rồi!
Trần Văn Kỷ nói:
- Quân tử có thể không chấp nhận số mệnh, việc quyết định nằm ở ta. Ví như đánh bạc vậy. Đồng tiền úp ngửa, ta theo bên thắng mà đặt cược, thiên hạ gọi đó là người cờ bạc giỏi.
Trần Công Xán đáp:
- Đó là lý do gọi họ là kẻ cờ bạc, không phải đạo của quân tử. Tôi nghe nói làm tôi phải chết vì lòng trung, đó là lời dạy của người xưa.
Hai người biết không thể lay chuyển được ông, bèn ra ngoài nói:
- Nhà Hán có Tô Tử Khanh蘇子卿 [tức là Tô Vũ, nhà ngoại giao thời Hán Vũ Đế], nhà Lê có Trần Công Xán, thật đáng thương! Cũng thật đáng ghét!

1760349239200.png

Trần Công Xán bị Nguyễn Huệ bỏ ngục, Trung thư Trần Văn Kỷ và Lễ bộ Vũ Văn Trụ đến dụ dỗ ông nhưng bất thành.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đúng lúc đó, Tây Vương gửi thư kể tội Bắc Bình Vương, sắp sửa phát binh thảo phạt. Một số tướng sĩ dưới quyền Bắc Bình Vương đã bỏ trốn. Bắc Bình Vương nói với Trần Văn Kỷ:
- Nay nước ta có khuyết điểm, lòng người chia hai, biến cố nội bộ không thể để nước láng giềng biết được. Sứ giả Bắc triều ở đây, tai nghe vách vữa, họ từ xa đến dò xét ta. Nếu giữ họ lại thì tình hình quốc gia sẽ bị họ nắm rõ, hoặc nhân cơ hội này mà gây ra biến cố. Nếu cho họ về thì họ sẽ tiết lộ mọi chuyện, Bắc Hà biết được, lại càng gây ra ngoại xâm. Ta muốn ném họ xuống biển, để không còn dấu vết, nên làm theo kế này. Thế là sai Đô đốc Vũ Văn Nguyệt武文月 chuẩn bị vài chiếc thuyền biển, nói rằng để đưa sứ giả Bắc triều về, và dẫn Trần Công Xán cùng đoàn vào từ biệt. Bắc Bình Vương nói:
- Các ông cứ về trước, khi nào ta đến sẽ triệu kiến, sẽ có sắp xếp khác.
Lại đưa cho họ một trăm lạng bạc trắng và nói:
- Đây là quà của công chúa, đừng từ chối.
Nói là đưa về, nhưng lại bí mật dặn dò Vũ Văn Nguyệt, không ai biết. Tháng 3 mùa xuân năm Đinh Mùi [1787], các thuyền rời cửa biển Tư Khách思客海門, giương buồm ra đi [còn được gọi là Tư Dung, nay là cửa Tư Hiền, nằm giữa hai xã Vinh Hiền và Lộc Bình, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cửa biển này nối phá Tam Giang - Cầu Hai với biển Đông]. Chưa đầy mười ngày đã đến cửa biển Đan Nhai丹崖海門 thuộc Nghệ An. Vũ Văn Nguyệt và đoàn sứ giả cập bờ lên bộ. Nguyễn Hiên阮軒, một giám sinh môn đệ cũ của Trần Công Xán, người Trực Lộc直祿, nghe tin thầy mình được về, vui mừng khôn xiết đến thăm. Nguyễn Hiên thấy sắc mặt Vũ Văn Nguyệt bất thường, ngấm ngầm đoán ý đồ của hắn, bèn bí mật báo cho Trần Công Xán, rồi xin đổi đi đường bộ. Vũ Văn Nguyệt nói:
- Tôi vâng lệnh đưa sứ giả đi đường thủy là tiện lợi nhất, không thể đi bộ được, đường sá vất vả lắm.
Thế là họ lại lên thuyền ra biển. Vừa ra đến ngoài khơi, Vũ Văn Nguyệt ra lệnh cho thợ lái đục thuyền làm chìm. Nguyễn Hiên đứng trên bờ biển nhìn theo, khóc lóc đau khổ một lúc lâu rồi trở về. Đó là ngày 11 tháng 4 mùa hè năm đó. Vũ Văn Nguyệt sau đó quay thuyền vào bờ, lấy lý do bị gió lớn làm đắm thuyền, tuyên bố điều này ra khắp trong ngoài, cốt là không muốn mang tiếng giết sứ giả.
Lại nói về việc Chỉnh và những người khác đi xuống phía Nam, Chỉnh cho rằng việc nhất định sẽ thành công, bèn nói với triều đình rằng:
- Tình hình Tây Sơn, như ở ngay trước mắt. Bọn chúng đang may mắn vì ta không gây hấn, nên có thể chuyên tâm vào việc nước của chúng. Nay nội bộ đang rối ren, làm gì có thời gian lo chuyện bên ngoài? Vũ Văn Nhậm là đạo quân đơn độc bên ngoài, nội ứng không có, viện trợ cũng không, thì làm gì được? Bắc Bình Vương thấy thư của ta đến, ắt sẽ vui mừng mà lui binh nghe theo, xin đừng lo lắng về vùng biên cương phía Nam.

