[Funland] Lịch sử văn minh phương Tây - Từ Hy Lạp đến La Mã

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
494
Động cơ
33,484 Mã lực
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
 

formen

Xe cút kít
Biển số
OF-485699
Ngày cấp bằng
27/1/17
Số km
16,692
Động cơ
434,988 Mã lực
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
Mời 2 cụ thẩm thử cách tiếp cận thần thoại của genz phương pháp: tóm tắt bằng video.

Với em thì kiểu này rất hợp, băm hình tháp chứ không phải đọc tuần tự.
Chờ chút em dán link...

Cccm đeo tai nghe k cần xem cũng đc, hài phết và nhìn lượt view cũng thể hiện nội dung có sức hút rất khá.

Toàn bộ thần thoại hy lạp


Toàn bộ tam quốc.

 
Chỉnh sửa cuối:

gsm615

Xe điện
Biển số
OF-863932
Ngày cấp bằng
19/7/24
Số km
2,165
Động cơ
61,769 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Em nhớ nhất cụ Zeus, thần sấm sét của Hy lạp, nổi tiếng đa tình.
Ngoài bà Hera vợ chính, cụ còn có cả khối bạn tình trên giời với 1 đống con cái, đến người trần (thôn nữ) cụ cũng không tha để có những người anh hùng như Heracles, Perseus...
Bản chất chiếm hữu phụ nữ có từ ngàn xưa.
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,996
Động cơ
400,112 Mã lực
Em nhớ nhất cụ Zeus, thần sấm sét của Hy lạp, nổi tiếng đa tình.
Ngoài bà Hera vợ chính, cụ còn có cả khối bạn tình trên giời với 1 đống con cái, đến người trần (thôn nữ) cụ cũng không tha để có những người anh hùng như Heracles, Perseus...
Bản chất chiếm hữu phụ nữ có từ ngàn xưa.

Nhóm nhỏ những người Judae di cư từ các đảo đến Hy Lạp Athen và Sparta. Họ muốn chiếm quyền kiểm soát thành bang - bộ tộc của người Athens Spata, Thebes, Corinth, Macedonian ... Không dễ. Họ phải dụ các vương tôn quý tộc sống buông thả phóng dật đi, gái gú rượu chè be bét đi .. Khi có nhiều phốt thì nhóm Tinh hoa mới dễ dàng thao túng, giật dây xúi dục họ bảo đấm bang này, đá bang kia, theo liên minh nọ, hợp tác với tay kia để bem thằng ni... Nhóm tinh hoa đã tha hóa người Hy Lạp đến rận gốc rễ !...
 

lehahai

Xe tăng
Biển số
OF-1588
Ngày cấp bằng
30/8/06
Số km
1,010
Động cơ
214,277 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
Cụ nói y hệt thằng cu nhà cháu (gen Z đời gần cuối) chê gen Alpha.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
855
Động cơ
799,393 Mã lực
1765505884938.png


Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
494
Động cơ
33,484 Mã lực
View attachment 9427000

Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
Phần viết này rất chi tiết và tổng hợp nhiều loại kiến thức nền tảng. Rất là tốt đẹp xạ thu. =D>
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,996
Động cơ
400,112 Mã lực
View attachment 9427000

Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
Em bổ xung là nhóm Tinh Hoa Judae ngoài đem chiến tranh họ còn mang đến Hy Lạp 🇬🇷 chữ viết. Ban đầu chữ viết Hy Lạp không đủ diễn tả, những mục sư nhà buôn Judae mở rộng phát triển và chính họ là người chép thần thoại Hy Lạp. Họ chép kinh thánh về thiên chúa Ibrahim,.. Triết học Hy Lạp xuất phát từ thần học, tâm linh.

Đóng góp đáng kể của giới Tinh Hoa cho Hy Lạp đó là môn kế toán. Sổ cái kế toán sử dụng để ghi chép chiến lợi phẩm, phân chia tiền, chiến lợi phẩm hậu chiến tranh, buôn bán, lỗ lãi, ...và kế toán sổ cái vẫn được dùng đến ngày nay.
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
494
Động cơ
33,484 Mã lực
Em bổ xung là nhóm Tinh Hoa Judae ngoài đem chiến tranh họ còn mang đến Hy Lạp 🇬🇷 chữ viết. Ban đầu chữ viết Hy Lạp không đủ diễn tả, những mục sư nhà buôn Judae mở rộng phát triển và chính họ là người chép thần thoại Hy Lạp. Họ chép kinh thánh về thiên chúa Ibrahim,.. Triết học Hy Lạp xuất phát từ thần học, tâm linh.

Đóng góp đáng kể của giới Tinh Hoa cho Hy Lạp đó là môn kế toán. Sổ cái kế toán sử dụng để ghi chép chiến lợi phẩm, phân chia tiền, chiến lợi phẩm hậu chiến tranh, buôn bán, lỗ lãi, ...và kế toán sổ cái vẫn được dùng đến ngày nay.
Thế hóa ra bọn Judae này ngoài việc bán Chúa còn làm được nhiều việc có ích đấy chứ nhỉ giáo sư? Mà sao bọn này lại đi khắp nơi sang đến cả TQ như hôm nọ giáo sư kể, là thế nào nhỉ? Giáo sư hôm nào mát giời xin kể một đoạn kỹ hơn về bọn này xem sao? Mời giáo sư xem clip operarock mô tả tên Judah bán Chúa. Xạ thu =))

 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top