[Funland] Lịch sử văn minh phương Tây - Từ Hy Lạp đến La Mã

yadih

Xe buýt
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
502
Động cơ
33,632 Mã lực
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
 

formen

Xe cút kít
Biển số
OF-485699
Ngày cấp bằng
27/1/17
Số km
16,756
Động cơ
435,715 Mã lực
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
Mời 2 cụ thẩm thử cách tiếp cận thần thoại của genz phương pháp: tóm tắt bằng video.

Với em thì kiểu này rất hợp, băm hình tháp chứ không phải đọc tuần tự.
Chờ chút em dán link...

Cccm đeo tai nghe k cần xem cũng đc, hài phết và nhìn lượt view cũng thể hiện nội dung có sức hút rất khá.

Toàn bộ thần thoại hy lạp


Toàn bộ tam quốc.

 
Chỉnh sửa cuối:

gsm615

Xe điện
Biển số
OF-863932
Ngày cấp bằng
19/7/24
Số km
2,237
Động cơ
62,009 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Em nhớ nhất cụ Zeus, thần sấm sét của Hy lạp, nổi tiếng đa tình.
Ngoài bà Hera vợ chính, cụ còn có cả khối bạn tình trên giời với 1 đống con cái, đến người trần (thôn nữ) cụ cũng không tha để có những người anh hùng như Heracles, Perseus...
Bản chất chiếm hữu phụ nữ có từ ngàn xưa.
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
4,003
Động cơ
400,009 Mã lực
Em nhớ nhất cụ Zeus, thần sấm sét của Hy lạp, nổi tiếng đa tình.
Ngoài bà Hera vợ chính, cụ còn có cả khối bạn tình trên giời với 1 đống con cái, đến người trần (thôn nữ) cụ cũng không tha để có những người anh hùng như Heracles, Perseus...
Bản chất chiếm hữu phụ nữ có từ ngàn xưa.

Nhóm nhỏ những người Judae di cư từ các đảo đến Hy Lạp Athen và Sparta. Họ muốn chiếm quyền kiểm soát thành bang - bộ tộc của người Athens Spata, Thebes, Corinth, Macedonian ... Không dễ. Họ phải dụ các vương tôn quý tộc sống buông thả phóng dật đi, gái gú rượu chè be bét đi .. Khi có nhiều phốt thì nhóm Tinh hoa mới dễ dàng thao túng, giật dây xúi dục họ bảo đấm bang này, đá bang kia, theo liên minh nọ, hợp tác với tay kia để bem thằng ni... Nhóm tinh hoa đã tha hóa người Hy Lạp đến rận gốc rễ !...
 

lehahai

Xe tăng
Biển số
OF-1588
Ngày cấp bằng
30/8/06
Số km
1,011
Động cơ
214,260 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
Cụ nói y hệt thằng cu nhà cháu (gen Z đời gần cuối) chê gen Alpha.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
862
Động cơ
799,505 Mã lực
1765505884938.png


Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
 

yadih

Xe buýt
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
502
Động cơ
33,632 Mã lực
View attachment 9427000

Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
Phần viết này rất chi tiết và tổng hợp nhiều loại kiến thức nền tảng. Rất là tốt đẹp xạ thu. =D>
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
4,003
Động cơ
400,009 Mã lực
View attachment 9427000

Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
Em bổ xung là nhóm Tinh Hoa Judae ngoài đem chiến tranh họ còn mang đến Hy Lạp 🇬🇷 chữ viết. Ban đầu chữ viết Hy Lạp không đủ diễn tả, những mục sư nhà buôn Judae mở rộng phát triển và chính họ là người chép thần thoại Hy Lạp. Họ chép kinh thánh về thiên chúa Ibrahim,.. Triết học Hy Lạp xuất phát từ thần học, tâm linh.

Đóng góp đáng kể của giới Tinh Hoa cho Hy Lạp đó là môn kế toán. Sổ cái kế toán sử dụng để ghi chép chiến lợi phẩm, phân chia tiền, chiến lợi phẩm hậu chiến tranh, buôn bán, lỗ lãi, ...và kế toán sổ cái vẫn được dùng đến ngày nay.
 

yadih

Xe buýt
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
502
Động cơ
33,632 Mã lực
Em bổ xung là nhóm Tinh Hoa Judae ngoài đem chiến tranh họ còn mang đến Hy Lạp 🇬🇷 chữ viết. Ban đầu chữ viết Hy Lạp không đủ diễn tả, những mục sư nhà buôn Judae mở rộng phát triển và chính họ là người chép thần thoại Hy Lạp. Họ chép kinh thánh về thiên chúa Ibrahim,.. Triết học Hy Lạp xuất phát từ thần học, tâm linh.

Đóng góp đáng kể của giới Tinh Hoa cho Hy Lạp đó là môn kế toán. Sổ cái kế toán sử dụng để ghi chép chiến lợi phẩm, phân chia tiền, chiến lợi phẩm hậu chiến tranh, buôn bán, lỗ lãi, ...và kế toán sổ cái vẫn được dùng đến ngày nay.
Thế hóa ra bọn Judae này ngoài việc bán Chúa còn làm được nhiều việc có ích đấy chứ nhỉ giáo sư? Mà sao bọn này lại đi khắp nơi sang đến cả TQ như hôm nọ giáo sư kể, là thế nào nhỉ? Giáo sư hôm nào mát giời xin kể một đoạn kỹ hơn về bọn này xem sao? Mời giáo sư xem clip operarock mô tả tên Judah bán Chúa. Xạ thu =))

 
Chỉnh sửa cuối:

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
862
Động cơ
799,505 Mã lực
1765683147140.png


Phần 30: Chiến tranh Peloponnese - Khởi đầu của sự kết thúc

Nói xong về đỉnh cao văn minh, văn minh Hy Lạp cổ đại cũng bắt đầu đi xuống dốc.

Đây là chuyện không thể tránh khỏi. Thời đại Hoàng kim của Hy Lạp mà đại diện là Athens tuy vinh quang vô hạn, nhưng một khi đã qua đỉnh cao này, cũng đồng nghĩa với việc cái kết đã không còn xa.

Giống như Ba Tư, sự suy tàn của Hy Lạp cũng đi kèm với chiến tranh, nhưng khác biệt ở chỗ đây là cuộc hỗn chiến nội bộ trong thế giới Hy Lạp. Chiến tranh giống như một con quái thú nuốt chửng của cải và lòng người, móc rỗng những giá trị nội tại của văn minh Hy Lạp. Nền văn minh rực rỡ ấy cũng dần dần hóa thành pháo hoa trong khói lửa, chỉ để lại cho hậu thế những niềm tiếc nuối và mộng tưởng vô hạn.

Đó chính là Chiến tranh Peloponnese (Peloponnesian War, hoặc Pelop War cũng được).

Bây giờ, hãy điều chỉnh nhịp thở và ngồi ngay ngắn lại, để đón nhận cuộc đại hỗn chiến kéo dài gần 30 năm này, và chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về nó trong 30 phần. Vì cuộc chiến này có ý nghĩa trọng đại, diễn biến phức tạp, câu chuyện lại đặc sắc, nên chúng ta sẽ dành riêng một phần để nói về tầm quan trọng và tính đặc thù của nó.

Chiến tranh Peloponnese là sự khởi đầu của kết thúc.

Chiến tranh Peloponnese là cuộc đại chiến bang phái trong thế giới Hy Lạp giữa Liên minh Delian đứng đầu là Athens và Liên minh Peloponnese đứng đầu là Sparta. Nguồn gốc cuộc chiến có thể truy ngược về thời kỳ hai cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Thế giới Hy Lạp đã sản sinh ra hai siêu sao rực rỡ nhưng hoàn toàn khác biệt là Sparta và Athens. Trong chiến tranh vệ quốc, họ bỏ nhiều sức nhất, công lao lớn nhất, nên sau chiến tranh tự nhiên ngồi vào vị trí lãnh đạo.

Thế nhưng hai thành bang này lại quá khác biệt: Một bên là bá chủ già dơ với nền tảng thâm hậu, một bên là kẻ mới nổi đang độ sung sức; một bên là quốc gia nông nghiệp cố thủ trong đất liền, bên kia là đế quốc hàng hải dựa vào thương mại; một bên theo thể chế thiểu số, một bên theo thể chế dân chủ; một bên tương đối khép kín, một bên tương đối cởi mở. Hai logic sinh tồn hoàn toàn trái ngược dần dần va chạm và ma sát trong thế giới Hy Lạp. Để giành không gian sinh tồn lớn hơn, việc chèn ép lẫn nhau và nảy sinh xung đột là điều khó tránh. Theo logic một núi không thể có hai hổ, hai vị lãnh tụ hay lưu manh này vì tranh giành quyền phát ngôn cao nhất đã lao vào đánh nhau sứt đầu mẻ trán trong cái thế giới Hy Lạp nhỏ bé, khuấy đảo cả nền văn minh Hy Lạp đến long trời lở đất.

Chiến tranh chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu đánh nhau 10 năm, hai bên ký một hiệp ước đình chiến mà chẳng ai hài lòng. Tiếp đó là 8 năm hòa bình trên mặt bàn, nhưng dưới gầm bàn thì lén lút hành động liên tục, ai cũng hiểu việc đánh lại chỉ là sớm muộn. Quả nhiên chiến tranh lần hai bùng nổ, lần này đánh gần 10 năm nữa. Đến năm 404 TCN, kết thúc với sự thất bại triệt để của Athens.

Chiến tranh Peloponnese có thể coi là Thế chiến thứ nhất của phương Tây theo đúng nghĩa đen. Dù là các thành bang chúng ta từng nhắc đến, hay chỉ là những chấm nhỏ trên bản đồ ít người nhớ tới, không ai có thể may mắn thoát khỏi, tất cả đều bị cuốn vào cuộc chiến. Mọi thành bang đều gia nhập một trong hai phe, và thường xuyên xuất hiện những kẻ hay vì lợi ích mà quay giáo trở cờ, gió chiều nào che chiều ấy. Chiến tranh như một gáo nước lạnh dội từ đầu xuống chân văn minh Hy Lạp, sau cuộc chiến, Hy Lạp đi vào suy tàn.

Khi hai phe Hy Lạp đánh nhau nhiều năm, không ai làm gì được ai, Sparta đã liên hệ với kẻ thù không đội trời chung năm xưa là người Ba Tư, hy vọng mượn sức họ để đánh bại Athens. Thế lực Ba Tư nhân cơ hội này lại một lần nữa tiến vào khu vực Hy Lạp sau chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, khuấy động các phe phái nội bộ đấu đá kịch liệt và phức tạp hơn. Chính vì thế mà những kẻ cõng rắn cắn gà nhà vẫn bị muôn đời phỉ nhổ. Cuối cùng, dù Sparta thắng lợi như ý nguyện, nhưng không hề có được sự yên ổn thực sự. Các đàn em trước kia bắt đầu mơ mộng làm đại ca, các thành bang chủ chốt của Hy Lạp bắt đầu những vòng hỗn chiến mới. Điều này tạo cơ hội cho Vương quốc Macedonia ở vùng Thrace phía Bắc trỗi dậy.

Người Macedonia thông qua học tập, mô phỏng và vượt qua, đã phát minh ra "trận hình Macedonia" nổi tiếng đánh đâu thắng đó. Với sự xuất hiện của thiên tài quân sự Alexander Đại đế, cái kẻ mà người Hy Lạp từng coi là "nhà quê" này không chỉ quét sạch thế giới Hy Lạp, mà còn bành trướng ra bên ngoài không gì cản nổi. Ông không chỉ chinh phục toàn bộ Ba Tư mà còn vượt qua đèo Khyber đến lưu vực sông Hằng, suýt nữa thống nhất toàn bộ Ấn Độ. Trong quá trình chinh phục của Alexander, thành quả văn minh Hy Lạp theo chân quân đội Macedonia truyền bá đến các khu vực dọc đường, từ đó mở ra thời đại "Hy Lạp hóa" (Hellenistic) nổi tiếng trong lịch sử. Nó không chỉ ảnh hưởng sâu sắc về văn hóa đến hậu thế, mà còn chuẩn bị sẵn về văn hóa và chính trị cho người kế thừa xuất sắc của Hy Lạp là La Mã trong việc chinh phục và sáp nhập các khu vực này sau đó. La Mã sau khi kế thừa toàn bộ di sản của Hy Lạp đã trỗi dậy thành đại đế quốc "bá chủ Địa Trung Hải", ảnh hưởng đến thế giới tận ngày nay. Ngày nay chúng ta nghiên cứu phương Tây, mở miệng là nói Hy Lạp - La Mã, kết luận "Vinh quang thuộc về Hy Lạp, vĩ đại thuộc về La Mã", nếu truy ngược lên đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ Chiến tranh Peloponnese.

Chiến tranh Peloponnese cũng đặc biệt giống với Thế chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914.

Trong Thế chiến I, Anh và Đức lần lượt là đại ca của phe Hiệp ước và phe Liên minh. Không ai ngờ chiến tranh lại đánh lâu đến thế, hai bên đều tưởng chỉ là giao tranh cục bộ, điểm đến là dừng, ai cũng ảo tưởng kết thúc chiến tranh về nhà đón Giáng sinh, kết quả đánh một mạch 4 năm. Cũng không ai ngờ cuộc chiến này lại kéo giới hạn đạo đức của hai bên xuống thấp đến vậy. Súng máy Maxim, đại bác Krupp, xe tăng, khí độc và dây thép gai đã kéo cuộc chiến vào cuộc thi của tàn sát và sự chịu đựng. Mức độ tàn bạo trên chiến trường vượt qua bất kỳ cuộc chiến nào trước đó. Châu Âu sau chiến tranh không chỉ xác chết đầy đồng mà trật tự quốc tế cũng bị đánh cho thủng lỗ chỗ, thế giới mới từ đó bước lên sân khấu.

Chiến tranh Peloponnese cũng y hệt.

Hai bên từ xung đột cục bộ dần leo thang, cuối cùng diễn biến thành thảm họa chưa từng có của thế giới Hy Lạp. Đến cuối cùng, cả hai bên đều cắn răng chịu đựng, đều quên mất tại sao lúc đầu lại khai chiến, tự nhiên cũng chẳng ai nhớ đánh nhau rốt cuộc để đạt mục đích gì. Cuối cùng chỉ còn một mục đích: Bằng mọi giá giết chết đối phương, dù bản thân có vì thế mà tiêu tùng cũng không tiếc. Cả hai bên đều quên đi sơ tâm, vứt bỏ sứ mệnh, đương nhiên cũng chẳng có kết cục tốt đẹp nào. Athens bại trận, rút lui khỏi cuộc cạnh tranh cố nhiên là đáng tiếc; Sparta thắng trận, cũng chỉ là chiến thắng thảm hại với cái giá quá đắt, chẳng có gì đáng để ca ngợi. Văn minh Hy Lạp cũng theo cuộc chiến mà hạ màn.

Cuộc chiến này để lại quá nhiều chủ đề, tranh cãi, kinh nghiệm và bài học cho hậu thế, luôn là đề tài quan tâm và suy ngẫm của các văn nhân, học giả và lãnh tụ chính trị. Đến ngày nay, những nghiên cứu rút ra từ đoạn lịch sử này đã chuyển hóa thành nhiều bài học kinh doanh, chính trị, quân sự, văn hóa, triết học và các mô hình tư duy. Dù là quản trị nội bộ tổ chức hay đối phó với đối thủ bên ngoài, đều có thể tìm thấy kinh nghiệm và gợi ý từ trong đó.

Từ khi Donald Trump phát động thương chiến với Trung Quốc năm 2018, thế giới bắt đầu nói nhiều về cái gọi là "Bẫy Thucydides".

Quan điểm do giáo sư Graham Allison của Đại học Harvard đưa ra này đã trở thành một trong ba bài toán khó của quản trị chính trị thế giới (hai cái còn lại là Bẫy thu nhập trung bình và Bẫy Tacitus). Quan điểm này từ khi ra đời đã đi kèm với tranh cãi lớn. Nhưng phải thừa nhận, đây là chủ đề không thể né tránh giữa Trung Quốc và Mỹ hiện nay. Nhìn từ những mô tả của Thucydides về cuộc chiến này, chúng ta sống trong thời đại va chạm giữa hai cường quốc, vừa là may mắn vừa là bất hạnh. Chúng ta cũng có thể tìm thấy chút phương pháp tránh "lọt hố" qua việc phân tích và giải đọc Chiến tranh Peloponnese.

Có một nhận thức của "Bẫy Thucydides" đáng được khẳng định: Đó là thế lực trỗi dậy thách thức thế lực hiện tại sẽ khiến vị bá chủ cũ trong trật tự hiện hữu nảy sinh hoảng sợ, từ đó rủi ro xung đột sẽ tăng cao. Người có chút kiến thức lịch sử đều thừa nhận đây là sự thật. Graham Allison cũng đã nghiên cứu so sánh hơn mười lần chuyển giao quyền lãnh đạo giữa bá chủ mới và cũ có ghi chép trong lịch sử nhân loại mới đưa ra kết luận. Tuy nhiên, việc Allison từ đó đưa ra kết luận "Trung - Mỹ tất có một trận chiến tranh nóng" thì có vẻ quá võ đoán, điều này chỉ đúng nếu một trong hai nước không có nuke (tác phẩm liên quan của Allison tên là Destined for War - Định mệnh chiến tranh).

Viết về lịch sử Chiến tranh Peloponnese, tác phẩm tham khảo không thể bỏ qua chắc chắn là kiệt tác truyền đời "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" của Thucydides. Bộ sách này cùng với cuốn "Lịch sử" của Herodotus mà chúng ta đã nhắc nhiều lần trước đây được xưng tụng là hai đỉnh cao của lịch sử phương Tây.

Bộ sách này có 3 đặc điểm: Tính chuyên môn mạnh, tính văn học cao, sức ảnh hưởng lâu dài.

So với "Lịch sử", "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" giống một cuốn sử chuyên ngành hơn. Cảm giác rõ nhất khi đọc "Lịch sử" của Herodotus là nó giống một tập tản văn kể chuyện. Herodotus giống như đang ngồi chém gió với bạn trên bàn nhậu, kể cho bạn nghe về phong thổ nhân tình của Hy Lạp, Ai Cập, Lưỡng Hà 2700 năm trước như kể chuyện cổ tích. Đọc sách đó, đầu óc bạn vừa phải bay bổng vừa phải biết thu lại. Ví dụ trong chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, việc Cambyses chinh phục Ai Cập không phải nội dung cốt lõi, nhưng Herodotus dùng tới 1/9 dung lượng sách để miêu tả toàn cảnh Ai Cập từ trên xuống dưới, kể cả quy trình làm xác ướp của hoàng gia Ai Cập cũng viết ra. Đến mức "Lịch sử" không chỉ dùng để nghiên cứu chiến tranh mà còn dùng cho nghiên cứu nhân văn địa lý.

"Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" hoàn toàn không theo lối đó. Đọc bộ sách này, bạn sẽ thấy chủ đề cực kỳ xác định, tính logic và tính định hướng rất rõ ràng. Hoàn toàn theo trình tự thời gian, bắt đầu từ năm chiến tranh bùng nổ, mỗi năm xảy ra chuyện gì đều được ghi chép tường tận, không có chuyện "tán gẫu".

Nói về nguyên nhân, có lẽ liên quan đến xuất thân của Thucydides. Ông sinh ra trong danh gia vọng tộc ở Athens, hơn 30 tuổi đã được bầu làm một trong 10 tướng quân của Athens, tham gia nửa đầu cuộc chiến, chỉ huy nhiều trận đánh. Sau trận Amphipolis, ông bị bãi miễn, từ đó ghi chép lại toàn cảnh cuộc chiến dưới góc độ người quan sát khách quan. Gia thế tốt và sự nghiêm cẩn của người lính khiến khi viết tác phẩm này ông luôn nỗ lực để chủ đề rõ ràng, nghiêm túc khách quan. Mỗi chi tiết miêu tả đều được ông xác minh và trau chuốt từ nhiều phía, độ tin cậy cực cao, do đó là lựa chọn số một để nghiên cứu giai đoạn lịch sử này. Bản thân Thucydides nhờ tác phẩm này mà được vinh danh là "Thái sơn Bắc đẩu của sử học phương Tây", người duy nhất hậu thế có thể sánh ngang chỉ có đại sử gia Polybius thời Cộng hòa La Mã với tác phẩm "Thông sử".

"Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" cũng có trình độ văn học rất cao. Đặc biệt là các bài diễn thuyết được thu lục trong sách cực kỳ xuất sắc, ảnh hưởng to lớn đến nhiều nhân vật phương Tây đời sau. Ví dụ bài "Diễn văn tang lễ" của Pericles đã ảnh hưởng sâu sắc đến "Diễn văn Gettysburg" của Tổng thống Mỹ Lincoln. Nếu mọi người phân tích kỹ và so sánh hai bài diễn văn, sẽ thấy bối cảnh gần giống nhau, cấu trúc tương tự, hương vị quen thuộc, chỉ có điều Pericles thì thao thao bất tuyệt còn Lincoln thì ngắn gọn súc tích mà thôi. Hay như Cicero - nhà hùng biện nổi tiếng nhất lịch sử phương Tây, các tác phẩm diễn thuyết lưu truyền của ông từ kỹ thuật tranh biện, tư duy lập luận, cách dùng từ đến cấu trúc hành văn đều có thể tìm thấy bóng dáng những bài diễn văn trong "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese".