1760349312547.png

Vũ Văn Nguyệt theo lệnh Nguyễn Huệ cho đục thuyền giết Trần Công Xán và toàn bộ sứ đoàn nhà Lê.
 

Civic TN

Xe lăn
Biển số
OF-82890
Ngày cấp bằng
15/1/11
Số km
14,195
Động cơ
1,175,145 Mã lực
E xin chỗ tranh thủ đọc sử
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bởi vậy, phàm những việc phòng bị mà Trần Công Xán dặn dò khi ra đi, Chỉnh đều không để ý đến. Chỉ tấu xin lấy Lê Duật黎遹 làm Trấn thủ Thanh Hóa, khi lâm hành dặn dò rằng:
- Chỉ nên giữ gìn biên cương, đừng gây sự làm nghi ngờ địch, đợi sau khi Trần Bình Chương陳平章 [tức là Trần Công Xán] trở về, sẽ dời trấn đến Nghệ An, sửa sang lũy cũ Hoành Sơn của ta, để củng cố biên giới, làm kế lâu dài.
Bình chương Duy Phiên nghe vậy, đến chỗ Chỉnh nói rằng:
- Trần công là người lão luyện thế sự, nhìn việc rất tinh tường, ngày thường có những luận bàn dự liệu, đến khi sự việc xảy ra, không điều nào là không đúng một cách kỳ diệu, công không nên coi thường.
Chỉnh cũng không cho là phải.
Duy Phiên ra nói với đồng liêu Đăng Khuê rằng:
- Bằng công vốn nổi tiếng là người hiểu binh pháp, nhưng lại bướng bỉnh không nghe lời khuyên, coi thường kẻ địch, e rằng sau khi kinh đô đã tàn phá rồi, liệu có thể chịu đựng được sự giày xéo nữa không! Chúng ta đã lâu giữ ghế tể tướng, nhưng lúc nghiêng không đỡ, lúc nguy không nâng, thì dùng làm gì nữa?
Hai người cùng nhau than thở hồi lâu, Duy Phiên nói:
- Nhớ lại công đức của Tiên Đế mà chưa có miếu hiệu, nếu không kịp thời bàn định bây giờ, cuối cùng sẽ thành thiếu sót.
Thế là cùng nhau bàn định tôn hoàng gia lên sách vàng xưng là “Vĩnh Hoàng Đế” 永皇帝, miếu hiệu là “Hiển Tông” 顯宗, tâu lên Hoàng đế xin tiến hành lễ cáo miếu. Chỉnh nói:
- Lễ dâng miếu hiệu, phải đợi sau đại tường mới vào miếu mà tiến hành, sao lại vội vàng như vậy?
Duy Phiên nói:
- Thời cuộc chưa biết thế nào, chính là lúc nên sớm hoàn thành mỹ hiệu cho Tiên Đế.
Chỉnh cũng im lặng.
Lại nói, khi Chỉnh từ Nghệ An về kinh, Yên Đô Vương晏都王 vượt sông về Kinh Bắc, trú tại Quế Ổ. Người thuộc võ ban cũ là Nguyễn Đình Toại阮廷遂đã phụng mật chỉ của Vương, hiệu triệu các thổ hào Từ Thuận, chiêu mộ nghĩa dũng, mưu phạt Chỉnh để dẹp loạn trong nước, khôi phục nghiệp cũ. Lại còn sai người chuyển hịch đến các phiên thần ở Cao Bằng, Lạng Sơn, khiến họ đều tập hợp binh mã "cần vương". Chỉnh nhiều lần muốn đánh dẹp nhưng Dương Trọng Tế đang chiếm giữ Gia Lâm, đắp lũy chống lại Chỉnh, vẫn còn một chướng ngại vật nhỏ, đường sá bị cản trở không thông, nên Chỉnh đành tạm thời bỏ qua. Đến khi Trọng Tế đã bị diệt, Chỉnh bỗng nhiên lấy việc đánh Vương làm hành động đầu tiên quan trọng nhất, tấu xin tự mình suất lĩnh bản bộ binh mã đi dẹp.
Hoàng đế vì Vương vốn cung thuận, không nỡ ra quân, vả lại trong lòng thực sự ghét Chỉnh, không muốn cho y được đắc chí, sợ y sẽ lấn át, nên muốn ngăn việc này nhưng khó tìm lời từ chối. Bèn sai nội hàn Vũ Trinh武楨 tuyên chỉ dụ rằng:
“Nhà họ Trịnh trải các đời, thực có công lớn. Tử Văn (Trịnh Bồng) không có con nối dõi, lấy gì để khuyến thiện? Chi bằng trước hết ban bố văn cáo, bày tỏ họa phúc. Nếu cố chấp không tỉnh ngộ, bấy giờ mới dùng binh đao. Làm như vậy là giữ lòng trung hậu của ta, không để dư luận có chỗ xen vào, há chẳng tốt sao!”
Chỉnh không nghe, nói:
- Dù tôi không đem quân đến, việc Trọng Tế phò Vương thành công, hãy xem ông ta có trung thành với Hoàng đế hay không! Anh hùng dựng nghiệp, há lấy lòng nhân của phụ nữ mà làm ư!

