Chiến tranh Peloponnesus đã bắt đầu, nhưng trận đầu tiên lại nổ ra giữa hai thằng đàn em.
Kể từ khi Sparta tuyên chiến với Athens, suốt 7 tháng ròng, hai bên chỉ đứng gầm gừ võ mồm, chẳng ai chịu động thủ. Một mặt là đang đấu tâm lý, mặt khác, hai đại ca lưu manh này đều đang cẩn trọng thăm dò đối thủ, nhìn chung vẫn giữ được cái đầu lạnh.
Kẻ đầu tiên mất kiên nhẫn lại là Thebes, đàn em của Sparta.
Chúng ta cần ôn lại lịch sử một chút.
Mọi người nhìn bản đồ sẽ thấy, Thebes và Plataea nằm sát sạt nhau. Cái vị trí địa lý này khiến Thebes cực kỳ ức chế: Thebes là đàn em của Sparta, nhưng lại nằm ngay trên địa bàn của Athens. Vị trí này vốn đã khó xử, lại vớ ngay phải thằng hàng xóm Plataea mặt đối mặt, mà cả cái xứ Hy Lạp ai cũng biết Plataea là đàn em trung thành nhất của Athens. Từ thời Peisistratus, trải qua hai cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư cho đến khi Đế chế Athens trỗi dậy, Plataea trước sau như một, một lòng một dạ với Athens. Bạn hẳn còn nhớ trận đồng bằng Plataea chứ? Trận ôm giáo vác khiên giả thua rút lên núi ấy!
Nếu bạn là lãnh đạo Thebes, mỗi ngày mở mắt ra là thấy cái thế cục này, bạn có thấy buồn nôn không? Bên cạnh lúc nào cũng có con chó của Athens chằm chằm nhìn vào nhất cử nhất động của mình, hơi muốn làm gì đó to tát một tí là thằng Plataea lại nhảy ra cà khịa, mà bạn lại không được phát tác, nếu không thằng bảo kê Athens sau lưng nó sẽ đích thân đến dạy cho bạn một bài học.
Mà lịch sử đúng là đã từng có vụ Athens xuất binh chiếm đóng Thebes (xem lại phần Athens: Bố mày chấp tất), chiếm một phát gần mười năm trời. Nếu không nhờ Sparta sau đó can thiệp, Thebes chắc đã vong quốc luôn rồi. Dù sao thì người ta cũng mang danh là một trong "Ngũ đại bảo kê Hy Lạp", đoạn quá khứ tủi nhục ấy khiến Thebes mất hết mặt mũi. Cũng chính vì lý do này, Thebes vốn đã đầy một bụng lửa với Athens, nay càng kiên định đứng về phe Sparta.
Cho nên, vì ân oán lịch sử cộng thêm điều kiện địa lý thực tế, Thebes nằm mơ cũng muốn tìm cơ hội thịt thằng Plataea. Khổ nỗi sau Hiệp ước Ba mươi năm, hai đại ca Athens và Sparta đã phân chia địa bàn, muốn kiếm cớ gây sự cũng không có cửa.
Nhưng bây giờ thì khác rồi, Sparta đã tuyên chiến với Athens. Là thành viên liên minh, Thebes tự động tuyên chiến với Athens, đồng nghĩa với việc tuyên chiến với các đàn em của Athens. Điều này mang đến cho Thebes cơ hội ngàn năm có một để xử lý Plataea. Đó chính là trận đầu tiên của Chiến tranh Peloponnesus: Trận tập kích Plataea.
Diễn biến trận này cũng đầy kịch tính: Kẻ đi giết người lại bị người giết ngược.
Nếu ai từng đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, chắc nhớ trận Thượng Phương Cốc kinh điển giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý. Đại quân Tư Mã Ý bị dụ vào hẻm núi, bị quân Thục vây chặt, gỗ đá lăn xuống cộng thêm hỏa công. Ngay lúc ngọn lửa sắp tiễn cha con Tư Mã về chầu Tào Tháo thì ông trời đổ một trận mưa rào dập tắt lửa, dập tắt luôn hy vọng cuối cùng của Gia Cát Lượng, giúp cha con Tư Mã Ý thoát chết.
Câu chuyện này trong lịch sử không có thật, ngọn lửa đó là do La Quán Trung đốt hộ Gia Cát Lượng thôi, nhưng từ tình tiết này, chúng ta rút ra một kinh nghiệm cực kỳ thực tế:
Ra đường nhớ xem dự báo thời tiết.
Thebes chính là kẻ đen đủi mải ra đường mà quên xem thời tiết.
Để tiêu diệt Plataea, Thebes đã lên một kế hoạch chi tiết. Cụ thể là chọn một đêm trăng thanh gió mát, hoặc tối trời càng tốt, chia quân làm hai đường gồm quân tiên phong và quân chủ lực. Quân tiên phong gồm 300 người, trang bị gọn nhẹ, lợi dụng đêm tối bí mật lẻn vào thành Plataea, với tốc độ nhanh nhất chiếm lĩnh các cứ điểm quân sự và cơ quan hành chính, xử đám quan chức quân sự và hành chính trong thành, sau đó mở cổng thành. Tiếp theo, quân chủ lực phía sau sẽ kịp thời áp sát bên ngoài, chỉ chờ cửa mở là tràn vào.
Kế hoạch này phải nói là rất chu đáo. Quân tiên phong cũng xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ, họ mò vào được thành Plataea, chỗ cần chiếm đã chiếm, người cần xử cũng xử lý gọn gàng, sau đó theo đúng kế hoạch mở cổng chờ đồng đội.
Gần như là thành công rồi.
Nhưng rất tiếc, chỉ là gần như.
Đám quân tiên phong mở cổng thành, vươn cổ dài như ngỗng chờ mở tiệc ăn mừng, kết quả đợi đến tận sáng bảnh mắt ra cũng chẳng thấy ma nào.