Sở dĩ các bài diễn văn trong sách này trở thành kinh điển, một mặt là vì nội dung diễn thuyết thực sự đặc sắc, mặt khác là nhờ sự tu dưỡng sâu dày về sử học và văn học của chính Thucydides. Nhiều bài diễn văn đã thành văn trước khi Thucydides ra đời, qua nhiều năm lưu truyền, bản gốc phần lớn đã thất lạc. Thucydides không có cơ hội tiếp cận nguyên văn, hoặc là nghe hơi nồi chõ, hoặc là tìm thấy vài mảnh vụn trong các tài liệu khác nhau. Cái tài của Thucydides là ông thông qua nguồn tài nguyên hạn chế, tổng hợp bối cảnh lúc đó của người diễn thuyết, mục đích cần đạt được và tình cảnh đối mặt, thông qua khảo chứng và tưởng tượng, khôi phục lại nội dung diễn thuyết có khả năng nhất cho độc giả. Vừa phù hợp logic khách quan, văn phong lại trôi chảy đẹp đẽ, bày ra trước mắt độc giả bức tranh đặc sắc về đời sống chính trị thành bang Hy Lạp.

Một khía cạnh nữa, cách nhìn của Thucydides về cuộc chiến này đã ảnh hưởng đến thế giới phương Tây suốt 2000 năm. Ngày nay đa số mọi người Trung Quốc đều cho rằng phương Tây ngay từ đầu đã xác định dân chủ là một giá trị phải kiên trì, là một chuẩn mực không thể nghi ngờ. Thực ra không phải.

Khái niệm dân chủ từ xưa đến nay từng tồn tại như một thứ tai họa khủng khiếp ở phương Tây, ảnh hưởng người phương Tây mãi cho đến 200 năm gần đây mới có sự thay đổi.

Đúng vậy, bạn không nhìn nhầm đâu, người phương Tây mãi đến 200 năm trước vẫn cho rằng dân chủ là một chế độ tồi tệ đến cực điểm, chỉ đưa đất nước đến thảm họa. Vì vậy rất nhiều quốc gia phương Tây hoặc chọn quân chủ, hoặc chọn cộng hòa, ngược lại nhắc đến thể chế dân chủ thì tái mặt. Nguồn gốc của tất cả điều này đến từ sự phân tích và giải đọc của Thucydides về Chiến tranh Peloponnese. Ngày nay nhìn lại, do nguyên nhân xuất thân và lập trường, cộng thêm sự tham gia sâu và suy ngẫm về cuộc chiến, việc Thucydides đưa ra cái nhìn tiêu cực và phê bình nghiêm khắc với dân chủ cũng là hợp tình hợp lý. Tư tưởng của Thucydides ảnh hưởng sâu sắc đến Plato - vị hiền triết vĩ đại nhất lịch sử triết học phương Tây, kế đó ảnh hưởng đến Aristotle - người tập đại thành triết học Hy Lạp cổ đại, khiến cả hai ông đều giữ thái độ phê phán với thể chế dân chủ.

Nói cách khác, vì dân chủ trong Chiến tranh Peloponnese đã bộc lộ những điểm yếu quá tồi tệ, mang lại cảm giác rất không tốt, nên các nhà tư tưởng và chính trị gia phương Tây suốt 2000 năm luôn "kính nhi viễn chi" với dân chủ. Mãi đến cận đại, nhà tư tưởng Pháp Tocqueville và nhà tư tưởng Anh John Stuart Mill, lần lượt qua các tác phẩm "Nền dân chủ ở Mỹ" và "Chính thể đại diện", thông qua luận chứng cho mọi người thấy cái tốt của chế độ dân chủ. Đồng thời họ cũng chỉ ra các điều kiện tiên quyết và lưu ý khi thực hiện chế độ này, về mặt lý luận đã xoay chuyển hiểu lầm trong tư duy của mọi người về dân chủ.

Đến năm 1776 khi nước Mỹ lập quốc, nhóm tinh anh lập quốc lúc bấy giờ, thông qua việc soạn thảo "Tập bài viết của những người theo chủ nghĩa Liên bang" (The Federalist Papers), đã trình bày một cách hệ thống tại sao Mỹ nên chọn chế độ Liên bang. Nhân cơ hội này, thông qua thiết kế thể chế dân chủ đại nghị, từ phương diện thực tiễn đã xoay chuyển triệt để nhận thức của mọi người về dân chủ, thể chế dân chủ mới coi như chính thức thức tỉnh trong thế giới phương Tây.

Ngày nay nhìn lại, cuộc chiến này có mức độ đặc sắc vượt xa nhiều bộ phim bom tấn Mỹ. Tiến trình chiến tranh đầy trắc trở, tình tiết đầy thăng trầm và những cú "quay xe". Bạn có thể thấy sự giao lưu giữa hai nước lớn với đường lối, ý thức hệ khác nhau đã xuất hiện sai lệch và hiểu lầm như thế nào; có thể cảm nhận tình thế khó khăn trong nội bộ hai thành bang đã chi phối tiến trình và sự phát triển của chiến tranh ra sao; sự thay đổi của tình hình ngoại giao, thái độ của đồng minh sẽ ảnh hưởng thế nào đến cục diện nội bộ. Bạn có thể thấy nền chính trị dân chủ chưa trưởng thành sẽ mang lại tổn hại gì cho cá nhân và tổ chức; có thể thấy lợi ích của tập đoàn chính trị nội bộ lấn át lợi ích quốc gia ra sao, một số chính khách ích kỷ vì tư lợi mà đùa giỡn với dân ý thế nào; cũng có thể chứng kiến sự cuồng nhiệt của đám đông sẽ sinh ra những kẻ ô hợp ra sao.

Khi bạn xem hết tiến trình của cuộc chiến này này, bạn sẽ phát hiện nó tuyệt đối không chỉ đơn giản là chém giết, mà là sự tổn hại toàn diện đến giá trị nội tại của văn minh Hy Lạp. Khói lửa trên chiến trường không chỉ thiêu đốt thân xác tướng sĩ Hy Lạp, mà còn thiêu hủy những giá trị quan mà người Hy Lạp thừa nhận trong tim. Sự suy tàn toàn diện của văn minh Hy Lạp đã là không thể tránh khỏi. Những suy ngẫm và tìm tòi của con người sau này, dù là lý tưởng "Vua Triết gia" của Plato hay lý luận chính trị học của Aristotle, đều không thể cứu vãn vận mệnh suy tàn của Hy Lạp. Văn minh Hy Lạp biến thành một cái xác rỗng bị móc hết ruột gan, lặng lẽ chờ đợi vận mệnh bị thay thế.

Đó đều là di sản của Chiến tranh Peloponnese.

Đoạn lịch sử này rối rắm phức tạp, tài liệu rất nhiều, cơ bản đều là sách dày cộp, liên quan đến điển cố lịch sử, địa lý và văn hóa khá nhiều, nhìn thôi đã đau đầu. Ngoài các học giả lịch sử chuyên nghiệp, người bình thường đừng nói nghiên cứu, chỉ riêng việc nhớ hết tên mấy người này đã là gánh nặng khổng lồ (tên người Hy Lạp khó nhằn thế nào, mọi người có thể tìm lại danh sách đội tuyển bóng đá quốc gia Hy Lạp vô địch Euro năm 2004 là cảm nhận được ngay). Chưa kể đến tên các thành bang và địa danh nhiều như nấm sau mưa, đánh dấu hết lên bản đồ chắc khiến người ta không dám nhìn vì hội chứng trypophobia mất.

Cho nên bài viết này chỉ chọn cái trọng điểm để nói, nói cho ngắn gọn, nói cho nhẹ nhàng, tái hiện lại vở kịch lớn này một lần, cũng thuận tiện xem có đạo lý gì có thể nghiền ngẫm ra được hay không.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
862
Động cơ
799,505 Mã lực
1765683200450.png


Phần 31: Chiến tranh Peloponnese - Ba đời ông cháu diễn một vở kịch

Kể từ năm 445 TCN, khi Sparta và Athens ký kết "Hòa ước Ba mươi năm", Sparta đã xác định rõ giới hạn lợi ích của mình, đồng thời ngoài mặt vẫn duy trì được vị thế "đại ca" của thế giới Hy Lạp, nên cũng không đi tìm Athens gây phiền phức. Athens có được địa vị siêu cường, thành lập liên minh của riêng mình, đồng thời cũng tuân thủ quy định của hòa ước, không khiêu khích đại ca nữa. Hai bên một người có cái danh, một người có cái lợi, nước sông không phạm nước giếng, thế giới Hy Lạp nhờ đó mà thái bình được khoảng mười năm.

Nhưng những ngày tháng êm đềm luôn ngắn ngủi.

Xưa nay, phàm là làm đại ca, nhất định sẽ có một nỗi phiền não: Làm sao quản cho tốt đám đàn em bên dưới. Bạn không gây chuyện không có nghĩa là đàn em không gây chuyện. Bạn trăm phương ngàn kế duy trì cục diện, nhưng đám đàn em này luôn biết cách mang đến cho bạn những ngạc nhiên nhớ đời vào những lúc không ngờ nhất.

Năm 432 TCN, sự ngạc nhiên ấy đã đến, đàn em của Sparta là nhà Corinth gặp chuyện.

Đó chính là sự kiện Epidamnus nổi tiếng.

Nói về toàn bộ quá trình sự kiện này, vì quan hệ phức tạp, tên lại khó nhớ, nên đọc lên nghe rất mệt. Nhưng thực ra rất đơn giản: Mọi người chỉ cần tưởng tượng tất cả những người tham gia sự kiện này là ba thế hệ trong một gia đình, và đây là một vở kịch đạo đức gia đình nảy sinh từ vấn đề khoảng cách thế hệ.

Nói đơn giản là: Ông nội và cháu trai liên thủ lại để xử ông bố.

Mọi người tưởng tượng xem, có một gia đình nọ, ông nội sinh được một người con trai, người con trai này cũng sinh được một đứa con trai, ba đời cùng sống dưới một mái nhà. Ai cũng biết tình huống này dễ nảy sinh khác biệt thế hệ, kịch bản thông thường là ông nội không quản được bố, bố không quản được con. Và do cùng có “kẻ thù” chung, ông nội và cháu trai thường lập thành mặt trận thống nhất để đối phó với ông bố ở giữa. Ông bố bị ép đến mức cuống lên sẽ nghĩ ra đủ chiêu trò phản chế, thế là xung đột luân lý gia đình nảy sinh.

Sự kiện Epidamnus chính là phiên bản cấp quốc gia của vở kịch luân lý này.

Trước đó chúng ta đã nói, văn minh Hy Lạp sau khi bước ra khỏi Kỷ nguyên Bóng tối, sự phồn vinh của nó đi kèm với hai làn sóng di dân thuộc địa ra hải ngoại. Rất nhiều thành bang Hy Lạp đều có kinh nghiệm đi xây dựng thuộc địa. Trong đó có Corinth, hơn nữa Corinth là thành bang gia nhập trào lưu di dân từ khá sớm. Corinth thiết lập rất nhiều thuộc địa ở hải ngoại, trong đó có một thành bang tên là Corcyra (một số tài liệu dịch là Corfu).

Corcyra là một đảo quốc nên có truyền thống thương mại rất mạnh (tài nguyên không đủ, không buôn bán thì không có cơm ăn). Thuyền buôn của họ quanh năm hoạt động trên các tuyến đường thương mại từ Aegean đến Địa Trung Hải. Dần dần Corcyra phát triển thành một thành bang giàu có. Có tiền rồi, Corcyra cũng tính chuyện đi mở rộng thuộc địa cho riêng mình, và thuộc địa mà Corcyra chọn chính là Epidamnus.

Chốt lại mối quan hệ: Corinth lập ra Corcyra, Corcyra lập ra Epidamnus.

Và nguyên nhân cũng như kết quả của vở kịch luân lý này tóm gọn là:

(1) Bối cảnh
Có câu cha mẹ sinh con trời sinh tính, đừng thấy Corcyra do Corinth lập ra mà nhầm, Corcyra chẳng có chút ý định tôn trọng nào đối với Corinth cả. Lời Corinth nói lọt vào tai Corcyra cũng chỉ như gió thoảng mây bay. Và cái gia đình này quả đúng là ba đời một nết, thằng cháu Epidamnus cũng học theo y hệt, coi ông bô Corcyra chẳng ra gì, hoàn toàn không để mắt đến "mẫu quốc". Cứ thế, ba thành bang làm tổn thương lẫn nhau, chẳng ai coi ai ra gì.

Ví dụ điển hình nhất là ông nội Corinth gia nhập Liên minh Peloponnese do Sparta đứng đầu, trong khi hai cha con Corcyra và Epidamnus lại không gia nhập, đúng là chẳng nể mặt ông cụ chút nào.

Tại sao lại như vậy? Điều này phải nói đến vấn đề kỹ thuật cai trị.

Ngày nay, nhận thức của chúng ta về cai trị thuộc địa thường là hình ảnh thực dân bóc lột tàn khốc, nô dịch ép uổng người dân thuộc địa. Nói thế đương nhiên không sai, nhưng cần phân biệt về thời gian. Những áp bức mà các nước thuộc địa phải chịu đựng đều bắt đầu từ sau Thời đại Đại hàng hải. Khi đó, kỹ thuật cai trị của nhân loại đã phát triển đến mức cho phép kẻ thực dân thiết lập hệ thống cai trị vững chắc ngay cả ở những vùng đất xa xôi, từ đó bóc lột sâu hơn.

Ví dụ như kỹ thuật giao thông, tàu hỏa và tàu thủy hơi nước giúp kẻ thực dân đi lại nhanh hơn giữa mẫu quốc và thuộc địa; điện thoại, điện báo giúp kẻ chinh phục từ bản quốc có thể điều khiển từ xa các công việc lớn nhỏ của thuộc địa; kỹ thuật quân sự phát triển cho phép kẻ thực dân sở hữu ưu thế bạo lực không cân xứng, dùng ít người cai trị được nhiều người. Hàng loạt thủ đoạn kỹ thuật này giúp thiết lập hệ thống áp bức thực dân chặt chẽ, ổn định, nắm quyền sinh sát trong tay.

Nhưng ở thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ 8 TCN, những kỹ thuật và thủ đoạn cai trị này chưa xuất hiện. Khi người khai hoang đến một vùng đất mới lập thành phố mới, hoặc là vì kỹ thuật không theo kịp, hoặc chi phí cai trị quá cao, mẫu quốc (thành bang mẹ) thường là lực bất tòng tâm, chỉ có thể mặt kệ cho người khai hoang tự sinh tự diệt ở địa phương. Vì thế mẫu quốc buộc phải trao quyền tự chủ rất lớn cho thuộc địa. Lâu dần, khi các thành bang này phát triển lên, quan hệ với mẫu quốc không còn mật thiết nữa. Lúc này mẫu quốc muốn kiểm soát triệt để và bóc lột thuộc địa thì khó như lên trời. Điều này tạo nên hiện tượng đặc thù của phong trào thuộc địa Hy Lạp: Thuộc địa và mẫu quốc không phải quan hệ chủ tớ, mà giống như họ hàng xa, cuộc sống của thuộc địa không đến mức khổ cực.

Nói cách khác, không phải người khai hoang Hy Lạp tốt bụng, mà là do điều kiện khách quan lúc đó không cho phép họ làm những việc tàn ác kia thôi.

Dưới sự dẫn dắt của logic này, hiện tượng đời trước không quản được đời sau xuất hiện. Corinth là mẫu quốc của Corcyra, nhưng Corcyra giữ khoảng cách rất lớn với Corinth. Tương tự, khi Epidamnus dần dần định hình, quyền tiếng nói của Corcyra đối với Epidamnus cũng nhỏ bé vô cùng.

(2) Nguyên nhân
Nói rõ mối quan hệ vi diệu của ba đời ông cháu này rồi, chuyện tiếp theo sẽ dễ hiểu hơn.

Phàm là một thành bang, luôn có các phe phái, và các phe phái này kiểu gì cũng đánh nhau. Epidamnus không ngoại lệ. Nội bộ Epidamnus cũng tồn tại hai phe lớn: Phe Dân chủ và Phe Độc tài. Nghe tên hai phe này là biết mâu thuẫn giữa họ cũng giống như quan hệ giữa Athens và Sparta vậy, không thể nào tốt đẹp được. Hai bên ngoài mặt hòa khí, sau lưng thì chửi bới tổ tông nhau cả ngày. Mâu thuẫn tích tụ lâu ngày ắt sẽ bùng nổ. Năm 436 TCN, hai phe cuối cùng cũng lao vào đánh nhau, kết quả phe Dân chủ thắng, phe Độc tài thua.

Nhưng phe Độc tài không cam tâm, tập hợp một đám người vác vũ khí bao vây thành phố, thề đoạt lại quyền kiểm soát. Điều này khiến phe Dân chủ trong thành vô cùng căng thẳng. Epidamnus vốn định cầu cứu ông bố Corcyra, nhưng vì bình thường quan hệ căng thẳng quá, ông bố thấy đứa con gặp rắc rối thì chỉ kéo ghế ngồi xem, thấy chết không cứu. Epidamnus bị ép vào đường cùng, dứt khoát vượt mặt bố, tìm thẳng đến ông nội Corinth.

Bạn nào đã đọc các phần trước chắc chắn ấn tượng với Corinth. Thành bang này là một hiện tượng lạ trong thế giới Hy Lạp: Chơi gì cũng ngu, chỉ chơi ngu là giỏi. Phàm là quốc gia hay cá nhân kiểu này, thường có một sự tự tin thần kỳ về bản thân, luôn cảm thấy bố mày vô địch thiên hạ, nhưng khi gặp chuyện thì hiện nguyên hình trong một nốt nhạc. Chuyện gì cũng muốn chõ mũi vào, nhưng đi đâu cũng chỉ là vai phụ. Đã thế lại còn tự cảm thấy bản thân rất tốt đẹp, luôn nghĩ mình năng lực xuất chúng, mị lực siêu phàm, người khác phải xun xoe nịnh bợ mình, cho đến khi bị thực tế vả cho sưng mặt, túm tóc tạt tai tát tới tấp luôn.

Ưu điểm duy nhất có thể gọi tên là tâm lý cực vững, dù lần nào cũng bị đánh cho rơi răng đầy đất, bò dậy vẫn là một hảo hán, lần sau lại tiếp tục gây chuyện, lại bị người ta chà đạp tiếp.

Corinth là nhân vật số 2 trong Liên minh Peloponnese, đại ca Sparta rất khách khí với hắn. Nhưng địa vị cao của Corinth không phải vì hắn giỏi giang gì, mà vì Sparta khó xử.

Đa số thành viên trong Liên minh Peloponnese là các thành bang lục địa, không có hải quân. Corinth là kẻ duy nhất trong đám vịt cạn này sở hữu hải quân. Nên Sparta coi trọng Corinth chỉ vì nhất thời không tìm được ai thay thế nên đành dùng tạm thôi. Sparta là thành bang cực kỳ coi trọng năng lực quân sự, mà sức chiến đấu của Corinth thì hài hước y như đội tuyển bóng đá nam Trung Quốc vậy. Với trình độ đó, Sparta làm sao mà coi trọng thực sự cho được?

Nhưng Corinth lại tự cảm thấy mình rất ổn, luôn nghĩ địa vị mình đặc biệt, đại ca coi trọng là do mình ưu tú, bình thường rất thích chỉ tay năm ngón với các thành bang khác. Mọi người thử nghĩ xem, một tính cách như thế sẽ có thái độ gì với đứa con Corcyra do mình lập ra?

Tao là bố mày, tao là bố mày, tao là bố mày!

Nhưng Corcyra đếch quan tâm đến ông bố này.

Vì thực lực của Corcyra không tồi.

Nhìn trên bản đồ, Corcyra nằm ở vùng khá rìa của thế giới Hy Lạp, vị trí địa lý khiến sự hiện diện của Corcyra không mạnh. Do đó cũng không bị Athens hay Sparta chú ý, và tất nhiên anh ta cũng chẳng gia nhập phe nào. Chính nhờ hai đại ca không ai gây phiền phức, Corcyra yên tâm làm ăn. Thuyền buôn Corcyra đi khắp nơi, nhanh chóng tích lũy tài sản khổng lồ, giống như kiểu lẳng lặng phát đại tài, sướng vô cùng. Do kinh doanh trên biển cần duy trì hải quân mạnh để bảo vệ, qua nhiều năm, Corcyra tích lũy được một hạm đội hải quân không thể xem thường, số lượng tàu chiến còn vượt qua cả Corinth, chỉ đứng sau bá chủ biển cả Athens.

Vì vậy, nhà giàu mới nổi Corcyra đối đãi với ông bố Corinth rất đơn giản: Biến!

Thế là hai thành bang này không thèm nhìn mặt nhau, như bao cặp cha con khắc khẩu khác. Bị con trai coi thường, ông bố đương nhiên mất mặt, huống hồ là kẻ ảo tưởng sức mạnh như Corinth. Quan hệ hai bên cực kỳ căng thẳng, chửi nhau, đâm sau lưng nhau chưa bao giờ dứt.

Corinth nằm mơ cũng muốn tìm cơ hội dạy dỗ thằng con ngỗ nghịch này. Giờ thấy thằng cháu đích tôn cầu cứu, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, vui mừng khôn xiết. Không những tiếp đón nhiệt tình, mà còn sảng khoái đồng ý xuất quân ngay. Nói là làm, lập tức phát binh tiến về Epidamnus, lại còn tổ chức người dân Corinth chuẩn bị di cư quy mô lớn đến đó, ra vẻ như muốn thu nạp trực tiếp, rõ ràng là cố tình chọc tức Corcyra.