1760349379110.png

Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân vượt sông tấn công quân Trịnh Bồng

 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Y lập tức cố xin xuất binh, Hoàng đế bất đắc dĩ phải chấp thuận. Chỉnh đốc thúc các quân vượt sông, thuyền bè che kín cả sông, khí thế hung hãn đáng sợ. Vương nghe báo khẩn cấp lệnh cho Toại (Nguyễn Đình Toại) suất đội quân Quế Ổ làm tiên phong, thổ hào Yên Dũng là Nguyễn Trọng Linh阮仲玲 làm cánh trái, thổ hào Gia Bình là Trần Quang Châu陳光珠 làm cánh phải, bày trận đợi sẵn. Quân Chỉnh đến, hai bên đối đầu giao chiến, từ sáng đến giữa trưa, thắng bại bất phân, sau đó mỗi bên đều rút quân nghỉ ngơi. Chỉnh sai người mang chiếu chỉ của Hoàng đế dụ Vương, trách Vương phải vâng phục, không nên cự lại mệnh lệnh. Vương cười nói:
- Chỉnh đến đây, ý muốn bắt sống ta, khiến y ăn được ngủ được, chắc chắn không nhả ra, nay lại dùng lời ngon ngọt dụ dỗ ta, thằng nghịch tặc ấy xảo quyệt đáng ghét. Mặc dù vậy, y đã nhân danh Hoàng đế đến, ta không thể im lặng không trả lời.
Bèn tự mình soạn biểu trần tình, nói tội ác của Chỉnh, thần dân nghiến răng căm hận, xin trước hết tru sát誅殺 Chỉnh rồi sau mới về triều. Lời lẽ rất kịch liệt, kích động.

Chính là:
野外雌雄猶未決,田中蚌鷸正相持。
[Dã ngoại thư hùng do vị quyết, Điền trung bạng duật chánh tương trì].
Ngoài đồng trống, chim mái chim trống vẫn chưa phân thắng bại, Trên ruộng, cò và trai đang giằng co nhau.
Chưa biết thắng bại ra sao, hãy nghe hồi sau sẽ phân giải.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ MƯỜI
麟洋侯扶王泛海, 鵬公整請帝渡河.
[Lân Dương hầu phù Vương phiếm hải, Bằng công Chỉnh thỉnh Đế độ hà]
Lân Dương hầu phò vua ra biển, Bằng công Chỉnh xin vua qua sông.

Lại nói, Hữu Chỉnh thấy tờ biểu, gọi mình là giặc, nổi giận đùng đùng, rút kiếm nói lớn:
- Lũ tàn dư mất nước, không biết sợ gì, còn dám dùng bút lưỡi lừa dối người trong nước ư? Ta hôm nay thề cùng vương [Trịnh Bồng] một sống một chết. Các tướng sĩ hãy nghe trống nhìn cờ, dốc sức xông trận, có tiến không lùi, kẻ nào không tuân lệnh, có thanh kiếm này!
Bèn mặc giáp cưỡi voi, tay cầm cờ hồng, vẫy các quân tiến lên. Nguyễn Như Thái阮如泰 thúc ngựa lớn tiếng kêu giết giặc. Súng nỏ bắn ra cùng lúc, đạn tên bay như mưa. Cánh tả của Vương không chống đỡ nổi, sắp vỡ trận. Vương ra lệnh tiền phong cùng hai cánh quân hợp lại, vừa đánh vừa lùi, nhân đó rút vào trong lũy, chia quân cố thủ. Hữu Chỉnh bày quân bốn mặt vây đánh lũy, nửa ngày không hạ được. Đến chiều tối, mưa phùn bay lất phất, gió bấc thổi vi vút, trời đất tối tăm, gần ngay trước mắt cũng không phân biệt được. Hữu Chỉnh hạ lệnh chia quân vây ép lũy của Vương. Vương bèn chia quân làm ba phần: những người quả cảm làm cánh trước và sau, do Toại và Châu chỉ huy; những người già yếu làm cánh giữa, do Vương tự mình thống lĩnh. Sau canh khuya, chiêng trống không reo, khói lửa đều tắt. Bên ngoài lũy tiếng súng bắn liên hồi không dứt, mà bên trong lũy yên lặng không động đậy. Hữu Chỉnh sai quân hầu lẻn đến dưới lũy nghe ngóng, thấy như không có người, nhưng cũng không đoán được hư thực. Đến canh tư, mưa dông lớn, Vương bèn hạ lệnh mở to cửa lũy, sai Toại và Châu đi trước, mỗi người dẫn năm mươi dũng sĩ, xông thẳng vào trại của Chỉnh. Toại tấn công bên trái, Châu tấn công bên phải, ở giữa mở ra một lối, Vương thúc quân cánh giữa thẳng ra đường đông mà đi. Toại và Châu làm hậu vệ. Đêm đó quân của Chỉnh không phân biệt được ai với ai, bắn lẫn nhau hỗn loạn. Đến sáng mới biết, truy kích thì đã không kịp nữa rồi.
Hữu Chỉnh thúc quân vào lũy, chỉ thấy doanh trại trống rỗng, ra lệnh tìm kiếm quân nhu, không thu được gì cả, bực bội không vui, đành rút quân về kinh.