Người đâu?
Chuyện là trong lúc quân tiên phong đang đánh úp trong thành, thì quân chủ lực Thebes cũng thục mạng chạy tới Plataea, mọi việc vốn thuận lợi. Lúc đó biên giới giữa Thebes và Plataea là một con sông. Con sông này bình thường nước rất nông, ai cũng lội qua được, nên khi lập kế hoạch người Thebes chẳng thèm để ý đến nó.
Nhưng đúng vào ngày tác chiến, ông trời đã đùa dai với người Thebes một vố:
Đêm đó mưa như trút nước!
Mưa lớn khiến mực nước và dòng chảy con sông tăng vọt gấp mười mấy lần bình thường. Khi quân Thebes đến bờ sông thì nghệt mặt ra: Không lội qua nổi. Do không có phương án dự phòng, đám lính tráng Thebes chỉ biết đứng bờ bên này trừng mắt nhìn. Kết quả là kế hoạch tập kích đêm bị một con sông dâng nước phá hỏng hoàn toàn.
Đại quân không qua được dẫn đến phản ứng dây chuyền: 300 anh em quân tiên phong coi như xong đời.
Cư dân trong thành Plataea lúc đầu nghe tin có người tập kích thì sợ thật, nhất là khi nghe tin quan chức tướng tá bị giết sạch, cả thành phố hoảng loạn. Nhưng do quân tiếp viện Thebes mãi không thấy đâu, dân Plataea sau cơn hoảng loạn phát hiện ra: Hình như quân địch không đông lắm. Người Plataea hoàn hồn và bắt đầu tổ chức phản kháng thăm dò. Quân tiên phong Thebes vỏn vẹn 300 mống, làm sao gây được sóng gió lớn? Rất nhanh người Plataea nắm được tình hình:
Hóa ra là bọn trộm chó ấy mà!
Hiểu rõ tình thế, người Plataea lập tức phản công, và đó là một cuộc chiến tranh nhân dân biển người đúng nghĩa.
Đàn ông Plataea vác vũ khí, đốt đuốc lùng sục quân Thebes khắp thành. Phụ nữ cũng không rảnh rỗi, họ đưa người già trẻ em lên mái nhà, vừa đảm bảo an toàn, vừa khuân đá tảng lên đó, từ trên cao quan sát địch, thấy kẻ nào khả nghi là ném đá xuống. Đây là ví dụ cổ xưa nhất về phối hợp hỏa lực tác chiến không gian ba chiều mà tôi từng thấy.
Cuộc phản công kéo dài đến khi phương Đông hửng sáng.
Vốn dĩ nhờ bóng đêm mà 300 quân Thebes còn có chỗ nấp, nhưng khi mặt trời lên, các anh giai này phơi mình giữa thanh thiên bạch nhật, chạy đằng trời. Sau một đêm, một nửa số này đăng xuất, một nửa còn lại bị bắt sống.
Thế là trận chiến gươm thật giáo thật đầu tiên của cuộc chiến tranh Peloponnesus lừng danh lịch sử đã kết thúc một cách đầy kịch tính như vậy.
Phía Athens rất nhanh nhận được tin. Pericles nhạy bén cảm thấy hơn một trăm tù binh kia có giá trị cực lớn, bèn lập tức phái quan chức Athens đến Plataea, định bụng tiếp quản đám tù binh này ngay lập tức.
Nhưng chậm một bước.
Khi người Athens đến nơi, đám tù binh này đã bị người Plataea đang cơn thịnh nộ đem ra xử tử sạch sẽ.
Pericles cực kỳ bực mình. Bởi vì đám tù binh Thebes này đều là chiến binh tinh nhuệ, có giá trị chiến lược quan trọng với Thebes. Pericles mà nắm đám người này trong tay thì sẽ có con bài để đàm phán, giành thế chủ động trong các ván cờ sau này. Quan trọng hơn, Pericles không muốn làm căng quan hệ với Thebes quá mức. Nếu trao trả tù binh để đổi lấy sự hòa hoãn thì áp lực bên ngoài của Athens sẽ giảm đi, Pericles có thể tập trung đối phó Sparta. Giờ thì hay rồi, Plataea giết sạch đám này, khiến mối quan hệ vốn đã căng thẳng nay càng nát bét, khả năng cải thiện quan hệ coi như tắt ngấm. Tiếp theo, Thebes chắc chắn sẽ khô máu với Athens đến cùng.
Bực thì bực, nhưng Pericles nhận ra ông phải chuẩn bị đối phó với những gì sắp xảy ra.
Thứ nhất là phải phòng thủ cho Plataea. Vì Thebes kiểu gì cũng chạy đến mách Sparta, lúc đó Sparta dù cẩn thận đến mấy cũng phải ra mặt cho đàn em. Lục quân Sparta chắc chắn sẽ xuất động, Plataea sẽ hứng chịu cơn thịnh nộ báo thù của đại quân Sparta.
Thứ hai, bản thân Athens cũng phải chuẩn bị. Vì một khi đánh thật, đừng nói Plataea không chịu nổi nhiệt, mà ngay cả trình độ lục quân của Athens cũng chưa chắc đỡ nổi đám Sparta trâu bò. Do đó Pericles phải nghĩ ra cách lấy sở trường bù sở đoản, vừa đỡ được đòn sấm sét của Sparta, vừa có thể phản kích và kiềm chế đối thủ.
Giờ chúng ta hãy xem động thái bên phía Sparta.