Quả nhiên, Corcyra nghe tin Corinth can thiệp vào Epidamnus thì nổi giậm đập bàn: Ông già kia có ý gì? Con trai tôi tôi quản, ông xía vào làm gì!

Corcyra lập tức phái đặc sứ đến giao thiệp với Corinth. Đương nhiên, kết quả dùng ngón chân cũng đoán được: Biến!

Corinth vốn đang định mượn chuyện này để can thiệp, thậm chí kiểm soát Corcyra, mày càng nhảy dựng lên tao càng thích.

Thế là, võ mồm không giải quyết được vấn đề, Corcyra bị ép phải động thủ. Corcyra phái tàu chiến bao vây Epidamnus, định đánh chiếm xong xuôi nhân lúc đại quân Corinth chưa đến, cắt đứt cơ hội của Corinth.

Người Corinth thấy thế càng bực: Mày ngon nhỉ? Có mỗi mày có hải quân à? Coi hải quân Corinth tao là vô dụng hả?

Nói đúng rồi đấy, chính là vô dụng!

Corinth phái 70 tàu chiến tiến về Epidamnus, định cho Corcyra thấy thế nào là sự cường đại của mẫu quốc. Kết quả đi được nửa đường, gặp hạm đội tuần tra của Corcyra. Hai bên chạm mặt, lao vào hỗn chiến. Corinth không hổ danh là tuyển bóng đá nam Trung Quốc của thế giới Hy Lạp cổ đại, trong tình thế quân lực chiếm ưu thế, Corinth lại bị tiêu diệt toàn quân. Toàn bộ 70 tàu chiến không bị đánh chìm thì cũng bị bắt sống.

Phong độ cực kì ổn định!

Hạm đội Corinth bị đánh bại, Epidamnus mất viện binh đương nhiên hết hy vọng, đối mặt với đại quân Corcyra chỉ còn nước mở cổng đầu hàng. Thế là, Corcyra vốn định mặc kệ, ngồi cắn hạt dưa, lại nhờ thế mà kiểm soát được đứa con Epidamnus vốn không nghe lời.

Nếu là người bình thường, câu chuyện đến đây là êm rồi. Nhưng Corinth sao có thể cư xử như người bình thường?

Sau khi bị Corcyra tẩn cho một trận, Corinth bắt đầu chơi bài ngoại giao, kích động các đàn em khác trong Liên minh Peloponnese cùng đến đánh hội đồng, hi vọng dùng cách đánh bầy đàn để vớt vát lại thể diện đã mất.

Mọi người nếu xem phim xã hội đen, sẽ thấy kịch bản kinh điển: "Có giỏi đừng chạy, tao đi gọi người". Phàm kẻ nào nói câu đó đều là lưu manh vặt. Lưu manh xịn tuyệt đối không nói thế, vì lưu manh xịn hoặc là tự tay đánh cho tàn phế, hoặc chỉ huy đàn em chôn sống luôn, không cần nói nhảm. Cách làm của Corinth chính là bộ mặt điển hình của lưu manh vặt, không có thực lực cũng không có đàn em ruột, chỉ có thể chạy đi gọi hội.

Làm người phải biết mình là ai chứ.

Nhưng Corinth không biết, vẫn kích động lôi kéo suốt 2 năm trời, làm ra động tĩnh rất lớn. Corcyra thấy áp lực như núi, dù sao mãnh hổ nan địch quần hồ, nếu để Corinth kéo hội đến đánh thật, Corcyra chắc chắn không đỡ được bao lâu. Huống hồ Epidamnus vừa bị chiếm đóng, thấy Corinth hùng hổ như vậy cũng bắt đầu rục rịch làm phản. Nếu thật sự động thủ, Corcyra thù trong giặc ngoài, chắc chắn sẽ thua.

Ông bố Corcyra bị ông nội và đứa con trai liên thủ ép vào chân tường. Nếu là bạn, đến mức độ này, bạn sẽ nghĩ ra đối sách gì?

Ngoại viện.

Corcyra rõ ràng không muốn cam chịu. Nhưng muốn tìm ngoại viện, thế giới Hy Lạp chỉ có hai nhóm: Liên minh Peloponnese và Liên minh Delian. Nhóm trước chính là kẻ đang muốn xử bạn, Corinth là nhị sư huynh của Peloponnese cơ ma, vậy là Corcyra chỉ có một lựa chọn: Liên minh Delian.

Corcyra phái người đến Athens. Động tác này không phải chuyện đùa, vì tính chất của toàn bộ sự kiện đã thay đổi.

Câu chuyện kể đến giờ, xét riêng về sự kiện Epidamnus, chẳng qua chỉ là vở kịch máu chó giữa Corinth và thuộc địa của hắn mà thôi. Dù cho ông, cha, con có quậy thế nào thì đó cũng là mâu thuẫn gia đình, nói toạc ra là xung đột cục bộ ở vùng biên viễn xa xôi. Người tham gia xung đột không phải là những tay chơi cốt lõi của thế giới Hy Lạp, cường độ xung đột cũng chưa đến mức nghiêm trọng. Nên nhiều sách sử phương Tây định nghĩa sự kiện Epidamnus là "cuộc cãi vã ở phương xa".

Nếu xử lý thỏa đáng, "cuộc cãi vã ở phương xa" này cuối cùng cũng chỉ là bọt nước nhỏ trong dòng sông lịch sử, không gây ra sóng gió lớn. Nhưng xui xẻo thay trong đó lại có Corinth, Corinth không những không hòa giải mà còn đi chọc ngoáy khắp nơi, chỉ sợ thiên hạ không loạn, cuối cùng ép Corcyra phải tìm ngoại viện. Và vì anh ta không còn lựa chọn nào khác ngoài chọn Athens, động tác này đã trực tiếp đẩy sự kiện Epidamnus nâng cấp lên mức đại chiến.

Bởi vì một khi Athens can thiệp, Sparta liệu có ngồi yên? Mà một khi Sparta cũng tham gia, thì đây không còn là xung đột cục bộ vùng biên nữa, mà là hai đại cường quốc trực tiếp đối đầu. Như vậy, tính chất sự kiện hoàn toàn thay đổi. Kịch bản diễn tiếp thế nào không còn do Corinth quyết định nữa, vì diễn viên chính và đạo diễn đều đã đổi người.

Nói cách khác, một loạt thao tác của Corinth vốn là do ăn no rửng mỡ thích làm màu, nhưng làm màu là một môn nghệ thuật, Corinth học nghệ không tinh nên chơi dại. Để vớt vát thể diện, hắn càng làm màu tợn hơn, vừa tự biến mình thành kẻ ngốc, vừa biến một vấn đề nhỏ thành vấn đề lớn, cuối cùng lôi cả hai trùm lưu manh của thế giới Hy Lạp xuống nước. Thế giới Hy Lạp từ đó bắt đầu cuộc chiến tranh dai dẳng, con đường xuống dốc đã không thể tránh khỏi.

Từ góc độ này, nói Corinth là "cục phân chuột trong nồi canh Hy Lạp" quả thực không oan uổng chút nào.

Và thế là, hai đại lưu manh từ sau cánh gà lần lượt bước ra sân khấu, đại chiến sắp sửa bùng nổ.
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
4,003
Động cơ
400,009 Mã lực
Thế hóa ra bọn Judae này ngoài việc bán Chúa còn làm được nhiều việc có ích đấy chứ nhỉ giáo sư? Mà sao bọn này lại đi khắp nơi sang đến cả TQ như hôm nọ giáo sư kể, là thế nào nhỉ? Giáo sư hôm nào mát giời xin kể một đoạn kỹ hơn về bọn này xem sao? Mời giáo sư xem clip operarock mô tả tên Judah bán Chúa. Xạ thu =))

Bộ tộc (dân tộc) ma giáo Judae này có một môn gọi là "Càn khôn đại nã di", hoặc gọi tên khác là "Hấp tinh đại pháp". Mỗi khi thi triển môn "hấp tinh đại pháp" với một dân tộc - bộ tộc. "Ttinh khí" sức lực của dân tộc đó, tài nguyên, niềm tin, sức khỏe .... của tộc - bộ lạc đó kiệt quệ, rất khó để phục hồi sinh lực.

Các trường hợp "hấp tinh" phổ biến :
- tộc Hy lạp : Sparta - Athens - Thebes
- tộc La Mã : Roma, Frank, Gothics,...
- tộc Mông Cổ : sau đại phá hoành tá tràng hơn 100 năm, thì TQ, gấu Nga vui thì đá cho cái, buồn bẹo tai tạt đầu cho cái.
- Tộc Ấn Độ : Magada, Parkistan, Afghanistan, Kazastan ...
- tộc Hung Nô : Khiết Đan, Duy ngô nhĩ, Tây Tạng, Kim, ....

Nói vui thì mỗi khi uống rượu của người Ju' da` thì đang say men thắng "bố mày chẳng sợ sợ ai!" Đến lúc hết rượu, hết men say khi người Judah rút củi đáy nồi thì : "ai bố mày cũng sợ !",
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
862
Động cơ
799,505 Mã lực
1765758196767.png


Phần 32: Chiến tranh Peloponnese - Những nước cờ ngáo ngơ của Athens (1)

Phần trước chúng ta đã nói cha con ông cháu nhà Corinth đấm lẫn nhau, Corcyra bị dồn vào đường cùng, phải cầu cạnh Athens.

Năm 432 TCN, phái đoàn của Corcyra đến Athens.

Sứ giả của Corinth cũng ngay lập tức phi ngựa đuổi theo.

Corinth dù có điên khùng cỡ nào thì cũng biết sự lợi hại của Athens. Nếu Athens đứng về phía Corcyra thì công sức chuẩn bị chiến tranh suốt hai năm qua của Corinth coi như đổ sông đổ bể. Vì vậy, lần này phái đoàn Corinth bám sát gót Corcyra, mục đích cũng là để tranh thủ sự ủng hộ của Athens.

Pericles đích thân ra mặt, tiếp đón hai thành bang với nghi thức cấp cao, nhiệt tình, chu đáo, lịch sự mà vẫn giữ được uy nghiêm, đúng phong thái lãnh đạo nước lớn. Tuy nhiên, sứ giả hai bên nhìn vào khuôn mặt nồng hậu của Pericles nhưng lại cảm thấy rõ ràng một khoảng cách. Vị nhân vật làm mưa làm gió cầm quyền Athens suốt 30 năm này, bản lĩnh chính trị đã đạt đến mức lô hỏa thuần thanh, người của hai thành bang nhìn vào lời nói hành vi của ông ta hoàn toàn không thể đoán được suy nghĩ thực sự trong lòng con cáo già này là gì.

Pericles nói với sứ giả hai bên rằng, Athens hiện đã thực hiện chế độ dân chủ toàn dân triệt để, bất kỳ quyết sách nào của Athens cũng đều phải thông qua Đại hội Công dân bỏ phiếu mới quyết định được. Nếu muốn có được sự ủng hộ của Athens, phải công khai trình bày chủ trương của thành bang mình tại Đại hội Công dân, đồng thời còn phải tranh luận, ai thuyết phục được công dân Athens hơn, người đó sẽ thắng.

Nói thì là vậy, nhưng như chúng ta đã biết, Pericles đã liên tục đắc cử lãnh đạo tối cao Athens suốt 30 năm, thâm niên, uy vọng và thành tích chính trị khiến uy tín của ông lúc này là vô đối, đứng đầu quần hùng. Vì vậy, thực tế nhiều năm qua Athens thực hiện chế độ cai trị "bề ngoài dân chủ, thực chất độc tài". Chuyện lớn chuyện nhỏ ở Athens nếu không có cái gật đầu của Pericles thì không xong được. Thay vì nói phải giành được sự ủng hộ của toàn thể công dân Athens, chi bằng nói là tập trung hỏa lực thuyết phục Pericles thì đúng hơn.

Cả Corcyra và Corinth đều hiểu điều này, và đều đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng.

Đó chính là cuộc tranh luận nổi tiếng tại Athens.

Trong "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese", Thucydides đã dùng rất nhiều giấy mực để miêu tả toàn bộ quá trình tranh luận này, bao gồm cả việc chép lại toàn văn bài diễn thuyết của hai bên, cũng như từng chi tiết bên tung bên hứng, ăn miếng trả miếng trong tranh luận, cảnh tượng miêu tả đặc sắc vô cùng.

Phải nói rằng trình độ diễn thuyết của hai bên rất cao, đẳng cấp tranh luận đều thuộc hàng cao thủ thượng thừa, nhưng cuối cùng Corcyra là người thắng.

Bài diễn thuyết của Corcyra có thể gói gọn trong một câu: Tôi có hải quân.

Như đã nói ở phần trước, vị trí địa lý độc đáo và chiến lược sinh tồn của Corcyra đã biến họ thành cường quốc quân sự trên biển chỉ đứng sau Athens trong thế giới Hy Lạp. Hải quân thường trực của Corcyra có 120 tàu chiến, nhiều hơn cả Corinth. Corcyra nắm lấy điểm này và tính cho Athens một bài toán: Liên minh Peloponnese do Sparta lãnh đạo toàn là một đám "vịt cạn", kẻ duy nhất có hải quân là Corinth, nhưng thực lực hải quân của Corinth không thể so bì với Athens. Thế nhưng, nếu lần này vì tranh chấp mà để Corinth nhân cơ hội thôn tính luôn Corcyra, thì tiếp theo thực lực hải quân của Liên minh Peloponnese sẽ tăng lên đáng kể, khi đó vị trí bá chủ biển cả của Athens e rằng sẽ gặp rắc rối. Ngược lại, nếu lần này Athens chấp nhận lời cầu viện của Corcyra, thì 120 tàu chiến của Corcyra có thể chiến đấu cho Athens, ưu thế trên biển của Liên minh Delian do Athens lãnh đạo sẽ càng thêm vững chắc không thể lay chuyển.

Logic trong lời nói này của Corcyra rất đơn giản, nhưng sức sát thương cực lớn, chọc thẳng vào dây thần kinh nhạy cảm nhất của Athens.

Bởi vì hải quân là cái gốc lập quốc của Athens.

Lục quân Athens tuy mạnh, nhưng so với Sparta vẫn còn khoảng cách, điểm tựa thực sự giúp Athens đứng vững là sức mạnh hải quân vô song. Số lượng tàu chiến thường trực của Athens là 200 chiếc, đây là quốc sách được định ra từ thời anh cả Themistocles, vì vậy duy trì ưu thế hải quân là trọng tâm của mọi trọng tâm trong công việc của Athens. Bây giờ Corinth có khoảng 100 tàu chiến, nếu Corcyra bị Liên minh Peloponnese của Sparta thu nạp, nghĩa là số lượng chiến hạm mà Sparta có thể kiểm soát sẽ ngang ngửa với Athens. Một khi cục diện này hình thành, Athens sẽ phải đối mặt với áp lực khổng lồ từ Sparta trên cả biển và đất liền, địa vị siêu cường của Athens sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Sự thay đổi cán cân lực lượng này, chỉ cần đầu óc còn hoạt động, ai cũng biết phải tính toán thế nào.

Những lời này đã làm lay động Pericles. Và kết quả cuộc bỏ phiếu cuối cùng không khó đoán:

Athens bỏ phiếu thông qua, chấp nhận lời cầu viện của Corcyra.

Corinth thua trắng.

Việc Athens ngả về phía Corcyra, nói một cách khách quan là điều tất yếu. Câu chuyện phát triển đến đây, phải nói rằng đầu óc của Pericles vẫn còn tỉnh táo, quyết sách là lý trí.

Nhưng hiện thực tàn khốc thường nằm ở chỗ, một người dù hiểu rõ đạo lý, nhưng lại không biết cách làm.

Athens là một ví dụ tuyệt vời. Sau khi đưa ra quyết sách chiến lược đúng đắn, màn thể hiện của Athens trong một loạt các thao tác cụ thể tiếp theo quả thực là... nát như tương bần.

Nếu hỏi tệ đến mức nào, có thể hình dung đơn giản là: Liên tiếp 4 nước cờ ngu ngốc.

Nước cờ ngu ngốc 1: Tự triệt đường lui - Kết đồng minh với Corcyra

Sau khi Corinth bị loại cuộc chơi, Corcyra nhận được sự ủng hộ mong muốn. Ngay sau đó, Pericles tuyên bố tại Đại hội Công dân: Kết thành quan hệ đồng minh với Corcyra. Từ nay về sau, Corcyra chính thức trở thành đàn em của Athens, Corcyra coi như đã tìm được tổ chức.

Quyết định này thiếu suy nghĩ!

Bạn có thể sẽ hỏi, Athens chọn liên kết với Corcyra chẳng phải là kết quả tất yếu sao, vậy Athens kết đồng minh với Corcyra thì có vấn đề gì?

Đương nhiên là có vấn đề, bởi vì "bắt tay" và "kết đồng minh" là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Cũng giống như "lên giường" và "kết hôn" vậy.

Nam nữ qua lại, nếu chỉ là "lên giường", dù tình cảm có tốt đến mức nào thì cũng chỉ là chuyện tình chàng ý thiếp. Lỡ một ngày trở mặt, bất cứ lúc nào cũng có thể vẫy tay bai bai chúc em hạnh phúc, pháp luật không quản được. Nhưng một khi đã kết hôn, tính chất liền hoàn toàn khác, quan hệ giữa hai người sẽ do Luật Hôn nhân quản lý. Điều này có nghĩa là quan hệ của hai bạn vừa liên quan đến đạo đức luân lý, vừa phải chịu sự ràng buộc của pháp luật, các bạn đã thiết lập một mối quan hệ khế ước, đương nhiên cũng không thể tùy hứng muốn làm gì thì làm. Muốn chia tay cũng không phải kéo quần lên là đi được, thủ tục phải làm, giấy tờ phải ký, động tác phải thực hiện không được thiếu cái nào, chưa ký xong mà muốn thoát thân à, không có cửa đâu. Giờ thì bạn đã hiểu tại sao Ukraine nằng nặc đòi gia nhập NATO rồi chứ?

Hiểu rõ sự khác biệt này rồi, quay lại xem tại sao nói Athens kết đồng minh với Corcyra là thiếu suy nghĩ.

"Liên kết" giống như "lên giường", là dựa trên cơ sở tin cậy và cùng có lợi giữa hai quốc gia để thiết lập hợp tác, đây là sự ăn ý ngầm hiểu với nhau, chỉ làm không nói, không có sự ràng buộc giấy trắng mực đen; "Kết đồng minh" chính là "vào động phòng", là ký hợp đồng văn bản, hai bên đều lăn tay điểm chỉ, ràng buộc cứng rắn. Tương đương với việc Athens dùng kiệu tám người khiêng rước Corcyra về dinh, mở tiệc mời khách bố cáo thiên hạ.

Người thường đều cho rằng, kết đồng minh vững chắc hơn, dù sao giấy trắng mực đen cũng đáng tin hơn nói miệng. Nói thế cố nhiên không sai, nhưng cũng phải thấy rằng, hạn chế của việc kết đồng minh cũng nhiều hơn, trách nhiệm phải gánh vác nặng hơn. Quyền lợi và nghĩa vụ của đồng minh đều được quy định rõ, bạn muốn kết đồng minh thì những trách nhiệm này không thể không nghiêm túc thực hiện, và đôi khi kết đồng minh sẽ khiến bạn thân bất do kỷ.

Ví dụ điển hình nhất là Đức thời Thế chiến II. Anh họa sĩ lúc đó đang khô máu với Lô Xiên, sợ nhất là Mỹ đâm một nhát sau lưng khiến mình lưỡng đầu thọ địch, vì vậy anh cực kỳ cẩn thận về ngoại giao, dốc toàn lực tránh đắc tội với Mỹ. Kết quả là ăn quả đắng của “đồng minh” Nhật Bản. Năm 1941 quân Nhật tập kích Trân Châu Cảng, chọc giận Mỹ tuyên chiến với Nhật. Do Đức và Nhật Bản có quan hệ đồng minh, theo nghĩa vụ đồng minh, Đức cũng bắt buộc phải tuyên chiến với Mỹ. Anh họa sĩ cứ thế mơ mơ hồ hồ rơi vào tình cảnh phải tác chiến trên cả hai mặt trận. Tất nhiên khi chiến cuộc đã gần ngã ngũ thì kiểu gì Mỹ cũng nhảy vào thôi, nhưng Nhật đã cho Mỹ một cái cớ chính đáng.

Thế nên bạn thấy đấy, một khi đã ký khế ước lập liên minh, quyền lợi của bạn cố nhiên được bảo đảm, nhưng nghĩa vụ cũng là cứng nhắc, không thể đảo ngược. Cái gọi là có được có mất, bạn có được sự đảm bảo bằng văn bản thì cũng phải trả cái giá tương ứng. Ngược lại, nếu hai bên hình thành sự ăn ý, tin tưởng lẫn nhau, thương lượng phương án cùng tiến cùng lui, vừa đạt được mục đích, lại không bị những điều khoản đồng minh trói buộc chân tay, rõ ràng chi phí nhỏ hơn nhiều, cũng linh hoạt hơn nhiều.

Cho nên thông thường mà nói, nếu chưa đến mức vạn bất đắc dĩ hoặc lợi lớn hơn hại rất nhiều, thì đừng dễ dàng kết đồng minh. Như NATO ấy, hỗ trợ Ukraine kiểu gì cũng được, nhưng cho gia nhập à? Còn khuya nhé.