1760349503035.png

Nguyễn Hữu Chỉnh cưỡi voi chỉ huy quân tấn công quân của Trịnh Bồng

 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thế là Vương chạy về phía đông đến Hàm Giang, nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng. Những người già yếu đi theo thì cho về hai phần, chỉ giữ lại hai tướng Toại, Châu và một trăm thủ hạ. Nhưỡng dành riêng một trại cho Vương ở. Nhưỡng là người phù phiếm, không thạo mưu lược tướng soái, lòng trung nghĩa không phải trời sinh, những lời nói và việc làm thường ngày cũng là giả dối. Từ khi xuất thân, ông ta chỉ quen đánh thủy chiến, chưa từng dẫn dắt bộ binh. Từ thất bại ở Kim Động, thuyền bè đều bỏ hết, ông ta vất vả chạy về phía đông, chiếm cứ thành trấn Hải Dương, may có quân lương để dùng, nhưng không giỏi vỗ về dân chúng, dung túng bộ hạ của mình cướp bóc thôn xóm, bị hai trấn Hồng oán giận, hào mục nổi dậy tấn công, ông ta bỏ thành chạy đến Hàm Giang. Đến khi nghe người Tây Sơn đã về nam, lại tập hợp binh mã về kinh, định mưu lập Đoan Quận công để chống lại vua. Đến khi Đoan Quận công bại chạy, nên ông ta mới theo Vương. Nghe tin Hữu Chỉnh lại đến, sợ không được dung thứ, liền dẫn quân về đông, xin cai quản hai trấn Hải Dương và An Quảng để tránh họa. Vương chạy về Quế Ổ, Nhưỡng bay lượn ở phía đông, chưa từng một lần thăm hỏi Vương. Đến lúc Vương đến đây lại một mực lạnh nhạt, lễ nghĩa sơ sài. Toại và Châu ngày đêm ở bên cạnh Vương. Đối với Toại thì Nhưỡng ghen ghét vì Toại là con nhà tướng, đối với Châu thì khinh bỉ vì Châu là người dân thường. Hai người lo sợ tình thế, e có điều bất trắc, đều từ biệt Vương, cùng ngày xin đi. Vương khóc mà tiễn họ, nói:
- Tục ngữ có câu: ‘Đuối nước mà gặp bọt nước, không thể nương tựa được.’ Ta chẳng bao lâu nữa cũng sẽ đi, hà tất phải giữ các khanh lại làm gì.
Vương ở lại hơn mười ngày, Nhưỡng không hề nói đến việc quân việc nước. Bỗng một đêm, Nhượng đến gặp Vương thưa rằng:
- Trời trong trăng sáng, cảnh thu đẹp nhất, thần đã chuẩn bị rượu lên thuyền chờ sẵn, xin vương ghé thăm ngắm cảnh, để giải tỏa nỗi lòng.
Vương buồn bã nói:
- Phong cảnh không khác, nhưng nhìn lên lại có điều khác lạ ở Bắc Hà. Ta chưa thể diệt kẻ thù, không quên mặc giáp, đi thuyền uống rượu, không phải việc của ta hôm nay. Tướng quân cứ đi chơi đi.
Nhưỡng đã đi rồi, Vương dựa án buồn bã, nói với thị giả:
- Võ nhân đều không thể tin cậy, hay là văn thần thì sao!
Bèn viết thư mật sai sứ giả đưa cho Bình chương Đặng Quỹ登揆. Thư rằng:
“Đời này không gặp thời, gặp nhiều tai họa cho đất nước. Với thân phận là dòng dõi đích tôn của vương thất, ta mang nặng nỗi lo lắng cho tông miếu xã tắc. Dâng biểu tấu trình, được ban cho về triều yết kiến, ban đầu ta chỉ muốn giữ gìn việc thờ cúng tổ tiên làm tròn đạo hiếu, thực không có lòng tự tiện chiếm cứ đất nước đâu."
Quỹ trình thư lên, vua buồn rầu nói:
- Tấm lòng thành của vương, trẫm đã thấu hiểu, chỉ vì không giỏi xử lý biến cố mà đến nông nỗi này. Nếu quả thật đã biết hối cải, trẫm nhất định sẽ hậu đãi, không những giữ được tông quốc mà phú quý cũng không mất.
Thế là, vua sai Quỹ làm sứ giả dẫn đường, đón vương về triều. Lúc bấy giờ, vương đang ở Hàm Giang, nghe rằng Nhưỡng và Chỉnh bí mật thông tin qua lại, nghi ngờ họ có ý đồ khác, than rằng:
- Đây không phải là nơi tốt lành để ở, ta thà lênh đênh trên biển vào núi, chứ không chịu ngồi yên chịu nhục.
Liền sai thị giả bí mật bàn bạc mượn thuyền buôn, nhân đêm tối đưa tùy tùng lên thuyền, thuận gió giương buồm, thẳng tiến về Sơn Nam. Sáng sớm, Nhưỡng mới hay tin, kinh ngạc nói:
- Vương về phía Nam mà không báo cho ta, chẳng lẽ nghi ngờ ý ta sao! Nếu ta không theo vương, lòng ta sẽ không minh bạch, thiên hạ sẽ nói gì về ta?
Cũng bèn sai thuyền binh đuổi theo sau. Vương đến Chân Định真定 [thời Lê, Chân Định là tên một huyện thuộc phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam. Ngày nay, huyện Chân Định tương ứng với huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình], Phạm Tôn Lân范尊麟 đến yết kiến tại bến thuyền. Lân là người Bác Trạch博澤, Chân Định. Tổ tiên của ông ta từng làm quan cao dưới thời Cảnh Hưng, ban đầu là danh tướng của Ân Vương, lập nhiều chiến công, gia thế hiển hách, từ lâu đã được các quận huyện phục tùng. Lân lại là người hào hiệp, trong nhà có hàng trăm thực khách, vũ khí giáp trụ đầy đủ, là hào mục đứng đầu vùng hạ trấn Sơn Nam. Đến đây, ông cùng vương bàn luận việc binh, lại vạch ra kế sách tiến thủ, vương rất vui mừng nói:
- Ta gặp được công hơi muộn rồi! Hãy cố gắng phò tá ta, để nối tiếp công đức của tổ tiên ngươi.
Lân nói:
- Thần vốn không có tài, may mắn được nương nhờ vương linh, nào dám không tận hết sức.
Thế là, ông rước vương về nhà mình, tự mình tập hợp môn khách bảo vệ. Ngày hôm sau, Nhưỡng theo đến, sai người dâng thư trước nói:
"Gia đình thần đời đời chịu ân sâu của quốc gia, một lòng với vương thất. Nay thần và Hữu Chỉnh tuy có chuyện cũ, nhưng thế không thể cùng tồn tại. Người trong cả nước đều biết điều đó, nào dám có lòng gì để làm nhục tổ tiên Xin vương xét rõ, để thần được cống hiến chút công sức, bù đắp lỗi lầm trước kia".
Vương hỏi Lân, Lân nói:
- Thần vốn nghe Nhưỡng là người trọng danh tiếng, được suy tôn là cự phách đất Đông Châu, may mắn được cùng làm việc, thần rất lấy làm mừng.
Ông ta hết lòng khuyên vương nên tin cậy dùng Nhưỡng để tăng thêm thế lực, vương chấp thuận. Lân liền tự mình đi đón Nhưỡng, cùng đến yết kiến. Từ đó hai người hòa hợp, bèn chuyển hịch đi các phủ Thái Bình太平, Kiến Xương建昌, Thiên Trường天長, hẹn ngày khởi binh đánh Chỉnh. Trong vòng mười ngày, số người quy phụ lên đến hàng vạn, hẹn ngày cùng tiến, thuyền bè chật sông, thanh thế vang dội, xa gần hưởng ứng, ai cũng cho rằng nghiệp vương sắp được khôi phục.
Con em các nhà cựu tộc như Đoạn Nguyễn Tuấn段阮俊, Phạm Giáp范玾, Nhữ Công Liêu汝公僚, Đào Nhữ Toản陶汝瓚 và những người khác, cũng đều mộ hương binh đến hội, đông tây khắp nơi cùng nổi dậy. Đăng Quỹ phụng mệnh đón vương, đi đến Tiên Hưng先興 thì đường bị chặn không thể tới được nên quay về. Vừa lúc có một du sĩ từ kinh sư đến yết kiến vương, nói rõ rằng Hữu Chỉnh kiêu căng làm càn, lòng dân ly tán, vua cũng đâm ra ghét bỏ, khuyên vương cấp tốc tiến binh đánh. Vương nói:
- Ta có người cũ là Bùi Thần Nhuận裴辰潤 ở kinh thành, nay giữ chức Kim Ngô Quân金吾軍, làm Đề lĩnh bốn cửa thành, có thể dùng làm nội ứng, chức vụ của Nhuận là tuần tra, ai sẽ nghi ngờ?"
Bèn sai người mang mật chỉ báo cho Nhuận. Nhuận bèn bàn bạc với những người thân tín, thay đổi tất cả lính tuần tra và lính gác ở các cửa trại.
Con trai của Chỉnh là Bái Xuyên Hầu Liêm沛川侯廉 biết được tình hình, liền phát binh bắt Nhuận, đồng thời sai tướng giữ trấn Sơn Nam là Tuyển, phát binh tấn công vương. Thủy quân đến sông Ngô Đồng桐江 [là một con sông nhỏ, một nhánh của sông Sào Khê, chảy qua vùng núi đá vôi Tràng An và là một phần của hệ thống sông Vạc. Sông Ngô Đồng nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, đặc biệt là khu vực Tam Cốc - Bích Động], còn bộ binh chưa vượt qua cửa sông Đại Hoàng大黃江口, thám tử về báo, Nhưỡng dùng hai mươi chiếc hải hạm nổi tiếng nhất, dàn ngang sông thành trận chữ nhất, đặt súng ở đầu thuyền, nhìn từ xa như tường thành. Khi quân của Tuyển đến, giao chiến, vì thuyền nhỏ không thể chống cự, bị súng Bảo Long寶龍銃bắn, liền chìm xuống sông [Súng Bảo Long là một loại súng thần công được sử dụng dưới thời Hậu Lê, đặc biệt là trong giai đoạn Lê Trung Hưng. Súng này có hình trụ tròn, dài khoảng 120-121cm, bao gồm các bộ phận như miệng súng, thân súng, bầu súng và chuôi súng. Súng Bảo Long được xem là một minh chứng cho kỹ thuật chế tác vũ khí quân sự tiên tiến của Việt Nam thế kỷ XVII.]. Tuyển sợ hãi, muốn lui về giữ Hoàng Giang để phối hợp với bộ binh. Vừa lúc gió đông nam nổi lên, Nhưỡng sai hải hạm chia ra đậu hai bờ, cột thuyền lên bờ, vung quân đi lên bờ, thừa gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Mà quân lính của Tuyển đều là ô hợp, việc tiến thoái chưa thuần thục lệnh hiệu, lại chần chừ không có ý chí chiến đấu, vừa lên bờ, hàng ngũ đã lộn xộn. Tuyển ở giữa sông nhìn thấy, kêu lớn:
- Quân của Nhưỡng bại rồi!
Thế là, quân Nhưỡng kinh hoàng đại bại, tranh nhau chạy thoát thân, giẫm đạp lên nhau, không thể kiểm soát được nữa. Thuyền bè bỏ lại bên bờ sông, đều bị quân Tuyển thu được. Quân của Lân ở phía sau nhìn thấy binh lính tan tác, đều cho rằng Nhưỡng đã bị giặc giết. Mọi người đều kinh ngạc run rẩy, Lân cũng không thể giữ được kỷ luật, cùng lúc tan vỡ. Lân liền hộ tống vương lên thuyền nhỏ một mình xuôi về Thái Bình, nửa đêm đến Đông Quan東關, chợt nghe tiếng trống điểm từng hồi, như tiếng hiệu lệnh quân hành. Có người nói là quân Tuyển đuổi theo, có người nghi là bọn cướp cướp bóc, sai thám tử dò xét, mới biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông陳孟匡.