Quả nhiên, đám Thebes thua trận chạy ngay đến trước mặt Sparta khóc lóc om sòm. Năm vị Giám sát quan nổi cơn tam bành, kiên quyết yêu cầu Vua xuất binh diệt đám khốn kiếp kia. Vua Sparta lúc bấy giờ là Archidamus II. Đây là một người chín chắn, điềm đạm. Dù ông cũng thấy sự việc nghiêm trọng, nhưng ông không tán thành việc khai chiến toàn diện với Athens. Lý do của Archidamus rất xác đáng: Vụ ẩu đả này nói cho cùng là do Thebes ra tay trước, phía Athens cùng lắm chỉ là tự vệ thôi. Thebes các chú giờ bày đặt đóng vai nạn nhân, có biết liêm sỉ là gì không?
Đồng thời, điểm khác biệt giữa Archidamus và đám đàn ông cục súc Sparta là ông có cái đầu cực kỳ tỉnh táo. Ông biết thực lực Athens quá mạnh, không thể dùng logic đối phó đối thủ thông thường để áp dụng với Athens. Chưa nói cái khác, tường thành Athens kiên cố, cảng biển và thành phố vững như bàn thạch, chỉ riêng điều này đã quyết định việc Sparta khó mà san phẳng đối thủ trong thời gian ngắn. Cộng thêm việc Archidamus rất hiểu Pericles, ông biết Pericles chắc chắn đã chuẩn bị kỹ. Nếu nghe theo lời mấy ông Giám sát quan mà khô máu với Athens, chắc chắn sẽ biến thành cuộc chiến giằng co dai dẳng, cuối cùng cả hai cùng nát.
Vì lý do đó, trong phòng họp cấp cao Sparta, Archidamus kiên quyết không đồng ý khai chiến toàn diện. Do đó, dù hội nghị cao cấp Sparta vẫn quyết định xuất binh, nhưng trong giai đoạn thực thi, Archidamus tỏ ra vô cùng thận trọng. Ông không đánh nhanh thắng nhanh, mà vừa đi vừa nghỉ, dọc đường chỉ đánh đấm lặt vặt, chậm chạp lết về hướng Athens. Ông muốn xem phản ứng của Athens, xem Athens quyết tâm sống chết với Sparta hay vẫn còn giữ kẽ.
Khi Archidamus dẫn quân bước vào vùng Attica (khu vực Athens tọa lạc), vừa liếc mắt nhìn cảnh tượng ngoại ô Athens, ông hiểu ngay tâm tư của Pericles.
Ngoại ô Athens không một bóng người.
Ngoại ô Athens vốn tập trung rất nhiều nông trại và điền trang, là nơi trồng lúa mì, nho và ô liu chủ yếu, lẽ ra phải đông đúc nhộn nhịp. Nhưng nơi quân Archidamus đi qua chỉ thấy một sự tĩnh lặng. Cư dân rõ ràng đã được sơ tán khẩn cấp, đồ tế nhuyễn của riêng tây trong nhà mang đi được là mang hết. Hoa màu ngoài ruộng cũng bị gặt sạch, để lại cho Archidamus chỉ là những ngôi nhà rỗng tuếch, những ngôi làng và cánh đồng trơ trọi.
Đồng thời thám tử báo về, không chỉ vùng quanh Attica, mà ngay cả phụ nữ trẻ em ở thành Plataea cũng đã được đưa vào nội thành Athens bảo vệ từ sớm. Plataea hiện giờ cũng thực hiện vườn không nhà trống, trong thành chỉ còn quân đội và lương thảo đầy ắp, sẵn sàng tử thủ.
Archidamus dù sao cũng là bạn cũ của Pericles, dựa vào sự hiểu biết về bạn mình, ông lập tức đọc vị được chiến thuật của Pericles.
Ưu thế của Athens là hải quân, lục quân không lại Sparta. Với Pericles, chẳng có lý do gì dùng lục quân yếu thế của mình để đập nhau với Sparta, mà phải phát huy sở trường né sở đoản. Sparta các ông xâm lược vùng Attica trên đất liền à? Thế thì tôi dùng hải quân quấy rối bán đảo Peloponnesus nhà ông. Ông đốt phá quanh Athens, tôi sẽ đến các thành bang và làng mạc ven biển của Sparta để gỡ gạc lại thiệt hại. Nói cách khác, Pericles đang chơi trò tiêu hao với Sparta.
Mà Athens thì sợ gì tiêu hao.
Chúng ta đã nói ở trước, cột trụ sinh tồn của Athens là thủ công nghiệp và vận tải biển. Cho dù nông trại, làng mạc trên đất liền bị phá hủy, chỉ cần cảng biển và đường biển thông suốt, Athens sẽ có nguồn thu và vật tư tiếp tế không ngừng. Athens lại có tường thành kiên cố nối liền thành phố với cảng biển (các bạn nhớ vụ xây tường chứ?), Sparta không thể chạm vào tuyến sinh mệnh của Athens, vậy thì Athens đủ sức chơi lầy với Sparta. Còn Sparta kinh tế yếu kém, không nuôi nổi cuộc chiến tiêu hao quy mô lớn dài ngày. Dựa vào chiến thuật này, Pericles có thể từ từ cù cưa, đến khi kinh tế Sparta chịu không nổi, ý chí chiến đấu của người dân giảm sút, lúc đó Athens có thể bình tĩnh ngồi xuống đàm phán, chiến tranh kết thúc.
Chiến thuật tiêu hao tốn kém rất lớn, nhưng là một lựa chọn khá kiềm chế. Vì nói cho cùng, đây là chiến lược phòng thủ chứ không phải tấn công. Điều này cho thấy trong thâm tâm Pericles cũng hiểu việc khô máu toàn diện với Sparta rủi ro quá cao, cái giá quá đắt. Chiến thuật tiêu hao giúp kiểm soát thiệt hại và quy mô cuộc chiến trong phạm vi hai bên chấp nhận được, nhìn xa thì đây là lựa chọn lý trí.
Tóm lại, Pericles không muốn đánh to với Sparta.