Mang góc nhìn này soi vào Athens, bạn sẽ thấy Athens còn lâu mới đến mức nhất định phải "kết đồng minh". Athens nếu lo lắng hải quân Corcyra bị đối phương thu nạp, thì anh chỉ cần hành động nghiêng về phía nó là được, việc gì phải kết đồng minh? Một khi kết đồng minh, anh coi như công khai tuyên bố "không đội trời chung" với Corinth, cũng đồng nghĩa với việc phát ra tín hiệu thù địch với ông trùm đứng sau Corinth là Sparta. Một khi Sparta ra mặt can thiệp hoặc có biện pháp đáp trả gay gắt, Athens sẽ không còn dư địa.

Nói cách khác, Athens dùng minh ước giấy trắng mực đen để lôi kéo Corcyra, tương đương với việc trực tiếp đóng sầm cánh cửa hòa giải với Corinth, đồng thời kích hoạt rủi ro đối đầu trực diện với Sparta. Về mặt chính trị và ngoại giao, đây là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng, rõ ràng là lợi bất cập hại.

Và ngay sau đó, Pericles tung ra nước cờ ngu ngốc thứ hai.

Nước cờ ngu ngốc 2: Dục tốc bất đạt - Xuất binh đến Corcyra

Đã ký minh ước rồi, Pericles đương nhiên cho rằng, phải làm tròn chút nghĩa vụ của đại ca, đàn em bị bắt nạt, mình phải đứng ra bảo kê.

Nghĩ thế đương nhiên không sai, nhưng vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ: Cách đứng ra bảo kê có rất nhiều loại, mỗi cách có lợi hại riêng, vì vậy việc lựa chọn phương pháp là cả một nghệ thuật.

Vậy Athens đã chọn cách nào?

Rất tiếc, Athens chọn một cách đơn giản thô bạo nhất: Trực tiếp xuất binh.

Athens phái 10 tàu chiến hộ tống Corcyra trở về. Giữa đường họ chạm trán với hạm đội của Corinth tại một nơi gọi là quần đảo Sybota. Corcyra nghĩ: "Có Athens bảo kê, thằng Corinth này còn không liệu hồn, mau tránh đường cho bố". Corinth thì nghĩ: "Thằng khốn nạn nhà mày lại đi liên kết với người ngoài đánh người nhà, đúng là đồ ăn cây táo rào cây sung". Lúc đó hai bên đều đang nóng máu, chẳng nói năng gì được nữa, trực tiếp xắn tay áo lao vào bem nhau tại vùng biển này, sử gọi là "Trận chiến Sybota".

Diễn biến trận Sybota rất cẩu huyết. Nói đơn giản là, nửa đầu trận chiến Corinth chiếm hết ưu thế, ép hạm đội liên quân Corcyra và Athens lui dần, hạm đội Corinth đuổi đến tận ngoài thành Corcyra, mắt thấy thành chủ Corcyra sắp bị công phá.

Nhưng chúng ta đã nhắc đi nhắc lại, quân đội Corinth được mệnh danh là "Đội tuyển bóng đá nam Trung Quốc của thế giới Hy Lạp", luôn bất ngờ sụp đổ trong tình huống tưởng chừng không thể. Vào thời điểm then chốt nhất của trận chiến, chỉ huy Corinth nhận được chiến báo nói rằng hạm đội viện binh của Athens đang tới. Chỉ huy Corinth sợ xanh mặt, vội vã ra lệnh toàn quân rút lui.

Nhưng thực tế là, Athens chỉ phái thêm 20 tàu chiến đến chi viện thôi. Lúc đó Corinth có 150 tàu chiến. Chỉ huy Corinth chưa nắm được tình báo chi tiết đã mơ hồ rút quân, đánh mất cơ hội chiến thắng một cách khó hiểu trong khi đang chiếm ưu thế tuyệt đối.

Quả nhiên thấm nhuần chân truyền của bóng đá nam Trung Quốc!

Mặc dù diễn biến trận Sybota vô cùng hài hước, nhưng hậu quả thì không hề nhẹ nhàng chút nào, thậm chí có thể nói là rất nghiêm trọng.

Bởi vì trận Sybota đã nâng cấp cục diện song phương vốn đã rất căng thẳng thành xung đột vũ trang, và trong quá trình này, Athens khó mà chối bỏ trách nhiệm!

Có thể bạn sẽ hỏi, Athens trước sau chỉ phái có 30 tàu chiến thôi mà, số tàu này kịch kim cũng chỉ để làm cảnh, đối mặt với chủ lực hải quân Corinth thì nhét kẽ răng cũng không đủ. 30 tàu chiến này chỉ là lực lượng răn đe, trận Sybota cũng chỉ là ngẫu nhiên cướp cò thôi. Sao có thể nói vì Athens phái 30 tàu mà đổ hết trách nhiệm lên đầu Athens được? Hơn nữa, dốc sức giúp bạn mình thì có gì sai?

Đương nhiên là sai!

Lấy ví dụ cho mọi người dễ hiểu.

Mọi người đều từng thấy cảnh rủ nhau đánh hội đồng rồi chứ? Bạn có thấy ai vừa vào trận đã trực tiếp cầm dao chém người không? Kịch bản thông thường là hai bên hẹn nhau một chỗ, sau đó cố gắng kéo càng nhiều người càng tốt, bày ra bộ dạng hung hăng, dùng sự uy hiếp để dọa đối phương. Thủ đoạn dọa nạt có rất nhiều, ví dụ số lượng: tao có 100 thằng mày chỉ có 50, thế là tao uy hiếp được mày. Ví dụ thực lực cứng: tao cầm gậy bóng chày, còn mày chỉ có tay không, thế là tao có ưu thế hơn. Thậm chí nhiều thứ hư ảo cũng có thể dùng để làm màu, ví dụ bên tao xăm trổ đầy mình, ta Thanh Long hữu Bạch Hổ nhìn là thấy ớn, còn bên mày xăm Doraemon với Hello Kitty thì mày đến để tấu hài à.

Chỉ khi tất cả các thủ đoạn răn đe này dùng hết rồi mà hai bên vẫn không đàm phán được thì mới thực sự động thủ. Bạn thấy đấy, ngay cả lưu manh đánh nhau cũng phải có chiến thuật, dùng chiêu trò, côn đồ đầu đường xó chợ còn biết không thể dễ dàng động thủ, huống hồ là ván cờ tầm cỡ quốc gia. Vừa vào đã khô máu, đấy không phải là dũng mãnh, đấy là ngáo!

Cho nên giờ có thể hiểu Athens sai ở đâu rồi. Kể cả anh đã kết đồng minh với Corcyra, anh muốn bảo kê đàn em thì đâu phải chỉ có con đường quân sự. Trừng phạt kinh tế được không? Bao vây ngoại giao được không? Tạo dư luận được không? Ngay từ đầu có đầy thủ đoạn để dùng, những thủ đoạn này đều lý trí hơn là phái binh. Mọi người cứ nghĩ đến cục diện quốc tế ngày nay, hai siêu cường vật tay nhau, mới đầu chắc chắn là võ mồm, chửi bới nhau, làm gì có chuyện vừa vào đã mang máy bay, tên lửa, tàu sân bay đi lượn khắp thế giới. Ở giữa nhất định có quá trình leo thang từng bước. Chỉ khi những thủ đoạn này cạn kiệt, hết cách rồi mới tính đến chuyện cởi trần cầm dao xông vào nhau. Còn trong việc xử lý vấn đề Corcyra, Athens vừa vào đã trực tiếp phái binh, đây rõ ràng không phải là quyết sách lý trí.

Có phải vội đi đầu thai đâu mà gấp thế?

Hai nước cờ này của Pericles, có thể nói là đã hiểu rõ đạo lý nhưng đi sai các bước, và sai lầm này đã mang lại ảnh hưởng cực kỳ tiêu cực cho toàn bộ cục diện ngoại giao của Athens.

Bởi vì đứng ở góc độ Corinth để giải mã việc Athens phái binh, góc nhìn và kết luận hoàn toàn khác biệt.

Trong mắt phe Corinth, khi Athens từ chối Corinth tại Đại hội Công dân, chọn Corcyra thì đã xác định rõ thái độ: Làm kẻ thù với Corinth! Vậy thì hành động phái quân đội sau đó của anh, bất luận số lượng bao nhiêu, chỉ cần anh thực hiện động tác này, chính là đóng đinh thái độ thù địch đó thành sự thật. Tương đương với việc Athens và Corcyra bái thiên địa, vào động phòng xong vẫn chưa đủ, ngày hôm sau anh còn xách cái loa phường đi rêu rao khắp thế giới: "Corcyra là ghệ của tao, đứa nào dám động vào nó tao xử đứa đó". Thái độ này đối với Corinth chính là sự sỉ nhục và khiêu khích trắng trợn, ai nuốt trôi được cục tức này?

Athens cho rằng phái binh là răn đe, còn Corinth cho rằng phái binh là khiêu khích.

Răn đe là hướng tới việc dập tắt chiến tranh, còn khiêu khích là hướng tới việc khai chiến, hai cái đó giống nhau được à?

Athens tưởng phái vài lính lẻ tẻ là dọa được Corinth, nhưng trong mắt Corinth, Athens làm vậy là không chơi theo bài bản thông thường, mà trực tiếp nâng cấp cục diện song phương lên đối đầu quân sự. Trong ngôn ngữ quan hệ quốc tế ngày nay, có một thuật ngữ chuyên dùng để miêu tả hành vi này: Leo thang xung đột!

Vì vậy khi chúng ta đứng ở góc độ hậu thế để dựng lại hành vi phái binh đến Corcyra của Athens, chắc chắn đó là một quyết định tồi tệ: Mặc dù khởi nguồn của mọi chuyện đều đến từ con báo Corinth, nhưng từ đầu đến cuối Corinth cũng chỉ là võ mồm thôi. Còn Athens vì quyết sách sai lầm dẫn đến trận Sybota, tương đương với việc vừa vào đã vả thẳng vào mặt Corinth một cái, điều này tất yếu dẫn đến cục diện quốc tế của thế giới Hy Lạp đi từ căng thẳng đến căng thẳng hơn.

Corinth bị ăn hành ở Sybota, tự nhiên thẹn quá hóa giận. Màn kịch tiếp theo, mọi người dùng đầu gối cũng nghĩ ra được: Chạy đến nhà Sparta khóc lóc ăn vạ.

Sparta như chúng ta đã nói trước đây, là thành bang theo chủ nghĩa "thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện". Trong mắt Sparta, mấy việc này nghe thôi đã thấy phiền, hơn nữa Sparta thừa biết chuỗi sự kiện từ vụ Epidamnus đến giờ đều do thằng khốn Corinth tự mình quậy ra. Cho nên đối mặt với Corinth lăn lộn khóc lóc, Sparta tỏ thái độ vững như bàn thạch, không trực tiếp ra mặt can thiệp, cũng không chỉ thị các đàn em khác trong liên minh phối hợp với Corinth làm khó Athens. Suốt cả quá trình Sparta luôn im hơi lặng tiếng.

Nếu sự việc dừng lại ở đây, thì dù Athens có phạm hai sai lầm liên tiếp, cục diện vẫn chưa tồi tệ đến mức không thể cứu vãn. Chỉ cần Sparta giữ bình tĩnh thì Liên minh Peloponnese sẽ không đối đầu trực diện với Athens và Liên minh Delian. Cuộc xung đột này sẽ chỉ giới hạn trong mâu thuẫn cá biệt giữa Athens và Corinth mà thôi, khả năng bùng nổ thế chiến toàn diện là không tồn tại.

Theo lý thì Athens nên trân trọng cơ hội này vạn phần. Nhưng rất tiếc, Athens không hề nhận thức được mức độ nghiêm trọng của vấn đề.

Pericles rõ ràng đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc phán đoán tình hình. Khi dư âm của hai nước cờ ngu ngốc bên trên còn chưa dứt, vị lãnh đạo cường thế 61 tuổi này lại tung liên tiếp hai chiêu lớn nữa.

Chính hai chiêu này giáng xuống, giống như tiêm thêm một mũi thuốc xổ cho bệnh nhân đang thoi thóp vậy, khiến cục diện vốn đã như trứng xếp chồng bị làm cho mất kiểm soát hoàn toàn, Sparta cũng bị ép phải từ sau cánh gà bước ra sân khấu, và chiến tranh lập tức bùng nổ. Vậy hai nước cờ dở tiếp theo của Athens là gì? Mời xem hồi sau sẽ rõ.
 

yadih

Xe buýt
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
502
Động cơ
33,632 Mã lực
Hai tên Athen Sparta đấm nhau sắp ngã ngũ chưa, giáo sư losedow?
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
862
Động cơ
799,505 Mã lực
1766054259998.png