1760349580183.png

súng Bảo Long寶龍銃
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760349618465.png

Hình ảnh minh họa trận đánh giữa Hoàng Viết Tuyển và Đinh Tích Nhưỡng trên sông Ngô Đồng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trần Mạnh Khuông là hào mục ở Đông Quan, gia sản giàu có, khá có nghĩa khí. Ban đầu nhận được hịch, liền tập hợp huyện binh hưởng ứng nghĩa, hẹn ngày này xuất phát, hiện đang đóng quân ở Bái Hạ không xa. Vương nghe xong, vội sai người triệu tập. Khuông theo sứ giả đến yết kiến, vương nói:
- Quả nhân tài đức kém cỏi, không tự lượng sức, động một chút là vấp ngã. Kế sách bây giờ nên làm thế nào?
Khuông nói:
- Thắng thua là chuyện thường của binh gia, dù là binh lính từng thắng nhiều trận cũng có lúc bại một trận. Do đó, các danh tướng thời xưa, trước tiên xem xét địa hình, xây dựng doanh trại, tích trữ lương thực, chuẩn bị cho lúc cấp bách. Tiến thì đủ sức lấy, lùi thì đủ sức giữ, đây là kế vạn toàn, hà cớ gì một trận bại lại bỏ chạy. Huyện thần có ấp Bái Hạ沛下邑, bốn mặt là đồng bằng màu mỡ, phía trước bị Đại Giang chặn, ra vào chỉ có một đường, lại có con suối nhỏ uốn khúc, bên ngoài thông với sông, có thể vận chuyển quân lương. Năm trước binh loạn, địa phương này nằm ở vị trí xung yếu phía đông nam, thần từng một lần sửa sang, hào lũy đã kiên cố, chỉ là liên tiếp mấy năm mất mùa, lương thực chưa thực sự đầy đủ! Xin vương tạm dời giá đến đó, từ từ tính kế sau.
Vương nghe theo, bổ nhiệm Lân làm Trưởng sử Quân phủ軍府長史, Khuông làm Hành doanh sứ行營使, dẫn binh vào đóng quân ở ấp Bái Hạ. Mới ở được một đêm, Khuông sai người trưng thu lương thực chưa đến, vừa lúc Chỉnh lại sai Nguyễn Như Thái阮如泰 dẫn bộ binh đến, cùng với Tuyển hợp binh tấn công. Thủy lục tiếp ứng, trước sau giáp công. Quân trong trại dựa vào hiểm yếu cố thủ, hơn mười ngày không thể phá được. Tuyển bèn đắp trường lũy để cắt đứt đường lương thực. Quân vương hết lương, đến nỗi phải đào rễ chuối mà ăn, thế càng khốn đốn. Lân và Khuông vội kêu gọi thuộc hạ nói:
- Thà làm quỷ đói ở Bái Hạ, chi bằng quyết một trận tử chiến, nhanh chóng giết vài trăm người. Các ngươi ai có thể cùng ta đồng lòng đồng sức, để ta không phụ vương, các ngươi cũng không phụ ta. Dù chết cũng không mất tiếng là quỷ trung nghĩa, may mắn không chết, sau này công nghiệp không thể lường được!
Mọi người đều cảm kích, có hơn một trăm người tình nguyện đi theo. Sau nửa đêm, mỗi người đi thuyền tre từ đường suối, nhân lúc Tuyển và Thái không đề phòng, phóng hỏa đốt doanh trại của chúng. Hai người đó hoảng loạn không thể chống cự. Lân và Khuông bèn phá vây hộ tống vương thoát ra, cướp thuyền đi về phía đông từ cửa biển. Tuyển dẫn binh truy kích nhưng không kịp. Thái thả quân vào Bái Hạ tàn sát lớn, không còn sót lại nam nữ già trẻ nào. Từ khi binh biến nổi dậy, không nơi nào không có binh đao, nhưng sự tàn sát thảm khốc chưa từng có nơi nào bằng nơi này.