Hiểu rõ tình hình, Archidamus bèn ra lệnh cho bộ binh Sparta giày xéo mấy khu vực không người này một trận. Đồ đạc trong nhà cái gì quý thì lấy, không lấy được thì đập; cây nho, cây ô liu ngoài vườn thì chặt, ruộng đồng thì dẫm nát, vài chỗ còn phóng hỏa. Tiếng đập phá loảng xoảng nghe rất vui tai, người không biết chuyện nhìn vào tưởng Sparta hung hãn lắm, cứ như thần chết Hades giáng lâm. Thực ra chút thiệt hại này với Athens chưa đến mức gãy xương đứt gân, nhìn cho vui mắt thôi.
Nhưng thứ Archidamus cần chính là cái sự vui mắt đó.
Bởi vì màn quậy phá này của Archidamus vừa là diễn cho người trong thành Athens xem, vừa là diễn cho mấy ông Giám sát quan đi theo quân đội xem.
Trong thành, Pericles thấy lục quân Sparta của Archidamus đến rồi, lại còn phá hoại tưng bừng thế kia, bèn lập tức phái hải quân Athens chia làm nhiều đường, lao về phía bán đảo Peloponnesus, nói cho dễ nghe gọi là trả đũa. Nhưng chỉ thị của Pericles rất đáng suy ngẫm: Chỉ quấy rối làng mạc ven biển, không được tiến sâu vào nội địa.
Mệnh lệnh này dịch ra tiếng Hà Nội là: Diễn thì được, làm thật thì đừng.
Thế là hải quân Athens gần như dốc toàn lực, chia nhiều đường tập kích bán đảo Peloponnesus, cũng hò reo vang trời, thanh thế to lớn, trông cũng có vẻ liều mạng lắm.
Archidamus thấy thế, biết lửa đã đủ độ, lập tức tuyên bố: Rút quân, không đánh nữa.
Sparta có chế độ Giám sát quan đi theo quân đội, thực chất là giám quân, chịu trách nhiệm theo dõi nhất cử nhất động của tướng lĩnh ngoài mặt trận để báo cáo về cho tầng lớp cai trị ở Sparta. Cái này giống hệt thái giám đi theo làm tai mắt cho Hoàng đế thời nhà Minh ở Trung Quốc.
Quả nhiên, Giám sát quan nghe tin Archidamus định rút quân liền nhảy dựng lên chất vấn: Ông chưa giết được mống Athens nào mà đã rút? Hơn nữa tình hình đang tốt, dân Athens rúm ró trong thành không dám ra, thế chẳng phải lúc để mở rộng chiến quả sao? Phá thêm tí nữa, cướp thêm tí nữa cũng tốt chứ, sao lại rút? Ông có ý gì?
Archidamus trả lời hùng hồn:
Đương nhiên phải rút. Thứ nhất, Athens tường cao hào sâu, đánh cứng thì chắc chắn dây dưa, chúng ta mang theo có bao nhiêu lương thảo đâu, không trụ được lâu; Thứ hai, cái gì cần đốt đã đốt, cần cướp đã cướp, gây thiệt hại nặng cho Athens rồi, chiến lợi phẩm cũng không ít, thế này không phải là thành tích à? Cuối cùng, hải quân Athens đã đánh đến cửa nhà mình rồi, nếu chúng ta không về cứu kịp thời, lỡ xảy ra hậu quả nghiêm trọng gì, trách nhiệm tính cho ông hay tính cho tôi?
Lý lẽ kín kẽ, không lọt dù chỉ một giọt nước.
Giám sát quan bị chặn họng cứng ngắc.
Giờ mọi người hiểu tại sao Archidamus phải làm trò trống giong cờ mở thế rồi chứ: Ông ta vốn chẳng định liều mạng với Athens, chỉ là làm màu thôi. Ngay từ đầu ông đã định rút, nhưng rút phải có lý do. Bên cạnh có Giám sát quan soi, rút bừa bãi về Sparta sẽ bị vạch tội, không khéo mất ngôi vua, nặng thì bị xử tử. Ông và Pericles là bạn vong niên hơn 30 năm, đi guốc trong bụng nhau, nên hai người lợi dụng sự ăn ý này để cùng diễn một vở hát đối.
Quả nhiên, khi Archidamus dẫn chủ lực Sparta rút về phía Tây eo biển Corinth, hải quân Athens như đã hẹn trước, lập tức thu quân, về nhà ăn cơm.
Đây là đánh trận à? Sang chơi nhà hàng xóm thì có!
Độ ăn ý này, e rằng chỉ có hai đội bóng đang dàn xếp tỷ số mới sánh kịp.
Hơn nữa không chỉ bây giờ, mà trong rất nhiều năm sau đó, Athens và Sparta vẫn giữ sự ngầm hiểu này. Một bên đi đường bộ, một bên đi đường biển, cứ đến mùa xuân là kéo quân sang đất đối phương phá phách một tí, rồi đến mùa hè thì ai về nhà nấy. Hai bên duy trì việc tương tác gây thương nhớ, nhưng tuyệt nhiên không vả nhau trực diện. Khung cảnh ầm ĩ chấn động, nhưng xét kỹ thì kiểu đối đầu quấy rối này chẳng có tác dụng quái gì với cục diện chiến tranh. Nhìn cảnh đó, bạn sẽ thấy đây đâu phải chiến tranh, rõ ràng là tổ chức đi du xuân hàng năm!
Nói cho cùng vẫn là do Pericles và Archidamus đều không muốn khai chiến trực diện. Dù chiến tranh là so kè sức mạnh tổng hợp quốc gia, nhưng giữa họ lại là cuộc đấu trí và tâm lý nhiều hơn, nên trên chiến trường chính, cả hai đều khá kiềm chế.