Trận hải chiến Sybota khiến Corinth mất hết mặt mũi, bèn chạy đến tìm đại ca Sparta khóc lóc kể khổ. Nhưng ông anh cả Sparta chỉ mỉm cười ngồi nhìn Corinth diễn từ đầu đến cuối chứ nhất quyết không tỏ thái độ.
Lòng tự trọng của Corinth bị tổn thương sâu sắc, nhận một cú chí mạng 10.000 điểm sát thương.
Nếu là kẻ khác, đối mặt với tình cảnh trong nhà thì yếu kém, ra ngoài đánh lại không thắng, chắc đã sớm cụp đuôi im hơi lặng tiếng rồi.
Nhưng với tư cách là kẻ chuyên chọc gậy bánh xe của thế giới Hy Lạp kiêm nhà lãnh đạo chuyên làm màu, Corinth chưa bao giờ đi theo con đường bình thường. Corinth nín nhịn, quyết tâm dù thế nào cũng phải kiếm chuyện để chọc tức Athens, nhằm vớt vát lại chút thể diện đã mất.
Thế là, Corinth chuyển tầm mắt từ phía Tây thế giới Hy Lạp sang phía Bắc, và dừng lại ở một thành phố: Potidaea.
Và chính điều này đã dẫn đến nước cờ sai lầm thứ ba của Athens.
(3) Nước cờ sai lầm thứ ba: Cuộc vây hãm Potidaea
Chắc mọi người sẽ thắc mắc, sao Corinth lại nhắm trúng thành bang này nhỉ?
Bởi vì nó rất đặc biệt.
Do nằm ở khu vực quanh biển Aegean, vì sự sinh tồn và phát triển nên thành phố Potidaea đã gia nhập Liên minh Delian, vì không vào thì không làm ăn gì được, cơm cũng chẳng có mà ăn. Nhưng thành phố này lại là một trong những thuộc địa được Corinth xây dựng sớm nhất. Và khác với Corcyra, mối quan hệ giữa Potidaea và Corinth cực kỳ tốt đẹp. Trong thành Potidaea, từ giới tinh hoa quý tộc cho đến kẻ buôn bán hàng rong, đâu đâu cũng thấy người Corinth.
Do đó, không khó để hiểu tại sao Corinth lại đánh chủ ý lên thành bang này: Đã không đánh lại Athens trực diện thì ông đây sẽ quấy rối trong nội bộ liên minh của mày cho bõ tức, dù chỉ là để làm cho Athens mày thấy cay dáy cũng được.
Tuy nhiên, Corinth khôn lanh thì người Athens cũng chẳng phải kẻ ngốc.
Corinth liên tục phái người vào thành Potidaea để thăm hỏi, móc nối quan hệ. Trong chốc lát, hai thành bang qua lại nóng hổi, tạo ra thanh thế rất chi là náo nhiệt. Athens rất nhanh đã nắm được tình hình. Athens chỉ cần động não một chút là hiểu ngay trong hồ lô của Corinth bán thuốc gì, thế là Athens phản ứng tức thì. Athens phái quân bao vây Potidaea, đồng thời gửi tối hậu thư cho quân trấn thủ trong thành: Đuổi hết quan chức Corinth về nước, phá hủy tường thành, và lập tức gửi một nhóm con tin đến Athens cư trú.
Người Potidaea vừa nhìn thấy các điều kiện này liền nhảy dựng lên: Yêu cầu của Athens quá thể đáng!
Bây giờ nhìn lại, người Potidaea quả thực có lý do để phẫn nộ: Bởi vì điều kiện Athens đưa ra quá hà khắc, đây là biện pháp dành cho kẻ bại trận, chứ không phải thái độ dành cho đồng minh. Thái độ này của Athens ngụ ý rằng họ chẳng coi Potidaea là người phe mình. Nhưng Potidaea đã làm gì quá giới hạn đâu, dựa vào đâu mà bị đối xử như nô lệ vong quốc vậy? Chuyện này đổi lại là ai cũng khó mà chấp nhận nổi, nên người Potidaea đương nhiên không chịu, lập tức phái người đến Athens giao thiệp, không thể để Athens bắt nạt như vậy được.
Phái đoàn của Potidaea ở lì tại Athens suốt cả một mùa đông, ngày nào cũng đi tìm đủ mọi hạng người trong thành Athens để du thuyết, tranh luận. Sứ giả Potidaea năm lần bảy lượt nhấn mạnh rằng việc họ qua lại với người Corinth là giao lưu trong phạm vi bình thường, không hề làm gì vi phạm quy tắc của Liên minh Delian hay làm bất cứ điều gì tổn hại đến lợi ích của Athens. Athens đối xử với họ như vậy hoàn toàn là vô căn cứ.
Thucydides cũng ghi chép lại bài diễn thuyết của phái đoàn Potidaea trước Hội đồng công dân Athens trong cuốn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesus". Phải nói rằng những bài diễn thuyết này logic chặt chẽ, có lý có tình, luận điểm sắc bén, lời lẽ thống thiết. Đó là những văn bản ngoại giao cực kỳ xuất sắc.
Tuy nhiên, chẳng có tác dụng gì sất.
Người Athens vốn dĩ đã đề phòng Potidaea, nên mặc cho sứ giả Potidaea có lý lẽ đanh thép đến đâu cũng không thể xóa bỏ sự nghi kỵ trong lòng họ. Một mùa đông trôi qua, dưới sự chủ đạo của Pericles, người Athens quyết định giữ nguyên nội dung tối hậu thư ban đầu: Đuổi người, phá tường, giao con tin, không thiếu một mục nào.
Nỗ lực ngoại giao của Potidaea thất bại toàn tập!
Khi quyết định cuối cùng của Athens truyền về Potidaea, có thể tưởng tượng được phản ứng của cư dân trong thành. Người Potidaea giận dữ, ngoài việc lôi tổ tông tám đời nhà Athens ra chửi bới mấy chục lượt, họ triệu tập hội nghị toàn thành, quyết định phản kháng. Tiếp đó, họ cầm vũ khí, đóng cổng thành, chính thức choảng nhau với quân đội Athens đang bao vây bên ngoài.
Đó chính là trận "Vây hãm Potidaea" nổi tiếng.
Nói thật lòng, trận này Athens đuối lý.
Có thể bạn sẽ có cách nhìn khác: Athens cũng là thân bất do kỷ mà, Potidaea thân thiết với Corinth như thế, ai dám bảo đảm sau này nó không tạo phản? Ngộ nhỡ nó làm phản thật thì chẳng phải là họa từ trong nhà hay sao? Thay vì thế, chi bằng bây giờ lo trước cho khỏi họa, bóp chết cái rủi ro này từ trong trứng nước.
Nếu bạn nghĩ như vậy, thì tức là bạn chưa hiểu rõ thế nào là "đề phòng rủi ro" và cũng hiểu sai về cái gọi là "lo trước cho khỏi họa".
Hỏi bạn một câu: Trên đời này ngày nào cũng xảy ra tai nạn xe cộ, biết đâu người tiếp theo ra đường bị tông là bạn, vậy thì có phải cả đời bạn sẽ không ra khỏi nhà nữa không?
Câu hỏi này e là ai cũng biết phải trả lời sao. Tương tự, cốt lõi của vấn đề Potidaea cũng tuân theo logic này. Rủi ro là một loại khả năng, còn tạo phản là một sự thực đã rồi. Tình hình Potidaea đúng là có rủi ro, nhưng chưa trở thành sự thực tạo phản. Thế mà Athens vừa vào đã dùng ngay biện pháp phái quân vây thành, phá tường bắt người, đây có phải là chiến lược ứng phó rủi ro không? Đây rõ ràng là biện pháp dùng để xử lý sự thực đã rồi (đã tạo phản) cơ mà?
Potidaea đúng là có nguy cơ bạo loạn, nhưng cũng không thể vì cái nguy cơ đó mà ép người ta vào đường chết chứ. Bạn chỉ có thể nói vì Potidaea quan hệ tốt với Corinth nên khả năng bạo loạn cao hơn, nhưng nói cho cùng, đó chỉ là "khả năng" mà thôi, là phỏng đoán chứ không phải sự thật. Trong tình huống Potidaea chưa tạo phản, cũng không tìm thấy bằng chứng chắc chắn sẽ tạo phản, mà Athens trực tiếp xuất binh, thế này có phải quá chủ quan, quá phiến diện không? Tiềm thức của hành động này là: Tuy tao không tìm thấy bằng chứng, nhưng tao cảm thấy Potidaea chắc chắn sẽ phản.
Đến đây, mọi người có thể thấy rõ nước cờ của Athens sai ở chỗ nào rồi: Phản ứng thái quá, dùng sức quá đà.
Khách quan mà nói, Potidaea và Corinth quan hệ tốt, đó là vấn đề lịch sử để lại, không phải Potidaea cố tình muốn chống đối Athens nên mới thân với Corinth. Trong thành Potidaea có vài người Corinth thì đã sao? Chỉ là họ hàng qua lại thôi mà, chẳng lẽ vì lo lắng có rủi ro mà ông cấm người ta thăm hỏi bà con? Còn bây giờ Athens chỉ vì nỗi sợ hãi trong lòng mà ra tay tàn độc với Potidaea, đây quả thực là chứng "hoang tưởng bị hại".
Quan trọng hơn, việc Athens làm thế này còn để lại một hậu quả lâu dài tồi tệ: Khả năng lãnh đạo bị suy yếu nghiêm trọng.
Potidaea đường đường chính chính là một thành viên của Liên minh Delian, ngoan ngoãn phục tùng đại ca Athens, mọi mặt đều quy củ, cũng chưa từng nợ phí hội viên. Bây giờ ông đối xử với người ta như thế, các đàn em khác trong Liên minh Delian đều nhìn vào mắt, xin hỏi ông họ sẽ nghĩ gì?
Nếu bạn làm việc dưới trướng một đại ca như thế, bạn có cảm thấy nỗi bi ai kiểu "thỏ chết cáo khóc" không? Biết đâu lần sau có chuyện gì, kẻ đen đủi chính là bạn. Vậy thì tiếp theo, đàn em đối xử với đại ca sẽ là "đồng tâm hiệp lực" hay là "đồng sàng dị mộng"?
Bạn tưởng rằng đã có được sự an toàn, nhưng cái mất đi lại là lòng người!
Có rủi ro, bạn đề phòng là chuyện thiên kinh địa nghĩa, nhưng không thể phản ứng thái quá. Nếu vì lo lắng mà biến thành hành động triệt hạ, thì cuối cùng nhất định sẽ khiến những người đi theo bạn lạnh lòng! Sai lầm kiểu "bỏ ăn vì lo nghẹn" của Athens gây ra sự dao động trong nội bộ đồng minh, thật sự là lợi bất cập hại.
Hồ đồ!
Chí mạng hơn nữa là, cuộc vây hãm Potidaea này, Pericles vốn tưởng sẽ kết thúc nhanh chóng, không ngờ lại biến thành chiến tranh trường kỳ. Potidaea tường cao hào sâu, lương thực dự trữ trong thành đủ ăn mấy năm, dân chúng trong thành vì cực kỳ phẫn nộ với Athens nên đồng lòng nhất trí, sức chiến đấu tăng vọt, khiến quân công thành của Athens nếm đủ mùi đau khổ. Hơn nữa cuộc vây hãm này, khi chiến tranh toàn diện bùng nổ về sau, đã đào cho Athens một cái hố khổng lồ, khiến Athens tổn thất nặng nề, những điều này chúng ta sẽ nói sau.
Và ngay khi cuộc vây hãm Potidaea bùng nổ, Pericles dường như cảm thấy động tĩnh vẫn chưa đủ lớn, bèn tung ra chiêu cuối cùng: Trực tiếp đẩy mạch truyện lên cao trào.
Và chiêu ulti này cũng trở thành cọng rơm cuối cùng đè chết con lạc đà.
(4) Nước cờ sai lầm thứ tư: Khó hiểu tột cùng - Cấm vận Megara
Trong năm xảy ra cuộc vây hãm Potidaea, Pericles đã ra một mệnh lệnh, ban bố trong toàn bộ Liên minh Delian một thứ gọi là Sắc lệnh Megara, tuyên bố trừng phạt kinh tế đối với Megara. Sắc lệnh này quy định: Từ hôm nay trở đi, thành bang Megara sẽ không được phép cập bến bất kỳ thành phố nào thuộc Liên minh Delian hoặc sử dụng cảng biển của họ, đối với tàu buôn và hàng hóa của Megara, Liên minh Delian nhất loạt không nhận.
Sắc lệnh này vừa đưa ra, cả thế giới ồ lên kinh ngạc.
Vị trí của Megara trong lòng Sparta là vô cùng quan trọng. Megara là thành bang có thực lực kinh tế chỉ đứng sau Corinth trong Liên minh Peloponnesus, nó cũng sở hữu lực lượng hải quân khá mạnh và quy mô thương mại viễn dương khổng lồ. Nếu nói Corinth là tiểu đệ của Sparta, thì Megara tương đương với "cô nhân tình nhỏ" của Sparta.
Từ sự kiện Epidamnus bắt đầu đến giờ, vẫn luôn là màn xâu xé lẫn nhau giữa Corcyra, Corinth và Athens. Từ đầu đến cuối chẳng có việc gì của Megara, do đó cô nhân tình nhỏ Megara cùng với ông chủ Sparta vẫn ngồi một bên, vừa cắn hạt dưa vừa xem kịch. Bây giờ Athens đột nhiên tung ra chiêu này, chẳng khác nào trong lúc đang tẩn cho đàn em của Sparta một trận, tiện tay tát luôn cô nhân tình vô tội đứng bên cạnh một cái.
Pha xử lý này của Pericles quả thực quá lẳng lơ, lẳng lơ đến mức người đương thời và cả hậu thế cũng không tìm ra nổi một lý do giải thích cho ra hồn.
Ngay cả chính Thucydides, khi viết cuốn "Chiến tranh Peloponnesus", cũng tỏ ra nghi hoặc về việc tại sao Pericles lại hành hạ Megara. Và nhiều học giả ngày nay cũng tranh cãi kịch liệt về việc rốt cuộc lúc đó Pericles nghĩ gì. Ví dụ Will Durant trong cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" cho rằng Athens muốn nhân cơ hội độc chiếm quyền chủ đạo thương mại trên biển của thế giới Hy Lạp, xây dựng đế chế thương mại, nên muốn ép Megara gia nhập. Còn Giáo sư Donald Kagan, giáo sư danh dự Đại học Yale, chuyên gia uy tín về lịch sử Hy Lạp thì cho rằng Athens làm vậy hoàn toàn vì cân nhắc ngoại giao, ngăn cản Megara đứng về phía Sparta. Tóm lại là chín người mười ý, nhưng chẳng ai đưa ra được một lý do thuyết phục.
Là một quần chúng "ăn dưa hóng chuyện", tôi chỉ có thể đưa ra quan điểm đoán mò của riêng mình ở đây: Đây là một câu chuyện yêu quá hóa hận.
Mọi người chắc vẫn còn nhớ cô nhân tình nhỏ Megara này chứ? Chúng ta đã từng kể câu chuyện về cô nàng. Có một lần trong nhà Sparta xảy ra xung đột, cô nhân tình Megara và ông anh em Corinth (đi đâu cũng có mặt tay này) đánh nhau, tên địa chủ Sparta khoanh tay đứng nhìn, khiến Megara nhỏ bé yếu đuối không đánh lại gã Corinth to béo vạm vỡ. Trong cơn tức giận, cô nhân tình này bỏ nhà ra đi, đến làm thiếp cho gã Athens phong lưu phóng khoáng, lắm tiền nhiều của ở hàng xóm. (Mời đọc lại Phần 24: Athens cân tất và Phần 25: Rắc rối ập đến)
Nhưng vì tình xưa nghĩa cũ với Sparta chưa dứt. Ngay lúc Athens đang sứt đầu mẻ trán vì khủng hoảng nội bộ, cô nàng Megara "đứng núi này trông núi nọ" đã nhân cơ hội quay về vòng tay người tình cũ. Hơn nữa lúc đi còn không quên gói ghém mang về hết một đống vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc mà Athens đã tặng. Điều này đương nhiên khiến cao thủ tán gái kiêu ngạo như Athens rất khó chịu. Cho nên lần này Athens đã nhìn chuẩn thời cơ, mượn cớ chơi khăm cô nàng Megara lăng nhăng một vố, xả cục tức năm xưa.
Bạn có thể coi như Athens ôm hận trong lòng với vât báu nhân gian Megara, nên nhân cơ hội này mượn gió bẻ măng để gây chuyện.
Quan điểm trên chỉ là ý kiến cá nhân, không thích xin mời ném đá.
Còn nếu bạn hỏi rốt cuộc tại sao đường đi nước bước của Pericles lại "dị" như thế, xin lỗi, tôi không đưa ra được đáp án chính thống.
Tuy nhiên, mặc dù chúng ta không biết nguyên nhân sâu xa đằng sau sự "khó hiểu" của Pericles, nhưng hậu quả của chính sách khó hiểu này thì chúng ta biết:
Sparta rất tức giận, hậu quả rất nghiêm trọng.
Vô duyên vô cớ chịu sự sỉ nhục lớn thế này, Megara đương nhiên cũng chạy đến chỗ Sparta khóc lóc dọa treo cổ. Lúc này Sparta muốn tiếp tục giả chết cũng không thể được nữa rồi.
Trước đó Corinth chạy đến trước mặt Sparta lăn lộn ăn vạ, nói cho cùng chỉ là ân oán cá nhân giữa Athens và Corinth, vả lại đúng là do tên khốn Corinth gây chuyện trước, Sparta hoàn toàn có lý do để không quan tâm. Nhưng bây giờ ngay cả Megara cũng bị vạ lây, đây không còn là trường hợp cá biệt nữa, mà là sự kiện trọng đại mang tính phổ biến rồi. Nếu xử lý không tốt, có khả năng lan ra toàn bộ Liên minh Peloponnesus. Sparta với tư cách là đại ca liên minh, muốn đứng ngoài cuộc cũng không xong.
Câu chuyện phát triển đến đây, chúng ta hãy cùng chải chuốt lại các tình tiết quan trọng: Toàn bộ sự việc bắt đầu từ một vở kịch luân lý gia đình. Nhà nọ có thằng nhóc tên là Epidamnus, từ nhỏ tính cách ngỗ ngược, luôn chống đối ông bố Corcyra. Hôm nọ thằng nhóc gây chuyện, bị ông bố mắng cho một trận, nhưng thằng con không phục, chạy đến chỗ ông nội Corinth cáo trạng. Đúng là cha nào con nấy, Corinth làm ông nội, từ nhỏ cũng chẳng ít lần bực mình với thằng con Corcyra, giờ nhân dịp thằng cháu đích tôn đến mách, bèn ra sức ủng hộ cháu Epidamnus đấu lại bố Corcyra. Corcyra bị hai ông cháu liên thủ chèn ép đến mức thẹn quá hóa giận, bèn nổi đóa, gọi đại ca xã hội đen ở khu vực là Athens đến giúp, can thiệp vào việc nhà. Athens không hổ danh là dân anh chị, ra tay tàn độc, xử đẹp ông nội Corinth khiến lão không còn chút tính khí nào. Thế nhưng, lúc Athens ra tay không chú ý lỡ dùng sức quá đà, không những đánh ông nội trọng thương, mà còn suýt đánh cô bảo mẫu được cưng chiều nhất trong nhà (Megara) đến mức không thể tự lo liệu sinh hoạt. Lần này cuối cùng đã kinh động đến Boss lớn nhất của gia đình này, người nắm quyền thực sự, Sparta. Lão già cuối cùng không ngồi yên được nữa, đích thân ra mặt khô máu với Athens.
Nói cách khác: Do Athens quá lẳng lơ, cuối cùng đã ép Sparta vốn luôn ngại gây chuyện phải bước từ hậu trường ra sân khấu. Sparta tránh không được nữa, đích thân xuống sân tìm Athens giao thiệp.
Sparta liên tiếp mở hai cuộc họp, triệu tập đại đa số thành viên Peloponnesus tham gia. Sau khi phân tích nhìn lại toàn bộ quá trình, dưới sự lên án kịch liệt của Corinth và Megara, Sparta cho rằng biểu hiện của Athens đúng là "gọi đòn". Đối với hai đương sự là Corinth và Megara, Athens quả thực làm quá đáng, nhưng quan trọng hơn là, nếu cứ mặc kệ cho nó phát triển, cuối cùng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sự phồn vinh và ổn định của Liên minh Peloponnesus và toàn bộ thế giới Hy Lạp.
Tuy nhiên, Sparta rút ra kết luận trên nhưng không lập tức vác đồ ra chém nhau ngay. Bởi vì họ biết rõ thực lực của Athens không phải dạng dặt dẹo, nếu đánh thật thì chính là mũi tên bắn ra không thể quay trở lại, toàn bộ thế giới Hy Lạp chắc chắn sẽ rơi vào cuộc chiến tranh toàn diện. Các quý ông Sparta tuy thô lỗ, nhưng ý thức rủi ro tối thiểu vẫn có. Vì thế dựa trên nhận thức này, từ tháng 8 năm 432 TCN đến tháng 3 năm 431 TCN, trong vòng nửa năm, Sparta liên tiếp phái 3 phái đoàn sang Athens đàm phán.
3 phái đoàn này trong quá trình đàm phán đã đưa ra các điều kiện rất trung dung: Sparta chỉ hy vọng Athens kịp thời dừng tay, ví dụ đừng làm khó Megara, cũng đừng làm khó Potidaea, miễn là có thể yên ổn làm ăn thì cố gắng đừng can thiệp vào sai sót nội bộ của các thành bang Hy Lạp. Tóm lại là một câu: Mọi người đừng kích động, ngồi xuống nói rõ vấn đề, rồi tìm cách giải quyết.
Người đời sau nhìn lại, những suy nghĩ này của Sparta rất có tính xây dựng, hơn nữa những điều kiện này là do Sparta đích thân ra mặt đàm phán, đại diện cho uy quyền tối cao của Liên minh Peloponnesus, chỉ hy vọng người Athens nể mặt một chút. Nếu mọi người đều có thể bình tâm tĩnh khí giải quyết sự việc, chiến tranh sẽ có thể tránh được, dù sao lùi một bước biển rộng trời cao, tốt cho cả hai.
Tuy nhiên, lịch sử không có chữ "nếu".
Đối mặt với 3 phái đoàn đại biểu, thái độ của Athens vô cùng đơn giản: Cút.
Cả ba phái đoàn đều xám xịt quay về Sparta. Hy vọng hòa bình đã bị bóp chết tươi bởi thái độ cứng rắn của Pericles.
Cho đến lúc này, Athens bất kể là xuất binh giúp Corcyra, hay trừng phạt Megara, hoặc là từ chối Sparta, toàn bộ quá trình đều hùng hổ dọa người. Vậy xin mọi người hãy nghĩ xem, nếu đổi lại bạn là Sparta, là "người cầm trịch" của Liên minh Peloponnesus, là đại ca trên danh nghĩa của thế giới Hy Lạp, bị thằng thứ hai bắt nạt đến mức này, bạn có nhịn được không?
Sao mà nhịn nổi!
Chưa nói đến việc Sparta là quốc gia quân phiệt, tính khí không thể nào mềm như quả hồng để người ta tùy tiện bóp, chỉ nói riêng việc ông ta là người đứng đầu một liên minh quốc tế cỡ lớn, bên dưới có bao nhiêu đàn em, bao nhiêu cặp mắt đang nhìn chằm chằm vào ông. Nếu ông bị ép đến mức này rồi mà vẫn không dám ho một tiếng thì tốt nhất là đi xuống đi.
Không còn lựa chọn nào khác, không còn đường lui.
Năm 431 TCN, sau khi mọi nỗ lực ngoại giao thất bại hoàn toàn, Sparta tuyên chiến với Athens.
Đến đây, một sự kiện bắt nguồn từ vùng biên viễn của thế giới Hy Lạp, kéo theo mâu thuẫn giữa các thành bang nội bộ Peloponnesus, trong chớp mắt đã leo thang thành cuộc đối đầu giữa hai trận doanh lớn nhất thế giới Hy Lạp. Một cuộc đại chiến thế giới của người Hy Lạp kéo dài 27 năm, chính thức mở màn từ đây.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
862
Động cơ
799,505 Mã lực
1766054297464.png