-----------------​
Hình minh họa trận đánh giữa Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Như Thái và quân của Trần Mạnh Khuông, Lân tại Bái Hạ, Thái Bình.
1760349710413.png

1760349729231.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Kể từ sau thất bại ở Ngô Đồng, Nhuỡng một mình chạy về phía đông, chiến thuyền và quân tư bị bỏ lại gần hết. Đến khi đồn bãi ở Bái Hạ tan vỡ, vương chạy về Hải Dương, rồi cùng với Lân và những người khác đi thuyền ra biển, đến An Quảng安廣, giả làm khách buôn, chia nhau trú trong nhà dân ở châu Vạn Ninh萬寧州. [An Quảng" là tên gọi cũ của tỉnh Quảng Ninh ngày nay, An Quảng thời Lê bao gồm các khu vực như Động Linh, Khoái Lạc (nay thuộc xã Minh Thành, thị xã Quảng Yên), Xích Thổ (nay thuộc thành phố Hạ Long), Cẩm Phả, và Vạn Ninh]
[Châu Vạn Ninh thuộc phủ Hải Đông, trấn An Quảng. Dưới châu có các tổng như Vạn Ninh, Bát Trang, và một phần tổng Hà Môn]
Không lâu sau, Lân lấy việc nhà cáo từ trở về, những người theo vương chỉ còn một mình Mạnh và Khuông. Hơn một tháng sau, Khuông mắc bệnh qua đời, bên cạnh vương không còn ai, lưu lạc nơi hải ngoại, tình cảnh vô cùng tiêu điều. Vương tự nghĩ:
“Phú quý phù du trong đời đều là giấc mộng. Người xưa từng tự hứa, nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh vào nhà vua. Phật xót thương mọi chúng sinh chìm đắm trong bể khổ, người thông thái thấu đạt chân lý, đó thực sự là tấm gương sáng muôn đời. Khi ta ở Chương Đức彰德, đã có ý nghĩ này”
Bèn tự giải tỏa mọi phiền não trần tục, lấy pháp hiệu là Hải Đạt Thiền Sư海達禪師, đi khắp các chùa ở Lạng Sơn, Cao Bằng.
Có học trò ở Kinh Bắc tên Võ Kiền武虔, tránh loạn ở Lạng Sơn, gặp vương tại chùa Tam Giáo三教寺, nghe vương đàm kinh thuyết pháp, trong lòng biết ngay đó là Vương. Bèn báo cho các bầy tôi của mình là Hà Quốc Ký何國驥, Nguyễn Khắc Trần阮克陳 và những người khác. Hai người bèn lấy cớ làm lễ trai giới, mời vương về nhà, rồi đuổi người ngoài ra và tâu rằng:
- Bọn thần đời đời trấn giữ biên thùy, từ xa ngưỡng mộ uy đức triều đình, chỉ nghe người ta nói Lê Hoàng黎皇, Trịnh Vương鄭王 như ở trên trời, thiên hạ vô sự, bọn thần làm sao có thể gặp được Vương? Không may quốc gia gặp nạn, long giá phải lánh xa sa mạc, thần dân ai mà không đau lòng? Đây chính là thời cơ tốt để trung thần nghĩa sĩ ra sức phò tá. Thần xin phụng vương về Đoàn Thành團城, hiệu triệu đại nghĩa để khôi phục cơ nghiệp, ngưỡng nhờ hồng phúc, đại công sẽ thành, những kẻ man di nhỏ bé, may mắn được liệt vào hàng cuối của Đài Vân, đó là nguyện vọng của bọn thần.
Vương nhắm mắt chắp tay từ tốn đáp:
- Lão tăng đã xuất gia tu thiền, can dự gì đến việc đời? Các ông đừng nhận lầm, lại trong cảnh tĩnh lặng này mà gây ra bao phiền não. Thiên hạ ai làm đế vương, tự có chân mệnh, lão tăng chỉ biết một bình một bát, chống gậy nơi cửa Phật, làm đệ tử của Như Lai mà thôi!
Kiên cũng đáp:
- Thần tuy chưa được hầu hạ trong vương phủ, nhưng những ngày du học kinh đô, trộm thường ngưỡng vọng uy nhan. Người dân trong nước còn có lòng này, Vương cũng không thể từ chối. Thần nghe nghiệp vương khó khăn, không phải ngồi yên mà làm được, bởi vậy Hán Quang漢光 tóc bạc trắng, tiên vương đùi thịt đều tiêu hết. Nguy biến gần đây ở Quế Ổ, Bái Hạ, cũng là trận chiến ở Tuy Thủy, Hô Đà. Chỉ vì không nản lòng, không thất bại, cuối cùng mới thành đại nghiệp. Chưa từng nghe đế vương đường đường chính chính lại rút lui làm tăng nhàn. Xin vương hãy suy nghĩ.
[Hán Quang漢光 tóc bạc trắng, tiên vương đùi thịt đều tiêu hết; không rõ Kiền đang dùng điển tích gì?]
[Tuy Thủy, Hô Đà: tên 2 con sông xưa ở Trung Quốc]
Vương ngồi xuống đáp:
- Lúa tuy mọc lên [ý nói đất nước thay đổi, gợi cảm giác hoài niệm, đau lòng khi thấy cảnh cũ nay khác], chạm mắt đều cảm động, ta không phải cây gỗ đá, sao có thể không buồn? Thế nhưng dốc hết sức mình cũng không thể tranh với trời, nên ta đành nhẫn nhịn để tự bảo toàn, sao dám vọng đồ mà lại mắc sai lầm nữa?
Vương đã lộ bản sắc, bèn bị quần thần khống chế. Hạ chiếu điểm binh, trưng lương. Ký, Trần và những người khác đều là kẻ tầm thường, không thể nghiêm khắc quản thúc thủ hạ, ngang nhiên làm việc phi pháp, dân không chịu nổi, bèn nổi loạn. Giết Ký, Trần và đuổi vương đi. Vương chạy đến Hữu Lũng右隴, từ đó ẩn tích trong rừng núi, người trong nước không còn biết Vương ở đâu nữa!
Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm được phong vương, truyền đến Thịnh Vương Trịnh Sâm, trải qua tám đời thì gây ra loạn. Lại có Đoan Nam Vương Trịnh Khải, Yến Đô Vương Trịnh Bồng thì vương triều chấm dứt, trước sau cộng lại được 242 năm. Theo ghi chép về nơi khởi nghiệp tổ tiên thì nói:

非帝非伯,權傾天下,八代傳家,蕭牆起禍
[Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, bát đại truyền gia, tiêu tường khởi họa]
Không phải là Đế cũng chẳng phải Bá [vua các chư hầu], lại nắm quyền lực lấn áp cả thiên hạ, tám đời truyền nối trong nhà, tai họa nổ ra ngay từ nội bộ.
Lý lẽ hưng vong, tuy thuộc về việc của con người, nhưng cũng tự có số mệnh.

1760349784132.png

Minh họa chúa Trịnh Bồng xuất gia, lấy pháp hiệu là Hải Đạt Thiền Sư海達禪師
 

Mr. Bảnh

Xe buýt
Biển số
OF-866082
Ngày cấp bằng
17/8/24
Số km
810
Động cơ
1,490,855 Mã lực
Tuổi
55
Nơi ở
Xã mạnh nhất VN
Bái phục cụ, e hóng :">:">:">

Các cụ yêu Lịch sử đều biết cuốn tiểu thuyết Lịch sử nổi tiếng : Hoàng Lê nhất thống chí.
Mặc dù đã có nhiều bản dịch, tiêu biểu nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố năm 1942 (tái bản 1958), bản dịch của Nguyễn Đăng Tấn – Nguyễn Công Liên xuất bản năm 1950 dưới tiêu đề Hậu Lê thống chí, bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch xuất bản năm 1964, tái bản vào năm 1970; 1984; 1987 và được nhà xuất bản Giáo dục xuất bản nhưng ở thể chọn lọc dùng trong nhà trường. Tuy nhiên, em vẫn quyết dịnh dịch lại toàn bộ tác phẩm từ nguyên tác chữ Hán, với quan điểm là dịch đúng nguyên tác, giữ lại đầy đủ văn phong thế kỷ 18,bổ sung những phần còn thiếu mà các bản dịch trước đây chưa dịch hoặc dịch không trọn vẹn, hiệu đính lại các danh từ tên riêng, bổ sung chú thích cụ thể về địa danh trong sách và cung cấp cho người đọc thông tin về địa danh đó ở hiện tại,không sử dụng quá nhiều ngôn ngữ hiện đại nhằm đưa Hoàng Lê nhất thống chí đến gần hơn với độc giả hiện đại, giúp người đọc không biết chữ Hán vẫn có thể tiếp cận một trong những di sản văn học quý giá bậc nhất của dân tộc. Trong quá trình chuyển ngữ, chúng tôi cố gắng giữ lại phong vị cổ kính của nguyên tác, đồng thời diễn đạt bằng tiếng Việt trong sáng, dễ hiểu, có chú thích cần thiết để giúp người đọc nắm được bối cảnh lịch sử và văn hóa của từng sự kiện, nhân vật. Với tranh minh họa, chắc chắn bản dịch mới sẽ làm các cụ thêm hứng thú và yêu quý lịch sử nước nhà hơn.
Trong bản dịch mới này, em có bổ sung rất nhiều tài liệu mới được công bố của phía Trung Quốc, Đài Loan và cả thư từ, ghi chép gốc của các giáo sĩ phương Tây có mặt tại nước ta đúng vào thời điểm ấy, những tài liệu này giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, khách quan hơn, đồng thời cũng giúp bạn đọc đối chiếu, so sánh với những gì mà Hoàng Lê nhất thống chí nghi chép, các sách đó bao gồm:
1. Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược
2. Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục
3. Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện
4. Thanh Sử Cảo
5. Cố Cung Bác Vật Viện (Ðài Loan)
6. Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành
7. Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu
8. Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi Quân Nhu Nghiên Cứu
9. Bulletin des Amis du Vieux Huế
10. Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient
11. Tập San Sử Ðịa [Saigon]
12. Lưu trữ Hội truyền giáo Paris [Missions étrangères de Paris – MEP]
13. Việt-Thanh chiến dịch [Nguyễn Duy Chính]
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top