Khi Athens và Sparta cùng lui binh, thời gian cũng trôi đến mùa đông năm 431 TCN, năm đầu tiên của cuộc chiến Peloponnesus sắp kết thúc. Theo thông lệ thời đó, sau khi vào thu hai bên sẽ ngừng đánh, thay vào đó là thu nhặt thi thể những người hy sinh trên chiến trường, mang về nước chôn cất.
Athens chôn cất tử sĩ tại một khu nghĩa trang trống trải ở ngoại ô. Vì đây là những liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc, Pericles đích thân tham dự tang lễ và thực hiện một bài diễn thuyết dài hùng hồn.
Đó chính là bài "Diễn văn đám tang của Pericles" (Pericles' Funeral Oration) chấn động cổ kim.
Ngày nay, bất kỳ học sinh phương Tây nào cũng biết đến bài diễn văn nổi tiếng này, sách giáo khoa trung học của họ đều in toàn văn. Trong bài diễn văn, Pericles ca ngợi tính ưu việt của thể chế Athens, ông tuyên bố Athens là "ngôi trường" của toàn Hy Lạp, cả Hy Lạp đều hướng về và học tập nền dân chủ cũng như luật pháp của Athens. Do đó, cuộc chiến hiện tại, dù xét về tính cần thiết hay cấp bách, đều là người Athens lựa chọn dùng máu và sinh mạng để bảo vệ sự an toàn xã hội và lối sống của họ. Đọc cả bài mới thấy tài ăn nói của Pericles đúng là đỉnh cao. Bố cục chặt chẽ logic, lập luận sắc sảo, ngôn từ hoa mỹ. Tôi tin rằng khi Pericles phát biểu, Thucydides đang đứng ngay dưới lắng nghe. Tôi có thể cảm nhận được sự chấn động và lòng yêu nước dâng trào của Thucydides, nên ông rất coi trọng bài diễn văn này và chép lại toàn văn trong cuốn Lịch sử chiến tranh Peloponnesus.
Bài diễn văn này không chỉ gây chấn động thời đó mà còn ảnh hưởng đến hậu thế. Khoảng 2.500 năm sau tại Mỹ, có một người, cũng trong một lễ tang tập thể của quân nhân, đã phát biểu một bài diễn văn có phong cách và nội dung tương tự. Bài diễn văn đó tên là "Diễn văn Gettysburg", và người phát biểu là Abraham Lincoln.
Nếu mọi người mang hai bài diễn văn này ra so sánh kỹ, sẽ thấy chúng như được đúc ra từ một khuôn. Điểm khác biệt duy nhất là bài của Pericles rất dài, còn của Lincoln chỉ vỏn vẹn khoảng 300 từ. Cả hai bài đều xuất sắc, đều lưu danh sử sách. Dù không có bằng chứng rõ ràng Lincoln cố tình bắt chước Pericles, nhưng ảnh hưởng tiềm tàng của Pericles đối với Lincoln là khá rõ ràng.
Đó vừa là sức hút của những nhà hùng biện đại tài, vừa là ma lực của những bài diễn văn xuất sắc, và cũng là uy lực của ngôn từ.
Năm đầu tiên của cuộc chiến Peloponnesus đã khép lại trong dư âm hào hùng từ bài diễn thuyết của Pericles.
#
Dưới đây là bản dịch Điếu văn do Pericles trình bày tại lễ tang các liệt sĩ Athens sau trận đánh, được ghi lại trong cuốn “Lịch sử chiến tranh Peloponnesus” của Thucydides:
ĐIẾU VĂN CỦA PERICLES
Phần lớn những người từng phát biểu tại đây đều ca ngợi vị tiền nhân đã bổ sung phần đọc điếu văn vào phong tục tang lễ của chúng ta. Đối với họ, việc dành vinh dự này cho những người đã ngã xuống trên chiến trường trong lễ an táng là điều xứng đáng. Nhưng riêng tôi, tôi mong rằng khi những hành động dũng cảm của các chiến sĩ đã được thể hiện, thì họ cũng chỉ nên được tôn vinh bằng hành động thực tế như tang lễ công cộng mà quý vị đang chứng kiến đây, hơn là để danh tiếng của bao người bị đặt vào rủi ro, phụ thuộc vào tài hùng biện của một cá nhân, khiến cho phẩm hạnh của họ bị tin tưởng hay ngờ vực tùy theo việc người đó nói hay hay dở.
Bởi lẽ, thật khó để nói sao cho không quá ít mà cũng không quá nhiều; và ngay cả sự chừng mực cũng khó tạo được ấn tượng về sự chân thực. Người thân của người đã khuất, vốn biết rõ sự tình, thường nghĩ rằng lời lẽ của diễn giả chưa lột tả hết sự hiểu biết và mong muốn của họ; trong khi người khác, kẻ không tường tận sự việc, khi nghe về những điều vượt quá khả năng của chính mình, sẽ sinh lòng đố kỵ và nghi ngờ là phóng đại. Con người ta chỉ bao dung với lời ca ngợi kẻ khác chừng nào họ còn nghĩ rằng bản thân mình cũng có thể làm được điều tương tự hoặc gần như vậy; nhưng một khi người nói vượt lên trên tầm của họ, lòng ghen ghét trỗi dậy và họ bắt đầu hoài nghi. Tuy nhiên, vì tổ tiên đã chuẩn y phong tục này, tôi xin tuân theo luật lệ và sẽ cố gắng hết sức để đáp ứng mong mỏi và niềm tin của tất cả quý vị.