Chiến tranh Peloponnesus đã bắt đầu, nhưng trận đầu tiên lại nổ ra giữa hai thằng đàn em.
Kể từ khi Sparta tuyên chiến với Athens, suốt 7 tháng ròng, hai bên chỉ đứng gầm gừ võ mồm, chẳng ai chịu động thủ. Một mặt là đang đấu tâm lý, mặt khác, hai đại ca lưu manh này đều đang cẩn trọng thăm dò đối thủ, nhìn chung vẫn giữ được cái đầu lạnh.
Kẻ đầu tiên mất kiên nhẫn lại là Thebes, đàn em của Sparta.
Chúng ta cần ôn lại lịch sử một chút.
Mọi người nhìn bản đồ sẽ thấy, Thebes và Plataea nằm sát sạt nhau. Cái vị trí địa lý này khiến Thebes cực kỳ ức chế: Thebes là đàn em của Sparta, nhưng lại nằm ngay trên địa bàn của Athens. Vị trí này vốn đã khó xử, lại vớ ngay phải thằng hàng xóm Plataea mặt đối mặt, mà cả cái xứ Hy Lạp ai cũng biết Plataea là đàn em trung thành nhất của Athens. Từ thời Peisistratus, trải qua hai cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư cho đến khi Đế chế Athens trỗi dậy, Plataea trước sau như một, một lòng một dạ với Athens. Bạn hẳn còn nhớ trận đồng bằng Plataea chứ? Trận ôm giáo vác khiên giả thua rút lên núi ấy!
Nếu bạn là lãnh đạo Thebes, mỗi ngày mở mắt ra là thấy cái thế cục này, bạn có thấy buồn nôn không? Bên cạnh lúc nào cũng có con chó của Athens chằm chằm nhìn vào nhất cử nhất động của mình, hơi muốn làm gì đó to tát một tí là thằng Plataea lại nhảy ra cà khịa, mà bạn lại không được phát tác, nếu không thằng bảo kê Athens sau lưng nó sẽ đích thân đến dạy cho bạn một bài học.
Mà lịch sử đúng là đã từng có vụ Athens xuất binh chiếm đóng Thebes (xem lại phần Athens: Bố mày chấp tất), chiếm một phát gần mười năm trời. Nếu không nhờ Sparta sau đó can thiệp, Thebes chắc đã vong quốc luôn rồi. Dù sao thì người ta cũng mang danh là một trong "Ngũ đại bảo kê Hy Lạp", đoạn quá khứ tủi nhục ấy khiến Thebes mất hết mặt mũi. Cũng chính vì lý do này, Thebes vốn đã đầy một bụng lửa với Athens, nay càng kiên định đứng về phe Sparta.
Cho nên, vì ân oán lịch sử cộng thêm điều kiện địa lý thực tế, Thebes nằm mơ cũng muốn tìm cơ hội thịt thằng Plataea. Khổ nỗi sau Hiệp ước Ba mươi năm, hai đại ca Athens và Sparta đã phân chia địa bàn, muốn kiếm cớ gây sự cũng không có cửa.
Nhưng bây giờ thì khác rồi, Sparta đã tuyên chiến với Athens. Là thành viên liên minh, Thebes tự động tuyên chiến với Athens, đồng nghĩa với việc tuyên chiến với các đàn em của Athens. Điều này mang đến cho Thebes cơ hội ngàn năm có một để xử lý Plataea. Đó chính là trận đầu tiên của Chiến tranh Peloponnesus: Trận tập kích Plataea.
Diễn biến trận này cũng đầy kịch tính: Kẻ đi giết người lại bị người giết ngược.
Nếu ai từng đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, chắc nhớ trận Thượng Phương Cốc kinh điển giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý. Đại quân Tư Mã Ý bị dụ vào hẻm núi, bị quân Thục vây chặt, gỗ đá lăn xuống cộng thêm hỏa công. Ngay lúc ngọn lửa sắp tiễn cha con Tư Mã về chầu Tào Tháo thì ông trời đổ một trận mưa rào dập tắt lửa, dập tắt luôn hy vọng cuối cùng của Gia Cát Lượng, giúp cha con Tư Mã Ý thoát chết.
Câu chuyện này trong lịch sử không có thật, ngọn lửa đó là do La Quán Trung đốt hộ Gia Cát Lượng thôi, nhưng từ tình tiết này, chúng ta rút ra một kinh nghiệm cực kỳ thực tế:
Ra đường nhớ xem dự báo thời tiết.
Thebes chính là kẻ đen đủi mải ra đường mà quên xem thời tiết.
Để tiêu diệt Plataea, Thebes đã lên một kế hoạch chi tiết. Cụ thể là chọn một đêm trăng thanh gió mát, hoặc tối trời càng tốt, chia quân làm hai đường gồm quân tiên phong và quân chủ lực. Quân tiên phong gồm 300 người, trang bị gọn nhẹ, lợi dụng đêm tối bí mật lẻn vào thành Plataea, với tốc độ nhanh nhất chiếm lĩnh các cứ điểm quân sự và cơ quan hành chính, xử đám quan chức quân sự và hành chính trong thành, sau đó mở cổng thành. Tiếp theo, quân chủ lực phía sau sẽ kịp thời áp sát bên ngoài, chỉ chờ cửa mở là tràn vào.
Kế hoạch này phải nói là rất chu đáo. Quân tiên phong cũng xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ, họ mò vào được thành Plataea, chỗ cần chiếm đã chiếm, người cần xử cũng xử lý gọn gàng, sau đó theo đúng kế hoạch mở cổng chờ đồng đội.
Gần như là thành công rồi.
Nhưng rất tiếc, chỉ là gần như.
Đám quân tiên phong mở cổng thành, vươn cổ dài như ngỗng chờ mở tiệc ăn mừng, kết quả đợi đến tận sáng bảnh mắt ra cũng chẳng thấy ma nào.
Người đâu?
Chuyện là trong lúc quân tiên phong đang đánh úp trong thành, thì quân chủ lực Thebes cũng thục mạng chạy tới Plataea, mọi việc vốn thuận lợi. Lúc đó biên giới giữa Thebes và Plataea là một con sông. Con sông này bình thường nước rất nông, ai cũng lội qua được, nên khi lập kế hoạch người Thebes chẳng thèm để ý đến nó.
Nhưng đúng vào ngày tác chiến, ông trời đã đùa dai với người Thebes một vố:
Đêm đó mưa như trút nước!
Mưa lớn khiến mực nước và dòng chảy con sông tăng vọt gấp mười mấy lần bình thường. Khi quân Thebes đến bờ sông thì nghệt mặt ra: Không lội qua nổi. Do không có phương án dự phòng, đám lính tráng Thebes chỉ biết đứng bờ bên này trừng mắt nhìn. Kết quả là kế hoạch tập kích đêm bị một con sông dâng nước phá hỏng hoàn toàn.
Đại quân không qua được dẫn đến phản ứng dây chuyền: 300 anh em quân tiên phong coi như xong đời.
Cư dân trong thành Plataea lúc đầu nghe tin có người tập kích thì sợ thật, nhất là khi nghe tin quan chức tướng tá bị giết sạch, cả thành phố hoảng loạn. Nhưng do quân tiếp viện Thebes mãi không thấy đâu, dân Plataea sau cơn hoảng loạn phát hiện ra: Hình như quân địch không đông lắm. Người Plataea hoàn hồn và bắt đầu tổ chức phản kháng thăm dò. Quân tiên phong Thebes vỏn vẹn 300 mống, làm sao gây được sóng gió lớn? Rất nhanh người Plataea nắm được tình hình:
Hóa ra là bọn trộm chó ấy mà!
Hiểu rõ tình thế, người Plataea lập tức phản công, và đó là một cuộc chiến tranh nhân dân biển người đúng nghĩa.
Đàn ông Plataea vác vũ khí, đốt đuốc lùng sục quân Thebes khắp thành. Phụ nữ cũng không rảnh rỗi, họ đưa người già trẻ em lên mái nhà, vừa đảm bảo an toàn, vừa khuân đá tảng lên đó, từ trên cao quan sát địch, thấy kẻ nào khả nghi là ném đá xuống. Đây là ví dụ cổ xưa nhất về phối hợp hỏa lực tác chiến không gian ba chiều mà tôi từng thấy.
Cuộc phản công kéo dài đến khi phương Đông hửng sáng.
Vốn dĩ nhờ bóng đêm mà 300 quân Thebes còn có chỗ nấp, nhưng khi mặt trời lên, các anh giai này phơi mình giữa thanh thiên bạch nhật, chạy đằng trời. Sau một đêm, một nửa số này đăng xuất, một nửa còn lại bị bắt sống.
Thế là trận chiến gươm thật giáo thật đầu tiên của cuộc chiến tranh Peloponnesus lừng danh lịch sử đã kết thúc một cách đầy kịch tính như vậy.
Phía Athens rất nhanh nhận được tin. Pericles nhạy bén cảm thấy hơn một trăm tù binh kia có giá trị cực lớn, bèn lập tức phái quan chức Athens đến Plataea, định bụng tiếp quản đám tù binh này ngay lập tức.
Nhưng chậm một bước.
Khi người Athens đến nơi, đám tù binh này đã bị người Plataea đang cơn thịnh nộ đem ra xử tử sạch sẽ.
Pericles cực kỳ bực mình. Bởi vì đám tù binh Thebes này đều là chiến binh tinh nhuệ, có giá trị chiến lược quan trọng với Thebes. Pericles mà nắm đám người này trong tay thì sẽ có con bài để đàm phán, giành thế chủ động trong các ván cờ sau này. Quan trọng hơn, Pericles không muốn làm căng quan hệ với Thebes quá mức. Nếu trao trả tù binh để đổi lấy sự hòa hoãn thì áp lực bên ngoài của Athens sẽ giảm đi, Pericles có thể tập trung đối phó Sparta. Giờ thì hay rồi, Plataea giết sạch đám này, khiến mối quan hệ vốn đã căng thẳng nay càng nát bét, khả năng cải thiện quan hệ coi như tắt ngấm. Tiếp theo, Thebes chắc chắn sẽ khô máu với Athens đến cùng.
Bực thì bực, nhưng Pericles nhận ra ông phải chuẩn bị đối phó với những gì sắp xảy ra.
Thứ nhất là phải phòng thủ cho Plataea. Vì Thebes kiểu gì cũng chạy đến mách Sparta, lúc đó Sparta dù cẩn thận đến mấy cũng phải ra mặt cho đàn em. Lục quân Sparta chắc chắn sẽ xuất động, Plataea sẽ hứng chịu cơn thịnh nộ báo thù của đại quân Sparta.
Thứ hai, bản thân Athens cũng phải chuẩn bị. Vì một khi đánh thật, đừng nói Plataea không chịu nổi nhiệt, mà ngay cả trình độ lục quân của Athens cũng chưa chắc đỡ nổi đám Sparta trâu bò. Do đó Pericles phải nghĩ ra cách lấy sở trường bù sở đoản, vừa đỡ được đòn sấm sét của Sparta, vừa có thể phản kích và kiềm chế đối thủ.
Giờ chúng ta hãy xem động thái bên phía Sparta.
Quả nhiên, đám Thebes thua trận chạy ngay đến trước mặt Sparta khóc lóc om sòm. Năm vị Giám sát quan nổi cơn tam bành, kiên quyết yêu cầu Vua xuất binh diệt đám khốn kiếp kia. Vua Sparta lúc bấy giờ là Archidamus II. Đây là một người chín chắn, điềm đạm. Dù ông cũng thấy sự việc nghiêm trọng, nhưng ông không tán thành việc khai chiến toàn diện với Athens. Lý do của Archidamus rất xác đáng: Vụ ẩu đả này nói cho cùng là do Thebes ra tay trước, phía Athens cùng lắm chỉ là tự vệ thôi. Thebes các chú giờ bày đặt đóng vai nạn nhân, có biết liêm sỉ là gì không?
Đồng thời, điểm khác biệt giữa Archidamus và đám đàn ông cục súc Sparta là ông có cái đầu cực kỳ tỉnh táo. Ông biết thực lực Athens quá mạnh, không thể dùng logic đối phó đối thủ thông thường để áp dụng với Athens. Chưa nói cái khác, tường thành Athens kiên cố, cảng biển và thành phố vững như bàn thạch, chỉ riêng điều này đã quyết định việc Sparta khó mà san phẳng đối thủ trong thời gian ngắn. Cộng thêm việc Archidamus rất hiểu Pericles, ông biết Pericles chắc chắn đã chuẩn bị kỹ. Nếu nghe theo lời mấy ông Giám sát quan mà khô máu với Athens, chắc chắn sẽ biến thành cuộc chiến giằng co dai dẳng, cuối cùng cả hai cùng nát.
Vì lý do đó, trong phòng họp cấp cao Sparta, Archidamus kiên quyết không đồng ý khai chiến toàn diện. Do đó, dù hội nghị cao cấp Sparta vẫn quyết định xuất binh, nhưng trong giai đoạn thực thi, Archidamus tỏ ra vô cùng thận trọng. Ông không đánh nhanh thắng nhanh, mà vừa đi vừa nghỉ, dọc đường chỉ đánh đấm lặt vặt, chậm chạp lết về hướng Athens. Ông muốn xem phản ứng của Athens, xem Athens quyết tâm sống chết với Sparta hay vẫn còn giữ kẽ.
Khi Archidamus dẫn quân bước vào vùng Attica (khu vực Athens tọa lạc), vừa liếc mắt nhìn cảnh tượng ngoại ô Athens, ông hiểu ngay tâm tư của Pericles.
Ngoại ô Athens không một bóng người.
Ngoại ô Athens vốn tập trung rất nhiều nông trại và điền trang, là nơi trồng lúa mì, nho và ô liu chủ yếu, lẽ ra phải đông đúc nhộn nhịp. Nhưng nơi quân Archidamus đi qua chỉ thấy một sự tĩnh lặng. Cư dân rõ ràng đã được sơ tán khẩn cấp, đồ tế nhuyễn của riêng tây trong nhà mang đi được là mang hết. Hoa màu ngoài ruộng cũng bị gặt sạch, để lại cho Archidamus chỉ là những ngôi nhà rỗng tuếch, những ngôi làng và cánh đồng trơ trọi.
Đồng thời thám tử báo về, không chỉ vùng quanh Attica, mà ngay cả phụ nữ trẻ em ở thành Plataea cũng đã được đưa vào nội thành Athens bảo vệ từ sớm. Plataea hiện giờ cũng thực hiện vườn không nhà trống, trong thành chỉ còn quân đội và lương thảo đầy ắp, sẵn sàng tử thủ.
Archidamus dù sao cũng là bạn cũ của Pericles, dựa vào sự hiểu biết về bạn mình, ông lập tức đọc vị được chiến thuật của Pericles.
Ưu thế của Athens là hải quân, lục quân không lại Sparta. Với Pericles, chẳng có lý do gì dùng lục quân yếu thế của mình để đập nhau với Sparta, mà phải phát huy sở trường né sở đoản. Sparta các ông xâm lược vùng Attica trên đất liền à? Thế thì tôi dùng hải quân quấy rối bán đảo Peloponnesus nhà ông. Ông đốt phá quanh Athens, tôi sẽ đến các thành bang và làng mạc ven biển của Sparta để gỡ gạc lại thiệt hại. Nói cách khác, Pericles đang chơi trò tiêu hao với Sparta.
Mà Athens thì sợ gì tiêu hao.
Chúng ta đã nói ở trước, cột trụ sinh tồn của Athens là thủ công nghiệp và vận tải biển. Cho dù nông trại, làng mạc trên đất liền bị phá hủy, chỉ cần cảng biển và đường biển thông suốt, Athens sẽ có nguồn thu và vật tư tiếp tế không ngừng. Athens lại có tường thành kiên cố nối liền thành phố với cảng biển (các bạn nhớ vụ xây tường chứ?), Sparta không thể chạm vào tuyến sinh mệnh của Athens, vậy thì Athens đủ sức chơi lầy với Sparta. Còn Sparta kinh tế yếu kém, không nuôi nổi cuộc chiến tiêu hao quy mô lớn dài ngày. Dựa vào chiến thuật này, Pericles có thể từ từ cù cưa, đến khi kinh tế Sparta chịu không nổi, ý chí chiến đấu của người dân giảm sút, lúc đó Athens có thể bình tĩnh ngồi xuống đàm phán, chiến tranh kết thúc.
Chiến thuật tiêu hao tốn kém rất lớn, nhưng là một lựa chọn khá kiềm chế. Vì nói cho cùng, đây là chiến lược phòng thủ chứ không phải tấn công. Điều này cho thấy trong thâm tâm Pericles cũng hiểu việc khô máu toàn diện với Sparta rủi ro quá cao, cái giá quá đắt. Chiến thuật tiêu hao giúp kiểm soát thiệt hại và quy mô cuộc chiến trong phạm vi hai bên chấp nhận được, nhìn xa thì đây là lựa chọn lý trí.
Tóm lại, Pericles không muốn đánh to với Sparta.
Hiểu rõ tình hình, Archidamus bèn ra lệnh cho bộ binh Sparta giày xéo mấy khu vực không người này một trận. Đồ đạc trong nhà cái gì quý thì lấy, không lấy được thì đập; cây nho, cây ô liu ngoài vườn thì chặt, ruộng đồng thì dẫm nát, vài chỗ còn phóng hỏa. Tiếng đập phá loảng xoảng nghe rất vui tai, người không biết chuyện nhìn vào tưởng Sparta hung hãn lắm, cứ như thần chết Hades giáng lâm. Thực ra chút thiệt hại này với Athens chưa đến mức gãy xương đứt gân, nhìn cho vui mắt thôi.
Nhưng thứ Archidamus cần chính là cái sự vui mắt đó.
Bởi vì màn quậy phá này của Archidamus vừa là diễn cho người trong thành Athens xem, vừa là diễn cho mấy ông Giám sát quan đi theo quân đội xem.
Trong thành, Pericles thấy lục quân Sparta của Archidamus đến rồi, lại còn phá hoại tưng bừng thế kia, bèn lập tức phái hải quân Athens chia làm nhiều đường, lao về phía bán đảo Peloponnesus, nói cho dễ nghe gọi là trả đũa. Nhưng chỉ thị của Pericles rất đáng suy ngẫm: Chỉ quấy rối làng mạc ven biển, không được tiến sâu vào nội địa.
Mệnh lệnh này dịch ra tiếng Hà Nội là: Diễn thì được, làm thật thì đừng.
Thế là hải quân Athens gần như dốc toàn lực, chia nhiều đường tập kích bán đảo Peloponnesus, cũng hò reo vang trời, thanh thế to lớn, trông cũng có vẻ liều mạng lắm.
Archidamus thấy thế, biết lửa đã đủ độ, lập tức tuyên bố: Rút quân, không đánh nữa.
Sparta có chế độ Giám sát quan đi theo quân đội, thực chất là giám quân, chịu trách nhiệm theo dõi nhất cử nhất động của tướng lĩnh ngoài mặt trận để báo cáo về cho tầng lớp cai trị ở Sparta. Cái này giống hệt thái giám đi theo làm tai mắt cho Hoàng đế thời nhà Minh ở Trung Quốc.
Quả nhiên, Giám sát quan nghe tin Archidamus định rút quân liền nhảy dựng lên chất vấn: Ông chưa giết được mống Athens nào mà đã rút? Hơn nữa tình hình đang tốt, dân Athens rúm ró trong thành không dám ra, thế chẳng phải lúc để mở rộng chiến quả sao? Phá thêm tí nữa, cướp thêm tí nữa cũng tốt chứ, sao lại rút? Ông có ý gì?
Archidamus trả lời hùng hồn:
Đương nhiên phải rút. Thứ nhất, Athens tường cao hào sâu, đánh cứng thì chắc chắn dây dưa, chúng ta mang theo có bao nhiêu lương thảo đâu, không trụ được lâu; Thứ hai, cái gì cần đốt đã đốt, cần cướp đã cướp, gây thiệt hại nặng cho Athens rồi, chiến lợi phẩm cũng không ít, thế này không phải là thành tích à? Cuối cùng, hải quân Athens đã đánh đến cửa nhà mình rồi, nếu chúng ta không về cứu kịp thời, lỡ xảy ra hậu quả nghiêm trọng gì, trách nhiệm tính cho ông hay tính cho tôi?
Lý lẽ kín kẽ, không lọt dù chỉ một giọt nước.
Giám sát quan bị chặn họng cứng ngắc.
Giờ mọi người hiểu tại sao Archidamus phải làm trò trống giong cờ mở thế rồi chứ: Ông ta vốn chẳng định liều mạng với Athens, chỉ là làm màu thôi. Ngay từ đầu ông đã định rút, nhưng rút phải có lý do. Bên cạnh có Giám sát quan soi, rút bừa bãi về Sparta sẽ bị vạch tội, không khéo mất ngôi vua, nặng thì bị xử tử. Ông và Pericles là bạn vong niên hơn 30 năm, đi guốc trong bụng nhau, nên hai người lợi dụng sự ăn ý này để cùng diễn một vở hát đối.
Quả nhiên, khi Archidamus dẫn chủ lực Sparta rút về phía Tây eo biển Corinth, hải quân Athens như đã hẹn trước, lập tức thu quân, về nhà ăn cơm.
Đây là đánh trận à? Sang chơi nhà hàng xóm thì có!
Độ ăn ý này, e rằng chỉ có hai đội bóng đang dàn xếp tỷ số mới sánh kịp.
Hơn nữa không chỉ bây giờ, mà trong rất nhiều năm sau đó, Athens và Sparta vẫn giữ sự ngầm hiểu này. Một bên đi đường bộ, một bên đi đường biển, cứ đến mùa xuân là kéo quân sang đất đối phương phá phách một tí, rồi đến mùa hè thì ai về nhà nấy. Hai bên duy trì việc tương tác gây thương nhớ, nhưng tuyệt nhiên không vả nhau trực diện. Khung cảnh ầm ĩ chấn động, nhưng xét kỹ thì kiểu đối đầu quấy rối này chẳng có tác dụng quái gì với cục diện chiến tranh. Nhìn cảnh đó, bạn sẽ thấy đây đâu phải chiến tranh, rõ ràng là tổ chức đi du xuân hàng năm!
Nói cho cùng vẫn là do Pericles và Archidamus đều không muốn khai chiến trực diện. Dù chiến tranh là so kè sức mạnh tổng hợp quốc gia, nhưng giữa họ lại là cuộc đấu trí và tâm lý nhiều hơn, nên trên chiến trường chính, cả hai đều khá kiềm chế.
Khi Athens và Sparta cùng lui binh, thời gian cũng trôi đến mùa đông năm 431 TCN, năm đầu tiên của cuộc chiến Peloponnesus sắp kết thúc. Theo thông lệ thời đó, sau khi vào thu hai bên sẽ ngừng đánh, thay vào đó là thu nhặt thi thể những người hy sinh trên chiến trường, mang về nước chôn cất.
Athens chôn cất tử sĩ tại một khu nghĩa trang trống trải ở ngoại ô. Vì đây là những liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc, Pericles đích thân tham dự tang lễ và thực hiện một bài diễn thuyết dài hùng hồn.