Trước tiên, tôi xin nói về tổ tiên của chúng ta, bởi thật phải đạo và xứng hợp trong lúc chúng ta than khóc người đã khuất, một sự tri ân cần được dành cho ký ức về các ngài. Chưa bao giờ có thời khắc nào mà các ngài không cư ngụ trên mảnh đất này, và bằng lòng dũng cảm, các ngài đã trao truyền nó từ thế hệ này sang thế hệ khác, để lại cho chúng ta một quốc gia tự do. Nếu các ngài xứng đáng được ca ngợi, thì cha ông chúng ta còn xứng đáng hơn nữa, bởi họ đã bồi đắp thêm vào những gì được thừa hưởng, và sau bao gian lao, đã để lại cho chúng ta, thế hệ cháu con của họ, cả một đế chế hùng mạnh này. Và chính chúng ta, những người đang tề tựu nơi đây, phần lớn vẫn đang ở độ tuổi sung sức nhất của cuộc đời, đã tiếp tục sự nghiệp ấy, trang bị cho thành bang này đầy đủ mọi thứ để nàng có thể tự chủ hoàn toàn cả trong thời bình lẫn thời chiến.
Tôi sẽ không nói về những chiến công quân sự đã giúp chúng ta có được các thuộc địa, hay sự quả cảm mà chúng ta hoặc cha ông ta đã dùng để đẩy lùi làn sóng chiến tranh, dù là từ người Hy Lạp hay man tộc; bởi câu chuyện đó đã quá dài và quen thuộc với quý vị. Nhưng trước khi ca ngợi những người đã khuất, tôi muốn chỉ ra rằng nhờ những nguyên tắc hành động nào chúng ta đã vươn tới quyền lực, và nhờ thể chế nào, lối sống nào mà đế chế của chúng ta trở nên vĩ đại. Bởi tôi tin rằng những tư tưởng ấy không hề lạc lõng trong dịp này, và đông đảo công dân cũng như khách lạ nơi đây sẽ thấy hữu ích khi lắng nghe chúng.
Thể chế của chúng ta không ganh đua với luật lệ của lân bang. Chúng ta không bắt chước hàng xóm, mà là tấm gương cho họ noi theo. Đúng là chúng ta được gọi là một nền dân chủ, vì việc cai trị nằm trong tay số đông chứ không phải thiểu số. Nhưng trong khi pháp luật mang lại sự công bằng cho tất cả mọi người trong các tranh chấp tư nhân, thì sự ưu tú cũng được công nhận; một công dân được ưu ái trong các trọng trách công vụ không phải bởi đặc quyền, mà là sự tưởng thưởng cho tài năng. Sự nghèo khó cũng không phải là rào cản; một người có thể phụng sự đất nước bất kể xuất thân thấp kém thế nào. Đời sống công cộng của chúng ta tự do phóng khoáng, và trong đời sống riêng tư, chúng ta không nghi kỵ lẫn nhau, không giận dữ với láng giềng nếu họ làm điều họ thích; chúng ta không trao cho họ những cái nhìn cau có, thứ tuy không gây hại nhưng lại chẳng dễ chịu chút nào. Tuy thoải mái trong đời sống tư, nhưng tinh thần kính trọng bao trùm các hành động công cộng; chúng ta tránh làm điều sai trái vì tôn trọng các nhà chức trách và pháp luật, đặc biệt là những luật lệ bảo vệ kẻ bị tổn thương cũng như những luật bất thành văn mang lại sự hổ thẹn chung cho kẻ vi phạm.
Và chúng ta cũng không quên mang lại cho tâm hồn mệt mỏi những phút giây thư giãn sau lao động; chúng ta có những lễ hội và tế lễ quanh năm; nhà cửa của chúng ta đẹp đẽ và tao nhã; niềm vui hằng ngày từ những điều ấy giúp xua tan nỗi buồn lo. Nhờ sự vĩ đại của thành bang, hoa trái của toàn thế giới đổ về đây; khiến chúng ta tận hưởng sản vật của các xứ sở khác một cách tự nhiên như tận hưởng sản vật của chính mình.
Hơn nữa, về phương diện quân sự, chúng ta vượt trội đối thủ ở nhiều điểm. Thành bang của chúng ta mở cửa đón chào thế giới, chúng ta không bao giờ trục xuất người nước ngoài hay ngăn cản họ nhìn thấy hoặc học hỏi bất cứ điều gì, dù việc tiết lộ bí mật đó có thể mang lại lợi thế cho kẻ thù. Chúng ta không dựa vào sự sắp đặt hay mưu mô, mà dựa vào chính trái tim và đôi tay của mình. Và trong vấn đề giáo dục, trong khi đối thủ từ thuở thiếu thời đã phải chịu đựng những bài tập khổ sai để trở nên dũng cảm, thì chúng ta sống thoải mái nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy không kém gì họ. Bằng chứng là người Lacedaemon (Sparta) không bao giờ dám đơn thương độc mã xâm phạm lãnh thổ của chúng ta, mà phải kéo theo toàn bộ đồng minh; trong khi chúng ta đơn độc tiến vào đất láng giềng; và dù đối thủ chiến đấu vì nhà cửa của họ còn chúng ta chiến đấu trên đất khách, chúng ta hiếm khi gặp khó khăn để đánh bại họ. Kẻ thù chưa bao giờ cảm nhận được sức mạnh tổng hợp của chúng ta, vì chúng ta vừa phải lo cho hải quân, vừa phải cử công dân đi khắp nơi trên bộ. Nhưng nếu họ gặp và đánh bại một bộ phận quân đội của ta, họ tự đắc như thể đã đánh bại tất cả chúng ta, còn khi thua trận, họ lại giả vờ như đã bị tất cả chúng ta hợp lực đánh bại.
Nếu chúng ta chọn đối mặt với hiểm nguy bằng một tâm hồn nhẹ nhàng thay vì sự khổ luyện nhọc nhằn, và bằng lòng can đảm có được từ thói quen hơn là do luật pháp cưỡng ép, chẳng phải chúng ta tốt hơn sao? Bởi chúng ta không phải lo âu trước về nỗi đau, nhưng khi giờ khắc đến, chúng ta cũng dũng cảm chẳng kém những kẻ không bao giờ cho phép mình nghỉ ngơi; như vậy thành bang của chúng ta đáng ngưỡng mộ cả trong hòa bình lẫn chiến tranh. Bởi chúng ta yêu cái đẹp nhưng giản dị, và chúng ta trau dồi tri thức mà không trở nên yếu mềm. Sự giàu có, theo quan điểm của chúng ta, là phương tiện để hành động chứ không phải để khoe khoang; và thú nhận sự nghèo khó không phải là điều đáng xấu hổ, mà đáng xấu hổ là không nỗ lực để thoát khỏi nó.
Tóm lại, tôi khẳng định rằng Athens là trường học của cả Hy Lạp, và mỗi cá nhân người Athens, bằng chính con người mình, dường như có khả năng thích ứng với những hình thức hành động đa dạng nhất bằng sự linh hoạt và duyên dáng tuyệt vời. Đây không phải là lời nói suông thoáng qua, mà là sự thật và thực tế; lời khẳng định này được kiểm chứng bởi vị thế mà những phẩm chất ấy đã mang lại cho đất nước. Bởi trong giờ phút thử thách, chỉ duy nhất Athens trong số các cường quốc đương thời tỏ ra vượt trội hơn cả danh tiếng của mình. Không kẻ thù nào tấn công nàng mà lại phẫn nộ trước thất bại dưới tay một thành bang như thế; không một thần dân nào than phiền rằng những người cai trị họ là không xứng đáng.
Chúng ta sẽ không thiếu những nhân chứng; có những tượng đài hùng vĩ về sức mạnh của chúng ta sẽ khiến chúng ta trở thành kỳ quan của thời đại này và cả mai sau; chúng ta sẽ không cần đến lời ca ngợi của Homer hay bất kỳ nhà thơ tụng ca nào, những người có thể làm vui tai trong chốc lát nhưng sự mô tả của họ không chịu nổi ánh sáng của sự thật. Bởi chúng ta đã buộc mọi vùng đất và mọi vùng biển phải mở lối cho lòng dũng cảm của mình, và đã dựng nên những đài tưởng niệm vĩnh cửu về tình bạn và sự thù địch của chúng ta ở khắp mọi nơi. Đó chính là thành bang mà những người đàn ông này đã chiến đấu và hy sinh một cách cao cả; họ không thể chịu đựng ý nghĩ rằng nàng có thể bị tước đoạt khỏi họ; và mỗi người trong chúng ta, những người còn sống, hãy vui lòng lao động vì nàng.
Tôi đã nói nhiều về sự vĩ đại của Athens bởi tôi muốn cho quý vị thấy rằng chúng ta đang chiến đấu vì một phần thưởng cao quý hơn những kẻ không được hưởng những đặc quyền này, và để chứng minh bằng bằng chứng rõ ràng về công trạng của những người mà tôi đang tưởng niệm. Lời ca ngợi cao quý nhất dành cho họ đã được nói ra. Bởi khi tôn vinh thành bang, tôi đã tôn vinh họ, và những người như họ, những người mà phẩm hạnh đã làm rạng danh thành phố. Và có mấy người Hy Lạp mà ta có thể nói rằng hành động của họ khi đặt lên bàn cân lại xứng với danh tiếng của họ như những người này! Tôi tin rằng cái chết như của họ là thước đo chân thực cho giá trị của một con người; nó có thể là sự hé lộ đầu tiên về phẩm hạnh của họ, nhưng dù thế nào cũng là dấu ấn cuối cùng khẳng định điều đó. Bởi ngay cả những người còn khiếm khuyết ở các mặt khác cũng có thể biện minh một cách công bằng bằng lòng dũng cảm khi chiến đấu cho tổ quốc; họ đã xóa bỏ cái xấu bằng cái tốt, và đã phụng sự đất nước bằng hành động công cộng nhiều hơn là làm hại đất nước bằng hành động riêng tư. Không ai trong số họ bị sự giàu sang làm cho ủy mị hay ngần ngại từ bỏ những lạc thú của cuộc đời; không ai trong số họ trì hoãn ngày định mệnh với hy vọng, vốn thường thấy ở kẻ nghèo, rằng một ngày nào đó mình sẽ trở nên giàu có. Nhưng, cho rằng việc trừng phạt kẻ thù còn ngọt ngào hơn tất thảy, và rằng họ không thể ngã xuống vì một mục đích nào cao cả hơn, họ quyết định đánh cược mạng sống để rửa hận trong danh dự, và phó mặc những điều còn lại. Họ giao phó cho hy vọng những cơ may hạnh phúc chưa biết tới; nhưng khi đối mặt với cái chết, họ quyết tâm chỉ dựa vào chính mình. Và khi khoảnh khắc đến, họ chọn kháng cự và chịu khổ đau hơn là bỏ chạy để bảo toàn mạng sống; họ chạy trốn khỏi lời chê bai nhục nhã, nhưng trên chiến trường, đôi chân họ đứng vững, và trong một khoảnh khắc, tại đỉnh cao của vận mệnh, họ đã rời khỏi thế gian này, không phải trong nỗi sợ hãi, mà trong vinh quang.
Đó là cái kết của những con người này; họ xứng đáng với Athens, và những người còn sống không cần ước ao một tinh thần anh hùng hơn thế, dù có thể cầu mong một kết cục ít bi thương hơn. Giá trị của một tinh thần như vậy không thể diễn tả bằng lời. Bất cứ ai cũng có thể thuyết giảng cho quý vị mãi về lợi ích của sự phòng vệ dũng cảm, điều mà quý vị đã biết rõ. Nhưng thay vì lắng nghe kẻ đó, tôi muốn quý vị ngày qua ngày hãy ngắm nhìn sự vĩ đại của Athens, cho đến khi con tim tràn ngập tình yêu dành cho nàng; và khi đã ấn tượng trước cảnh tượng vinh quang ấy, hãy suy ngẫm rằng đế chế này có được là nhờ những con người biết rõ bổn phận của mình và có đủ dũng khí để thực hiện nó, những người trong giờ phút giao tranh luôn sợ nỗi nhục nhã, và những người, nếu có thất bại trong một nỗ lực nào đó, cũng không để phẩm hạnh của mình mất đi đối với đất nước, mà đã tự nguyện dâng hiến mạng sống như lễ vật đẹp đẽ nhất cho nàng.