Đó chính là bài "Diễn văn đám tang của Pericles" (Pericles' Funeral Oration) chấn động cổ kim.
Ngày nay, bất kỳ học sinh phương Tây nào cũng biết đến bài diễn văn nổi tiếng này, sách giáo khoa trung học của họ đều in toàn văn. Trong bài diễn văn, Pericles ca ngợi tính ưu việt của thể chế Athens, ông tuyên bố Athens là "ngôi trường" của toàn Hy Lạp, cả Hy Lạp đều hướng về và học tập nền dân chủ cũng như luật pháp của Athens. Do đó, cuộc chiến hiện tại, dù xét về tính cần thiết hay cấp bách, đều là người Athens lựa chọn dùng máu và sinh mạng để bảo vệ sự an toàn xã hội và lối sống của họ. Đọc cả bài mới thấy tài ăn nói của Pericles đúng là đỉnh cao. Bố cục chặt chẽ logic, lập luận sắc sảo, ngôn từ hoa mỹ. Tôi tin rằng khi Pericles phát biểu, Thucydides đang đứng ngay dưới lắng nghe. Tôi có thể cảm nhận được sự chấn động và lòng yêu nước dâng trào của Thucydides, nên ông rất coi trọng bài diễn văn này và chép lại toàn văn trong cuốn Lịch sử chiến tranh Peloponnesus.
Bài diễn văn này không chỉ gây chấn động thời đó mà còn ảnh hưởng đến hậu thế. Khoảng 2.500 năm sau tại Mỹ, có một người, cũng trong một lễ tang tập thể của quân nhân, đã phát biểu một bài diễn văn có phong cách và nội dung tương tự. Bài diễn văn đó tên là "Diễn văn Gettysburg", và người phát biểu là Abraham Lincoln.
Nếu mọi người mang hai bài diễn văn này ra so sánh kỹ, sẽ thấy chúng như được đúc ra từ một khuôn. Điểm khác biệt duy nhất là bài của Pericles rất dài, còn của Lincoln chỉ vỏn vẹn khoảng 300 từ. Cả hai bài đều xuất sắc, đều lưu danh sử sách. Dù không có bằng chứng rõ ràng Lincoln cố tình bắt chước Pericles, nhưng ảnh hưởng tiềm tàng của Pericles đối với Lincoln là khá rõ ràng.
Đó vừa là sức hút của những nhà hùng biện đại tài, vừa là ma lực của những bài diễn văn xuất sắc, và cũng là uy lực của ngôn từ.
Năm đầu tiên của cuộc chiến Peloponnesus đã khép lại trong dư âm hào hùng từ bài diễn thuyết của Pericles.
#
Dưới đây là bản dịch Điếu văn do Pericles trình bày tại lễ tang các liệt sĩ Athens sau trận đánh, được ghi lại trong cuốn “Lịch sử chiến tranh Peloponnesus” của Thucydides:
ĐIẾU VĂN CỦA PERICLES
Phần lớn những người từng phát biểu tại đây đều ca ngợi vị tiền nhân đã bổ sung phần đọc điếu văn vào phong tục tang lễ của chúng ta. Đối với họ, việc dành vinh dự này cho những người đã ngã xuống trên chiến trường trong lễ an táng là điều xứng đáng. Nhưng riêng tôi, tôi mong rằng khi những hành động dũng cảm của các chiến sĩ đã được thể hiện, thì họ cũng chỉ nên được tôn vinh bằng hành động thực tế như tang lễ công cộng mà quý vị đang chứng kiến đây, hơn là để danh tiếng của bao người bị đặt vào rủi ro, phụ thuộc vào tài hùng biện của một cá nhân, khiến cho phẩm hạnh của họ bị tin tưởng hay ngờ vực tùy theo việc người đó nói hay hay dở.
Bởi lẽ, thật khó để nói sao cho không quá ít mà cũng không quá nhiều; và ngay cả sự chừng mực cũng khó tạo được ấn tượng về sự chân thực. Người thân của người đã khuất, vốn biết rõ sự tình, thường nghĩ rằng lời lẽ của diễn giả chưa lột tả hết sự hiểu biết và mong muốn của họ; trong khi người khác, kẻ không tường tận sự việc, khi nghe về những điều vượt quá khả năng của chính mình, sẽ sinh lòng đố kỵ và nghi ngờ là phóng đại. Con người ta chỉ bao dung với lời ca ngợi kẻ khác chừng nào họ còn nghĩ rằng bản thân mình cũng có thể làm được điều tương tự hoặc gần như vậy; nhưng một khi người nói vượt lên trên tầm của họ, lòng ghen ghét trỗi dậy và họ bắt đầu hoài nghi. Tuy nhiên, vì tổ tiên đã chuẩn y phong tục này, tôi xin tuân theo luật lệ và sẽ cố gắng hết sức để đáp ứng mong mỏi và niềm tin của tất cả quý vị.
Trước tiên, tôi xin nói về tổ tiên của chúng ta, bởi thật phải đạo và xứng hợp trong lúc chúng ta than khóc người đã khuất, một sự tri ân cần được dành cho ký ức về các ngài. Chưa bao giờ có thời khắc nào mà các ngài không cư ngụ trên mảnh đất này, và bằng lòng dũng cảm, các ngài đã trao truyền nó từ thế hệ này sang thế hệ khác, để lại cho chúng ta một quốc gia tự do. Nếu các ngài xứng đáng được ca ngợi, thì cha ông chúng ta còn xứng đáng hơn nữa, bởi họ đã bồi đắp thêm vào những gì được thừa hưởng, và sau bao gian lao, đã để lại cho chúng ta, thế hệ cháu con của họ, cả một đế chế hùng mạnh này. Và chính chúng ta, những người đang tề tựu nơi đây, phần lớn vẫn đang ở độ tuổi sung sức nhất của cuộc đời, đã tiếp tục sự nghiệp ấy, trang bị cho thành bang này đầy đủ mọi thứ để nàng có thể tự chủ hoàn toàn cả trong thời bình lẫn thời chiến.
Tôi sẽ không nói về những chiến công quân sự đã giúp chúng ta có được các thuộc địa, hay sự quả cảm mà chúng ta hoặc cha ông ta đã dùng để đẩy lùi làn sóng chiến tranh, dù là từ người Hy Lạp hay man tộc; bởi câu chuyện đó đã quá dài và quen thuộc với quý vị. Nhưng trước khi ca ngợi những người đã khuất, tôi muốn chỉ ra rằng nhờ những nguyên tắc hành động nào chúng ta đã vươn tới quyền lực, và nhờ thể chế nào, lối sống nào mà đế chế của chúng ta trở nên vĩ đại. Bởi tôi tin rằng những tư tưởng ấy không hề lạc lõng trong dịp này, và đông đảo công dân cũng như khách lạ nơi đây sẽ thấy hữu ích khi lắng nghe chúng.
Thể chế của chúng ta không ganh đua với luật lệ của lân bang. Chúng ta không bắt chước hàng xóm, mà là tấm gương cho họ noi theo. Đúng là chúng ta được gọi là một nền dân chủ, vì việc cai trị nằm trong tay số đông chứ không phải thiểu số. Nhưng trong khi pháp luật mang lại sự công bằng cho tất cả mọi người trong các tranh chấp tư nhân, thì sự ưu tú cũng được công nhận; một công dân được ưu ái trong các trọng trách công vụ không phải bởi đặc quyền, mà là sự tưởng thưởng cho tài năng. Sự nghèo khó cũng không phải là rào cản; một người có thể phụng sự đất nước bất kể xuất thân thấp kém thế nào. Đời sống công cộng của chúng ta tự do phóng khoáng, và trong đời sống riêng tư, chúng ta không nghi kỵ lẫn nhau, không giận dữ với láng giềng nếu họ làm điều họ thích; chúng ta không trao cho họ những cái nhìn cau có, thứ tuy không gây hại nhưng lại chẳng dễ chịu chút nào. Tuy thoải mái trong đời sống tư, nhưng tinh thần kính trọng bao trùm các hành động công cộng; chúng ta tránh làm điều sai trái vì tôn trọng các nhà chức trách và pháp luật, đặc biệt là những luật lệ bảo vệ kẻ bị tổn thương cũng như những luật bất thành văn mang lại sự hổ thẹn chung cho kẻ vi phạm.
Và chúng ta cũng không quên mang lại cho tâm hồn mệt mỏi những phút giây thư giãn sau lao động; chúng ta có những lễ hội và tế lễ quanh năm; nhà cửa của chúng ta đẹp đẽ và tao nhã; niềm vui hằng ngày từ những điều ấy giúp xua tan nỗi buồn lo. Nhờ sự vĩ đại của thành bang, hoa trái của toàn thế giới đổ về đây; khiến chúng ta tận hưởng sản vật của các xứ sở khác một cách tự nhiên như tận hưởng sản vật của chính mình.
Hơn nữa, về phương diện quân sự, chúng ta vượt trội đối thủ ở nhiều điểm. Thành bang của chúng ta mở cửa đón chào thế giới, chúng ta không bao giờ trục xuất người nước ngoài hay ngăn cản họ nhìn thấy hoặc học hỏi bất cứ điều gì, dù việc tiết lộ bí mật đó có thể mang lại lợi thế cho kẻ thù. Chúng ta không dựa vào sự sắp đặt hay mưu mô, mà dựa vào chính trái tim và đôi tay của mình. Và trong vấn đề giáo dục, trong khi đối thủ từ thuở thiếu thời đã phải chịu đựng những bài tập khổ sai để trở nên dũng cảm, thì chúng ta sống thoải mái nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy không kém gì họ. Bằng chứng là người Lacedaemon (Sparta) không bao giờ dám đơn thương độc mã xâm phạm lãnh thổ của chúng ta, mà phải kéo theo toàn bộ đồng minh; trong khi chúng ta đơn độc tiến vào đất láng giềng; và dù đối thủ chiến đấu vì nhà cửa của họ còn chúng ta chiến đấu trên đất khách, chúng ta hiếm khi gặp khó khăn để đánh bại họ. Kẻ thù chưa bao giờ cảm nhận được sức mạnh tổng hợp của chúng ta, vì chúng ta vừa phải lo cho hải quân, vừa phải cử công dân đi khắp nơi trên bộ. Nhưng nếu họ gặp và đánh bại một bộ phận quân đội của ta, họ tự đắc như thể đã đánh bại tất cả chúng ta, còn khi thua trận, họ lại giả vờ như đã bị tất cả chúng ta hợp lực đánh bại.
Nếu chúng ta chọn đối mặt với hiểm nguy bằng một tâm hồn nhẹ nhàng thay vì sự khổ luyện nhọc nhằn, và bằng lòng can đảm có được từ thói quen hơn là do luật pháp cưỡng ép, chẳng phải chúng ta tốt hơn sao? Bởi chúng ta không phải lo âu trước về nỗi đau, nhưng khi giờ khắc đến, chúng ta cũng dũng cảm chẳng kém những kẻ không bao giờ cho phép mình nghỉ ngơi; như vậy thành bang của chúng ta đáng ngưỡng mộ cả trong hòa bình lẫn chiến tranh. Bởi chúng ta yêu cái đẹp nhưng giản dị, và chúng ta trau dồi tri thức mà không trở nên yếu mềm. Sự giàu có, theo quan điểm của chúng ta, là phương tiện để hành động chứ không phải để khoe khoang; và thú nhận sự nghèo khó không phải là điều đáng xấu hổ, mà đáng xấu hổ là không nỗ lực để thoát khỏi nó.
Tóm lại, tôi khẳng định rằng Athens là trường học của cả Hy Lạp, và mỗi cá nhân người Athens, bằng chính con người mình, dường như có khả năng thích ứng với những hình thức hành động đa dạng nhất bằng sự linh hoạt và duyên dáng tuyệt vời. Đây không phải là lời nói suông thoáng qua, mà là sự thật và thực tế; lời khẳng định này được kiểm chứng bởi vị thế mà những phẩm chất ấy đã mang lại cho đất nước. Bởi trong giờ phút thử thách, chỉ duy nhất Athens trong số các cường quốc đương thời tỏ ra vượt trội hơn cả danh tiếng của mình. Không kẻ thù nào tấn công nàng mà lại phẫn nộ trước thất bại dưới tay một thành bang như thế; không một thần dân nào than phiền rằng những người cai trị họ là không xứng đáng.
Chúng ta sẽ không thiếu những nhân chứng; có những tượng đài hùng vĩ về sức mạnh của chúng ta sẽ khiến chúng ta trở thành kỳ quan của thời đại này và cả mai sau; chúng ta sẽ không cần đến lời ca ngợi của Homer hay bất kỳ nhà thơ tụng ca nào, những người có thể làm vui tai trong chốc lát nhưng sự mô tả của họ không chịu nổi ánh sáng của sự thật. Bởi chúng ta đã buộc mọi vùng đất và mọi vùng biển phải mở lối cho lòng dũng cảm của mình, và đã dựng nên những đài tưởng niệm vĩnh cửu về tình bạn và sự thù địch của chúng ta ở khắp mọi nơi. Đó chính là thành bang mà những người đàn ông này đã chiến đấu và hy sinh một cách cao cả; họ không thể chịu đựng ý nghĩ rằng nàng có thể bị tước đoạt khỏi họ; và mỗi người trong chúng ta, những người còn sống, hãy vui lòng lao động vì nàng.
Tôi đã nói nhiều về sự vĩ đại của Athens bởi tôi muốn cho quý vị thấy rằng chúng ta đang chiến đấu vì một phần thưởng cao quý hơn những kẻ không được hưởng những đặc quyền này, và để chứng minh bằng bằng chứng rõ ràng về công trạng của những người mà tôi đang tưởng niệm. Lời ca ngợi cao quý nhất dành cho họ đã được nói ra. Bởi khi tôn vinh thành bang, tôi đã tôn vinh họ, và những người như họ, những người mà phẩm hạnh đã làm rạng danh thành phố. Và có mấy người Hy Lạp mà ta có thể nói rằng hành động của họ khi đặt lên bàn cân lại xứng với danh tiếng của họ như những người này! Tôi tin rằng cái chết như của họ là thước đo chân thực cho giá trị của một con người; nó có thể là sự hé lộ đầu tiên về phẩm hạnh của họ, nhưng dù thế nào cũng là dấu ấn cuối cùng khẳng định điều đó. Bởi ngay cả những người còn khiếm khuyết ở các mặt khác cũng có thể biện minh một cách công bằng bằng lòng dũng cảm khi chiến đấu cho tổ quốc; họ đã xóa bỏ cái xấu bằng cái tốt, và đã phụng sự đất nước bằng hành động công cộng nhiều hơn là làm hại đất nước bằng hành động riêng tư. Không ai trong số họ bị sự giàu sang làm cho ủy mị hay ngần ngại từ bỏ những lạc thú của cuộc đời; không ai trong số họ trì hoãn ngày định mệnh với hy vọng, vốn thường thấy ở kẻ nghèo, rằng một ngày nào đó mình sẽ trở nên giàu có. Nhưng, cho rằng việc trừng phạt kẻ thù còn ngọt ngào hơn tất thảy, và rằng họ không thể ngã xuống vì một mục đích nào cao cả hơn, họ quyết định đánh cược mạng sống để rửa hận trong danh dự, và phó mặc những điều còn lại. Họ giao phó cho hy vọng những cơ may hạnh phúc chưa biết tới; nhưng khi đối mặt với cái chết, họ quyết tâm chỉ dựa vào chính mình. Và khi khoảnh khắc đến, họ chọn kháng cự và chịu khổ đau hơn là bỏ chạy để bảo toàn mạng sống; họ chạy trốn khỏi lời chê bai nhục nhã, nhưng trên chiến trường, đôi chân họ đứng vững, và trong một khoảnh khắc, tại đỉnh cao của vận mệnh, họ đã rời khỏi thế gian này, không phải trong nỗi sợ hãi, mà trong vinh quang.
Đó là cái kết của những con người này; họ xứng đáng với Athens, và những người còn sống không cần ước ao một tinh thần anh hùng hơn thế, dù có thể cầu mong một kết cục ít bi thương hơn. Giá trị của một tinh thần như vậy không thể diễn tả bằng lời. Bất cứ ai cũng có thể thuyết giảng cho quý vị mãi về lợi ích của sự phòng vệ dũng cảm, điều mà quý vị đã biết rõ. Nhưng thay vì lắng nghe kẻ đó, tôi muốn quý vị ngày qua ngày hãy ngắm nhìn sự vĩ đại của Athens, cho đến khi con tim tràn ngập tình yêu dành cho nàng; và khi đã ấn tượng trước cảnh tượng vinh quang ấy, hãy suy ngẫm rằng đế chế này có được là nhờ những con người biết rõ bổn phận của mình và có đủ dũng khí để thực hiện nó, những người trong giờ phút giao tranh luôn sợ nỗi nhục nhã, và những người, nếu có thất bại trong một nỗ lực nào đó, cũng không để phẩm hạnh của mình mất đi đối với đất nước, mà đã tự nguyện dâng hiến mạng sống như lễ vật đẹp đẽ nhất cho nàng.
Sự hy sinh tập thể của họ đã được đền đáp cho từng cá nhân; bởi mỗi người đều nhận lại cho riêng mình lời ca ngợi không bao giờ già đi, và ngôi mộ cao quý nhất – tôi không nói đến nơi chôn cất thi hài họ, mà là nơi vinh quang của họ trường tồn, và được nhắc nhở mãi mãi vào mỗi dịp thích hợp, cả trong lời nói lẫn việc làm. Bởi lẽ, cả thế gian này là lăng mộ của những bậc vĩ nhân; họ không chỉ được tưởng niệm bằng những cột đá và dòng chữ trên quê hương, mà ở những vùng đất xa lạ cũng có những đài tưởng niệm không văn tự, khắc ghi không phải trên đá, mà trong trái tim con người. Hãy lấy họ làm tấm gương, và hãy coi lòng dũng cảm là tự do, coi tự do là hạnh phúc, đừng cân nhắc quá kỹ những hiểm nguy của chiến tranh. Kẻ bất hạnh không còn hy vọng đổi đời ít có lý do để vứt bỏ mạng sống hơn là kẻ thịnh vượng – người mà nếu còn sống vẫn luôn đối mặt với nguy cơ sa sút, và đối với họ, bất kỳ sự trượt ngã nào cũng tạo ra sự khác biệt nghiêm trọng. Đối với một người có chí khí, sự hèn nhát đi kèm thảm họa còn cay đắng hơn nhiều so với cái chết ập đến bất ngờ khi người đó đang tràn đầy lòng can đảm và hy vọng chung.
Vì lẽ đó, tôi không thương hại các bậc cha mẹ của những người đã khuất đang đứng đây; tôi muốn an ủi họ hơn. Quý vị biết rằng người thân của quý vị đã trải qua những thăng trầm muôn vẻ; và rằng những ai nhận được vinh dự tột cùng – dù là cái chết vinh quang như họ hay nỗi đau vinh quang như quý vị – đều có thể coi là may mắn, và cuộc đời họ hạnh phúc khi sự kết thúc hạnh phúc cũng là lúc kết thúc cuộc đời. Tôi biết thật khó để làm quý vị cảm thấy điều này, khi vận may của người khác sẽ quá thường xuyên nhắc quý vị nhớ đến niềm vui từng thắp sáng trái tim mình. Và nỗi đau buồn không đến từ việc thiếu vắng những phước lành mà người ta chưa từng biết, mà từ việc mất đi những gì đã từng là một phần cuộc sống. Một số quý vị đang ở độ tuổi có thể hy vọng có thêm con cái, và họ nên chịu đựng nỗi đau tốt hơn; những đứa trẻ sinh sau không chỉ giúp họ quên đi người đã mất, mà thành bang cũng sẽ được lợi gấp đôi. Thành bang sẽ không bị bỏ lại hoang vắng, và sẽ an toàn hơn. Bởi lời khuyên của một người không thể có trọng lượng hay giá trị ngang bằng, nếu người đó không có con cái để cùng chia sẻ rủi ro trong mối nguy chung.
Còn với những ai đã qua thời sung sức, tôi nói rằng: "Hãy tự chúc mừng mình vì đã được hạnh phúc trong phần lớn cuộc đời; hãy nhớ rằng quãng đời đau buồn còn lại sẽ không kéo dài, và hãy tìm sự an ủi trong vinh quang của những người đã khuất. Bởi chỉ có lòng yêu danh dự là mãi mãi thanh xuân, và niềm vui của tuổi già không phải là sự giàu sang như người ta vẫn nói, mà là danh dự."
Với quý vị là con trai và anh em của những người đã khuất, tôi thấy cuộc đấu tranh để noi gương họ sẽ vô cùng gian nan. Bởi ai cũng ca ngợi người chết, và dù phẩm hạnh của quý vị có xuất chúng đến đâu, tôi không nói là để sánh ngang họ, mà để tránh sống như những kẻ ganh đua và gièm pha, nhưng khi một người đã khuất bóng, sự tôn trọng và thiện chí dành cho người đó là thuần khiết, không pha tạp. Và nếu tôi phải nói về phẩm hạnh phụ nữ với những người từ nay sẽ là góa phụ, tôi xin tóm tắt trong một lời khuyên ngắn gọn: Đối với một người phụ nữ, không tỏ ra yếu đuối hơn bản tính tự nhiên của giới mình là một vinh dự lớn, và vinh dự lớn nhất là không để bị đàn ông bàn tán, dù là lời tốt hay tiếng xấu.
Tôi đã thực hiện xong phần nghi lễ bắt buộc, tuân theo luật pháp, bằng những lời lẽ thích hợp nhất mà tôi có. Sự tri ân bằng hành động đã được thực hiện một phần; người đã khuất đã nhận được chúng qua tang lễ này, và chỉ còn lại việc con cái họ sẽ được nuôi dưỡng bằng ngân sách công cho đến khi trưởng thành: đây là phần thưởng thiết thực mà Athens, như một vòng nguyệt quế, trao tặng cho những người con còn sống và đã chết, sau cuộc đấu tranh như của họ. Bởi ở đâu phần thưởng cho phẩm hạnh là lớn nhất, ở đó những công dân cao quý nhất sẽ dấn thân phụng sự đất nước.
Và bây giờ, khi đã khóc thương xong cho người thân của mình, quý vị có thể ra về./.
 

gsm615

Xe điện
Biển số
OF-863932
Ngày cấp bằng
19/7/24
Số km
2,237
Động cơ
62,009 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
View attachment 9435755


Trận hải chiến Sybota khiến Corinth mất hết mặt mũi, bèn chạy đến tìm đại ca Sparta khóc lóc kể khổ. Nhưng ông anh cả Sparta chỉ mỉm cười ngồi nhìn Corinth diễn từ đầu đến cuối chứ nhất quyết không tỏ thái độ.
Lòng tự trọng của Corinth bị tổn thương sâu sắc, nhận một cú chí mạng 10.000 điểm sát thương.
Nếu là kẻ khác, đối mặt với tình cảnh trong nhà thì yếu kém, ra ngoài đánh lại không thắng, chắc đã sớm cụp đuôi im hơi lặng tiếng rồi.
Nhưng với tư cách là kẻ chuyên chọc gậy bánh xe của thế giới Hy Lạp kiêm nhà lãnh đạo chuyên làm màu, Corinth chưa bao giờ đi theo con đường bình thường. Corinth nín nhịn, quyết tâm dù thế nào cũng phải kiếm chuyện để chọc tức Athens, nhằm vớt vát lại chút thể diện đã mất.
Thế là, Corinth chuyển tầm mắt từ phía Tây thế giới Hy Lạp sang phía Bắc, và dừng lại ở một thành phố: Potidaea.
Và chính điều này đã dẫn đến nước cờ sai lầm thứ ba của Athens.
(3) Nước cờ sai lầm thứ ba: Cuộc vây hãm Potidaea
Chắc mọi người sẽ thắc mắc, sao Corinth lại nhắm trúng thành bang này nhỉ?
Bởi vì nó rất đặc biệt.
Do nằm ở khu vực quanh biển Aegean, vì sự sinh tồn và phát triển nên thành phố Potidaea đã gia nhập Liên minh Delian, vì không vào thì không làm ăn gì được, cơm cũng chẳng có mà ăn. Nhưng thành phố này lại là một trong những thuộc địa được Corinth xây dựng sớm nhất. Và khác với Corcyra, mối quan hệ giữa Potidaea và Corinth cực kỳ tốt đẹp. Trong thành Potidaea, từ giới tinh hoa quý tộc cho đến kẻ buôn bán hàng rong, đâu đâu cũng thấy người Corinth.
Do đó, không khó để hiểu tại sao Corinth lại đánh chủ ý lên thành bang này: Đã không đánh lại Athens trực diện thì ông đây sẽ quấy rối trong nội bộ liên minh của mày cho bõ tức, dù chỉ là để làm cho Athens mày thấy cay dáy cũng được.
Tuy nhiên, Corinth khôn lanh thì người Athens cũng chẳng phải kẻ ngốc.
Corinth liên tục phái người vào thành Potidaea để thăm hỏi, móc nối quan hệ. Trong chốc lát, hai thành bang qua lại nóng hổi, tạo ra thanh thế rất chi là náo nhiệt. Athens rất nhanh đã nắm được tình hình. Athens chỉ cần động não một chút là hiểu ngay trong hồ lô của Corinth bán thuốc gì, thế là Athens phản ứng tức thì. Athens phái quân bao vây Potidaea, đồng thời gửi tối hậu thư cho quân trấn thủ trong thành: Đuổi hết quan chức Corinth về nước, phá hủy tường thành, và lập tức gửi một nhóm con tin đến Athens cư trú.
Người Potidaea vừa nhìn thấy các điều kiện này liền nhảy dựng lên: Yêu cầu của Athens quá thể đáng!
Bây giờ nhìn lại, người Potidaea quả thực có lý do để phẫn nộ: Bởi vì điều kiện Athens đưa ra quá hà khắc, đây là biện pháp dành cho kẻ bại trận, chứ không phải thái độ dành cho đồng minh. Thái độ này của Athens ngụ ý rằng họ chẳng coi Potidaea là người phe mình. Nhưng Potidaea đã làm gì quá giới hạn đâu, dựa vào đâu mà bị đối xử như nô lệ vong quốc vậy? Chuyện này đổi lại là ai cũng khó mà chấp nhận nổi, nên người Potidaea đương nhiên không chịu, lập tức phái người đến Athens giao thiệp, không thể để Athens bắt nạt như vậy được.
Phái đoàn của Potidaea ở lì tại Athens suốt cả một mùa đông, ngày nào cũng đi tìm đủ mọi hạng người trong thành Athens để du thuyết, tranh luận. Sứ giả Potidaea năm lần bảy lượt nhấn mạnh rằng việc họ qua lại với người Corinth là giao lưu trong phạm vi bình thường, không hề làm gì vi phạm quy tắc của Liên minh Delian hay làm bất cứ điều gì tổn hại đến lợi ích của Athens. Athens đối xử với họ như vậy hoàn toàn là vô căn cứ.
Thucydides cũng ghi chép lại bài diễn thuyết của phái đoàn Potidaea trước Hội đồng công dân Athens trong cuốn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesus". Phải nói rằng những bài diễn thuyết này logic chặt chẽ, có lý có tình, luận điểm sắc bén, lời lẽ thống thiết. Đó là những văn bản ngoại giao cực kỳ xuất sắc.
Tuy nhiên, chẳng có tác dụng gì sất.
Người Athens vốn dĩ đã đề phòng Potidaea, nên mặc cho sứ giả Potidaea có lý lẽ đanh thép đến đâu cũng không thể xóa bỏ sự nghi kỵ trong lòng họ. Một mùa đông trôi qua, dưới sự chủ đạo của Pericles, người Athens quyết định giữ nguyên nội dung tối hậu thư ban đầu: Đuổi người, phá tường, giao con tin, không thiếu một mục nào.
Nỗ lực ngoại giao của Potidaea thất bại toàn tập!
Khi quyết định cuối cùng của Athens truyền về Potidaea, có thể tưởng tượng được phản ứng của cư dân trong thành. Người Potidaea giận dữ, ngoài việc lôi tổ tông tám đời nhà Athens ra chửi bới mấy chục lượt, họ triệu tập hội nghị toàn thành, quyết định phản kháng. Tiếp đó, họ cầm vũ khí, đóng cổng thành, chính thức choảng nhau với quân đội Athens đang bao vây bên ngoài.
Đó chính là trận "Vây hãm Potidaea" nổi tiếng.
Nói thật lòng, trận này Athens đuối lý.
Có thể bạn sẽ có cách nhìn khác: Athens cũng là thân bất do kỷ mà, Potidaea thân thiết với Corinth như thế, ai dám bảo đảm sau này nó không tạo phản? Ngộ nhỡ nó làm phản thật thì chẳng phải là họa từ trong nhà hay sao? Thay vì thế, chi bằng bây giờ lo trước cho khỏi họa, bóp chết cái rủi ro này từ trong trứng nước.
Nếu bạn nghĩ như vậy, thì tức là bạn chưa hiểu rõ thế nào là "đề phòng rủi ro" và cũng hiểu sai về cái gọi là "lo trước cho khỏi họa".
Hỏi bạn một câu: Trên đời này ngày nào cũng xảy ra tai nạn xe cộ, biết đâu người tiếp theo ra đường bị tông là bạn, vậy thì có phải cả đời bạn sẽ không ra khỏi nhà nữa không?
Câu hỏi này e là ai cũng biết phải trả lời sao. Tương tự, cốt lõi của vấn đề Potidaea cũng tuân theo logic này. Rủi ro là một loại khả năng, còn tạo phản là một sự thực đã rồi. Tình hình Potidaea đúng là có rủi ro, nhưng chưa trở thành sự thực tạo phản. Thế mà Athens vừa vào đã dùng ngay biện pháp phái quân vây thành, phá tường bắt người, đây có phải là chiến lược ứng phó rủi ro không? Đây rõ ràng là biện pháp dùng để xử lý sự thực đã rồi (đã tạo phản) cơ mà?
Potidaea đúng là có nguy cơ bạo loạn, nhưng cũng không thể vì cái nguy cơ đó mà ép người ta vào đường chết chứ. Bạn chỉ có thể nói vì Potidaea quan hệ tốt với Corinth nên khả năng bạo loạn cao hơn, nhưng nói cho cùng, đó chỉ là "khả năng" mà thôi, là phỏng đoán chứ không phải sự thật. Trong tình huống Potidaea chưa tạo phản, cũng không tìm thấy bằng chứng chắc chắn sẽ tạo phản, mà Athens trực tiếp xuất binh, thế này có phải quá chủ quan, quá phiến diện không? Tiềm thức của hành động này là: Tuy tao không tìm thấy bằng chứng, nhưng tao cảm thấy Potidaea chắc chắn sẽ phản.
Đến đây, mọi người có thể thấy rõ nước cờ của Athens sai ở chỗ nào rồi: Phản ứng thái quá, dùng sức quá đà.
Khách quan mà nói, Potidaea và Corinth quan hệ tốt, đó là vấn đề lịch sử để lại, không phải Potidaea cố tình muốn chống đối Athens nên mới thân với Corinth. Trong thành Potidaea có vài người Corinth thì đã sao? Chỉ là họ hàng qua lại thôi mà, chẳng lẽ vì lo lắng có rủi ro mà ông cấm người ta thăm hỏi bà con? Còn bây giờ Athens chỉ vì nỗi sợ hãi trong lòng mà ra tay tàn độc với Potidaea, đây quả thực là chứng "hoang tưởng bị hại".
Quan trọng hơn, việc Athens làm thế này còn để lại một hậu quả lâu dài tồi tệ: Khả năng lãnh đạo bị suy yếu nghiêm trọng.
Potidaea đường đường chính chính là một thành viên của Liên minh Delian, ngoan ngoãn phục tùng đại ca Athens, mọi mặt đều quy củ, cũng chưa từng nợ phí hội viên. Bây giờ ông đối xử với người ta như thế, các đàn em khác trong Liên minh Delian đều nhìn vào mắt, xin hỏi ông họ sẽ nghĩ gì?
Nếu bạn làm việc dưới trướng một đại ca như thế, bạn có cảm thấy nỗi bi ai kiểu "thỏ chết cáo khóc" không? Biết đâu lần sau có chuyện gì, kẻ đen đủi chính là bạn. Vậy thì tiếp theo, đàn em đối xử với đại ca sẽ là "đồng tâm hiệp lực" hay là "đồng sàng dị mộng"?
Bạn tưởng rằng đã có được sự an toàn, nhưng cái mất đi lại là lòng người!
Có rủi ro, bạn đề phòng là chuyện thiên kinh địa nghĩa, nhưng không thể phản ứng thái quá. Nếu vì lo lắng mà biến thành hành động triệt hạ, thì cuối cùng nhất định sẽ khiến những người đi theo bạn lạnh lòng! Sai lầm kiểu "bỏ ăn vì lo nghẹn" của Athens gây ra sự dao động trong nội bộ đồng minh, thật sự là lợi bất cập hại.
Hồ đồ!
Chí mạng hơn nữa là, cuộc vây hãm Potidaea này, Pericles vốn tưởng sẽ kết thúc nhanh chóng, không ngờ lại biến thành chiến tranh trường kỳ. Potidaea tường cao hào sâu, lương thực dự trữ trong thành đủ ăn mấy năm, dân chúng trong thành vì cực kỳ phẫn nộ với Athens nên đồng lòng nhất trí, sức chiến đấu tăng vọt, khiến quân công thành của Athens nếm đủ mùi đau khổ. Hơn nữa cuộc vây hãm này, khi chiến tranh toàn diện bùng nổ về sau, đã đào cho Athens một cái hố khổng lồ, khiến Athens tổn thất nặng nề, những điều này chúng ta sẽ nói sau.
Và ngay khi cuộc vây hãm Potidaea bùng nổ, Pericles dường như cảm thấy động tĩnh vẫn chưa đủ lớn, bèn tung ra chiêu cuối cùng: Trực tiếp đẩy mạch truyện lên cao trào.
Và chiêu ulti này cũng trở thành cọng rơm cuối cùng đè chết con lạc đà.
(4) Nước cờ sai lầm thứ tư: Khó hiểu tột cùng - Cấm vận Megara
Trong năm xảy ra cuộc vây hãm Potidaea, Pericles đã ra một mệnh lệnh, ban bố trong toàn bộ Liên minh Delian một thứ gọi là Sắc lệnh Megara, tuyên bố trừng phạt kinh tế đối với Megara. Sắc lệnh này quy định: Từ hôm nay trở đi, thành bang Megara sẽ không được phép cập bến bất kỳ thành phố nào thuộc Liên minh Delian hoặc sử dụng cảng biển của họ, đối với tàu buôn và hàng hóa của Megara, Liên minh Delian nhất loạt không nhận.
Sắc lệnh này vừa đưa ra, cả thế giới ồ lên kinh ngạc.
Vị trí của Megara trong lòng Sparta là vô cùng quan trọng. Megara là thành bang có thực lực kinh tế chỉ đứng sau Corinth trong Liên minh Peloponnesus, nó cũng sở hữu lực lượng hải quân khá mạnh và quy mô thương mại viễn dương khổng lồ. Nếu nói Corinth là tiểu đệ của Sparta, thì Megara tương đương với "cô nhân tình nhỏ" của Sparta.
Từ sự kiện Epidamnus bắt đầu đến giờ, vẫn luôn là màn xâu xé lẫn nhau giữa Corcyra, Corinth và Athens. Từ đầu đến cuối chẳng có việc gì của Megara, do đó cô nhân tình nhỏ Megara cùng với ông chủ Sparta vẫn ngồi một bên, vừa cắn hạt dưa vừa xem kịch. Bây giờ Athens đột nhiên tung ra chiêu này, chẳng khác nào trong lúc đang tẩn cho đàn em của Sparta một trận, tiện tay tát luôn cô nhân tình vô tội đứng bên cạnh một cái.
Pha xử lý này của Pericles quả thực quá lẳng lơ, lẳng lơ đến mức người đương thời và cả hậu thế cũng không tìm ra nổi một lý do giải thích cho ra hồn.
Ngay cả chính Thucydides, khi viết cuốn "Chiến tranh Peloponnesus", cũng tỏ ra nghi hoặc về việc tại sao Pericles lại hành hạ Megara. Và nhiều học giả ngày nay cũng tranh cãi kịch liệt về việc rốt cuộc lúc đó Pericles nghĩ gì. Ví dụ Will Durant trong cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" cho rằng Athens muốn nhân cơ hội độc chiếm quyền chủ đạo thương mại trên biển của thế giới Hy Lạp, xây dựng đế chế thương mại, nên muốn ép Megara gia nhập. Còn Giáo sư Donald Kagan, giáo sư danh dự Đại học Yale, chuyên gia uy tín về lịch sử Hy Lạp thì cho rằng Athens làm vậy hoàn toàn vì cân nhắc ngoại giao, ngăn cản Megara đứng về phía Sparta. Tóm lại là chín người mười ý, nhưng chẳng ai đưa ra được một lý do thuyết phục.
Là một quần chúng "ăn dưa hóng chuyện", tôi chỉ có thể đưa ra quan điểm đoán mò của riêng mình ở đây: Đây là một câu chuyện yêu quá hóa hận.
Mọi người chắc vẫn còn nhớ cô nhân tình nhỏ Megara này chứ? Chúng ta đã từng kể câu chuyện về cô nàng. Có một lần trong nhà Sparta xảy ra xung đột, cô nhân tình Megara và ông anh em Corinth (đi đâu cũng có mặt tay này) đánh nhau, tên địa chủ Sparta khoanh tay đứng nhìn, khiến Megara nhỏ bé yếu đuối không đánh lại gã Corinth to béo vạm vỡ. Trong cơn tức giận, cô nhân tình này bỏ nhà ra đi, đến làm thiếp cho gã Athens phong lưu phóng khoáng, lắm tiền nhiều của ở hàng xóm. (Mời đọc lại Phần 24: Athens cân tất và Phần 25: Rắc rối ập đến)
Nhưng vì tình xưa nghĩa cũ với Sparta chưa dứt. Ngay lúc Athens đang sứt đầu mẻ trán vì khủng hoảng nội bộ, cô nàng Megara "đứng núi này trông núi nọ" đã nhân cơ hội quay về vòng tay người tình cũ. Hơn nữa lúc đi còn không quên gói ghém mang về hết một đống vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc mà Athens đã tặng. Điều này đương nhiên khiến cao thủ tán gái kiêu ngạo như Athens rất khó chịu. Cho nên lần này Athens đã nhìn chuẩn thời cơ, mượn cớ chơi khăm cô nàng Megara lăng nhăng một vố, xả cục tức năm xưa.
Bạn có thể coi như Athens ôm hận trong lòng với vât báu nhân gian Megara, nên nhân cơ hội này mượn gió bẻ măng để gây chuyện.
Quan điểm trên chỉ là ý kiến cá nhân, không thích xin mời ném đá.
Còn nếu bạn hỏi rốt cuộc tại sao đường đi nước bước của Pericles lại "dị" như thế, xin lỗi, tôi không đưa ra được đáp án chính thống.
Tuy nhiên, mặc dù chúng ta không biết nguyên nhân sâu xa đằng sau sự "khó hiểu" của Pericles, nhưng hậu quả của chính sách khó hiểu này thì chúng ta biết:
Sparta rất tức giận, hậu quả rất nghiêm trọng.
Vô duyên vô cớ chịu sự sỉ nhục lớn thế này, Megara đương nhiên cũng chạy đến chỗ Sparta khóc lóc dọa treo cổ. Lúc này Sparta muốn tiếp tục giả chết cũng không thể được nữa rồi.
Trước đó Corinth chạy đến trước mặt Sparta lăn lộn ăn vạ, nói cho cùng chỉ là ân oán cá nhân giữa Athens và Corinth, vả lại đúng là do tên khốn Corinth gây chuyện trước, Sparta hoàn toàn có lý do để không quan tâm. Nhưng bây giờ ngay cả Megara cũng bị vạ lây, đây không còn là trường hợp cá biệt nữa, mà là sự kiện trọng đại mang tính phổ biến rồi. Nếu xử lý không tốt, có khả năng lan ra toàn bộ Liên minh Peloponnesus. Sparta với tư cách là đại ca liên minh, muốn đứng ngoài cuộc cũng không xong.
Câu chuyện phát triển đến đây, chúng ta hãy cùng chải chuốt lại các tình tiết quan trọng: Toàn bộ sự việc bắt đầu từ một vở kịch luân lý gia đình. Nhà nọ có thằng nhóc tên là Epidamnus, từ nhỏ tính cách ngỗ ngược, luôn chống đối ông bố Corcyra. Hôm nọ thằng nhóc gây chuyện, bị ông bố mắng cho một trận, nhưng thằng con không phục, chạy đến chỗ ông nội Corinth cáo trạng. Đúng là cha nào con nấy, Corinth làm ông nội, từ nhỏ cũng chẳng ít lần bực mình với thằng con Corcyra, giờ nhân dịp thằng cháu đích tôn đến mách, bèn ra sức ủng hộ cháu Epidamnus đấu lại bố Corcyra. Corcyra bị hai ông cháu liên thủ chèn ép đến mức thẹn quá hóa giận, bèn nổi đóa, gọi đại ca xã hội đen ở khu vực là Athens đến giúp, can thiệp vào việc nhà. Athens không hổ danh là dân anh chị, ra tay tàn độc, xử đẹp ông nội Corinth khiến lão không còn chút tính khí nào. Thế nhưng, lúc Athens ra tay không chú ý lỡ dùng sức quá đà, không những đánh ông nội trọng thương, mà còn suýt đánh cô bảo mẫu được cưng chiều nhất trong nhà (Megara) đến mức không thể tự lo liệu sinh hoạt. Lần này cuối cùng đã kinh động đến Boss lớn nhất của gia đình này, người nắm quyền thực sự, Sparta. Lão già cuối cùng không ngồi yên được nữa, đích thân ra mặt khô máu với Athens.
Nói cách khác: Do Athens quá lẳng lơ, cuối cùng đã ép Sparta vốn luôn ngại gây chuyện phải bước từ hậu trường ra sân khấu. Sparta tránh không được nữa, đích thân xuống sân tìm Athens giao thiệp.
Sparta liên tiếp mở hai cuộc họp, triệu tập đại đa số thành viên Peloponnesus tham gia. Sau khi phân tích nhìn lại toàn bộ quá trình, dưới sự lên án kịch liệt của Corinth và Megara, Sparta cho rằng biểu hiện của Athens đúng là "gọi đòn". Đối với hai đương sự là Corinth và Megara, Athens quả thực làm quá đáng, nhưng quan trọng hơn là, nếu cứ mặc kệ cho nó phát triển, cuối cùng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sự phồn vinh và ổn định của Liên minh Peloponnesus và toàn bộ thế giới Hy Lạp.
Tuy nhiên, Sparta rút ra kết luận trên nhưng không lập tức vác đồ ra chém nhau ngay. Bởi vì họ biết rõ thực lực của Athens không phải dạng dặt dẹo, nếu đánh thật thì chính là mũi tên bắn ra không thể quay trở lại, toàn bộ thế giới Hy Lạp chắc chắn sẽ rơi vào cuộc chiến tranh toàn diện. Các quý ông Sparta tuy thô lỗ, nhưng ý thức rủi ro tối thiểu vẫn có. Vì thế dựa trên nhận thức này, từ tháng 8 năm 432 TCN đến tháng 3 năm 431 TCN, trong vòng nửa năm, Sparta liên tiếp phái 3 phái đoàn sang Athens đàm phán.
3 phái đoàn này trong quá trình đàm phán đã đưa ra các điều kiện rất trung dung: Sparta chỉ hy vọng Athens kịp thời dừng tay, ví dụ đừng làm khó Megara, cũng đừng làm khó Potidaea, miễn là có thể yên ổn làm ăn thì cố gắng đừng can thiệp vào sai sót nội bộ của các thành bang Hy Lạp. Tóm lại là một câu: Mọi người đừng kích động, ngồi xuống nói rõ vấn đề, rồi tìm cách giải quyết.
Người đời sau nhìn lại, những suy nghĩ này của Sparta rất có tính xây dựng, hơn nữa những điều kiện này là do Sparta đích thân ra mặt đàm phán, đại diện cho uy quyền tối cao của Liên minh Peloponnesus, chỉ hy vọng người Athens nể mặt một chút. Nếu mọi người đều có thể bình tâm tĩnh khí giải quyết sự việc, chiến tranh sẽ có thể tránh được, dù sao lùi một bước biển rộng trời cao, tốt cho cả hai.
Tuy nhiên, lịch sử không có chữ "nếu".
Đối mặt với 3 phái đoàn đại biểu, thái độ của Athens vô cùng đơn giản: Cút.
Cả ba phái đoàn đều xám xịt quay về Sparta. Hy vọng hòa bình đã bị bóp chết tươi bởi thái độ cứng rắn của Pericles.
Cho đến lúc này, Athens bất kể là xuất binh giúp Corcyra, hay trừng phạt Megara, hoặc là từ chối Sparta, toàn bộ quá trình đều hùng hổ dọa người. Vậy xin mọi người hãy nghĩ xem, nếu đổi lại bạn là Sparta, là "người cầm trịch" của Liên minh Peloponnesus, là đại ca trên danh nghĩa của thế giới Hy Lạp, bị thằng thứ hai bắt nạt đến mức này, bạn có nhịn được không?
Sao mà nhịn nổi!
Chưa nói đến việc Sparta là quốc gia quân phiệt, tính khí không thể nào mềm như quả hồng để người ta tùy tiện bóp, chỉ nói riêng việc ông ta là người đứng đầu một liên minh quốc tế cỡ lớn, bên dưới có bao nhiêu đàn em, bao nhiêu cặp mắt đang nhìn chằm chằm vào ông. Nếu ông bị ép đến mức này rồi mà vẫn không dám ho một tiếng thì tốt nhất là đi xuống đi.
Không còn lựa chọn nào khác, không còn đường lui.
Năm 431 TCN, sau khi mọi nỗ lực ngoại giao thất bại hoàn toàn, Sparta tuyên chiến với Athens.
Đến đây, một sự kiện bắt nguồn từ vùng biên viễn của thế giới Hy Lạp, kéo theo mâu thuẫn giữa các thành bang nội bộ Peloponnesus, trong chớp mắt đã leo thang thành cuộc đối đầu giữa hai trận doanh lớn nhất thế giới Hy Lạp. Một cuộc đại chiến thế giới của người Hy Lạp kéo dài 27 năm, chính thức mở màn từ đây.
Hy Lạp cổ hào hùng phết
Người Athen đi biển đến vùng đất Israel thống trị dân bản xứ, dân Do thái khởi nghĩa chống lại. Trong Kinh thánh gọi họ là người Philistines có nghĩa là "kẻ thống trị".
Đừng nhầm với người Palestine gốc Arab mãi sau này mới đến.

1766062124837.png
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
4,003
Động cơ
400,009 Mã lực
IMG_2597.png


Họ bảo thần Zeus và Jesus-lessous là một người, cùng là từ những nhà buôn Dothai dựng lên
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top