Sự hy sinh tập thể của họ đã được đền đáp cho từng cá nhân; bởi mỗi người đều nhận lại cho riêng mình lời ca ngợi không bao giờ già đi, và ngôi mộ cao quý nhất – tôi không nói đến nơi chôn cất thi hài họ, mà là nơi vinh quang của họ trường tồn, và được nhắc nhở mãi mãi vào mỗi dịp thích hợp, cả trong lời nói lẫn việc làm. Bởi lẽ, cả thế gian này là lăng mộ của những bậc vĩ nhân; họ không chỉ được tưởng niệm bằng những cột đá và dòng chữ trên quê hương, mà ở những vùng đất xa lạ cũng có những đài tưởng niệm không văn tự, khắc ghi không phải trên đá, mà trong trái tim con người. Hãy lấy họ làm tấm gương, và hãy coi lòng dũng cảm là tự do, coi tự do là hạnh phúc, đừng cân nhắc quá kỹ những hiểm nguy của chiến tranh. Kẻ bất hạnh không còn hy vọng đổi đời ít có lý do để vứt bỏ mạng sống hơn là kẻ thịnh vượng – người mà nếu còn sống vẫn luôn đối mặt với nguy cơ sa sút, và đối với họ, bất kỳ sự trượt ngã nào cũng tạo ra sự khác biệt nghiêm trọng. Đối với một người có chí khí, sự hèn nhát đi kèm thảm họa còn cay đắng hơn nhiều so với cái chết ập đến bất ngờ khi người đó đang tràn đầy lòng can đảm và hy vọng chung.
Vì lẽ đó, tôi không thương hại các bậc cha mẹ của những người đã khuất đang đứng đây; tôi muốn an ủi họ hơn. Quý vị biết rằng người thân của quý vị đã trải qua những thăng trầm muôn vẻ; và rằng những ai nhận được vinh dự tột cùng – dù là cái chết vinh quang như họ hay nỗi đau vinh quang như quý vị – đều có thể coi là may mắn, và cuộc đời họ hạnh phúc khi sự kết thúc hạnh phúc cũng là lúc kết thúc cuộc đời. Tôi biết thật khó để làm quý vị cảm thấy điều này, khi vận may của người khác sẽ quá thường xuyên nhắc quý vị nhớ đến niềm vui từng thắp sáng trái tim mình. Và nỗi đau buồn không đến từ việc thiếu vắng những phước lành mà người ta chưa từng biết, mà từ việc mất đi những gì đã từng là một phần cuộc sống. Một số quý vị đang ở độ tuổi có thể hy vọng có thêm con cái, và họ nên chịu đựng nỗi đau tốt hơn; những đứa trẻ sinh sau không chỉ giúp họ quên đi người đã mất, mà thành bang cũng sẽ được lợi gấp đôi. Thành bang sẽ không bị bỏ lại hoang vắng, và sẽ an toàn hơn. Bởi lời khuyên của một người không thể có trọng lượng hay giá trị ngang bằng, nếu người đó không có con cái để cùng chia sẻ rủi ro trong mối nguy chung.
Còn với những ai đã qua thời sung sức, tôi nói rằng: "Hãy tự chúc mừng mình vì đã được hạnh phúc trong phần lớn cuộc đời; hãy nhớ rằng quãng đời đau buồn còn lại sẽ không kéo dài, và hãy tìm sự an ủi trong vinh quang của những người đã khuất. Bởi chỉ có lòng yêu danh dự là mãi mãi thanh xuân, và niềm vui của tuổi già không phải là sự giàu sang như người ta vẫn nói, mà là danh dự."
Với quý vị là con trai và anh em của những người đã khuất, tôi thấy cuộc đấu tranh để noi gương họ sẽ vô cùng gian nan. Bởi ai cũng ca ngợi người chết, và dù phẩm hạnh của quý vị có xuất chúng đến đâu, tôi không nói là để sánh ngang họ, mà để tránh sống như những kẻ ganh đua và gièm pha, nhưng khi một người đã khuất bóng, sự tôn trọng và thiện chí dành cho người đó là thuần khiết, không pha tạp. Và nếu tôi phải nói về phẩm hạnh phụ nữ với những người từ nay sẽ là góa phụ, tôi xin tóm tắt trong một lời khuyên ngắn gọn: Đối với một người phụ nữ, không tỏ ra yếu đuối hơn bản tính tự nhiên của giới mình là một vinh dự lớn, và vinh dự lớn nhất là không để bị đàn ông bàn tán, dù là lời tốt hay tiếng xấu.
Tôi đã thực hiện xong phần nghi lễ bắt buộc, tuân theo luật pháp, bằng những lời lẽ thích hợp nhất mà tôi có. Sự tri ân bằng hành động đã được thực hiện một phần; người đã khuất đã nhận được chúng qua tang lễ này, và chỉ còn lại việc con cái họ sẽ được nuôi dưỡng bằng ngân sách công cho đến khi trưởng thành: đây là phần thưởng thiết thực mà Athens, như một vòng nguyệt quế, trao tặng cho những người con còn sống và đã chết, sau cuộc đấu tranh như của họ. Bởi ở đâu phần thưởng cho phẩm hạnh là lớn nhất, ở đó những công dân cao quý nhất sẽ dấn thân phụng sự đất nước.
Và bây giờ, khi đã khóc thương xong cho người thân của mình, quý vị có thể ra về./.