[Funland] Lịch sử văn minh phương Tây - Từ Hy Lạp đến La Mã

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
495
Động cơ
33,530 Mã lực
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
 

formen

Xe cút kít
Biển số
OF-485699
Ngày cấp bằng
27/1/17
Số km
16,706
Động cơ
435,075 Mã lực
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
Mời 2 cụ thẩm thử cách tiếp cận thần thoại của genz phương pháp: tóm tắt bằng video.

Với em thì kiểu này rất hợp, băm hình tháp chứ không phải đọc tuần tự.
Chờ chút em dán link...

Cccm đeo tai nghe k cần xem cũng đc, hài phết và nhìn lượt view cũng thể hiện nội dung có sức hút rất khá.

Toàn bộ thần thoại hy lạp


Toàn bộ tam quốc.

 
Chỉnh sửa cuối:

gsm615

Xe điện
Biển số
OF-863932
Ngày cấp bằng
19/7/24
Số km
2,190
Động cơ
61,855 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Em đọc thần thoại hy lạp thấy có gái đẹp, viễn chinh, và đánh đấm là em thích. Thích hơn đọc truyện tam quốc ít gái toàn đánh đấm và miu mô đau đầu. Mặc dù em biết cả 2 đều là thổi phồng và nói phét. Thôi thì thời bé ko có gì để đọc thì đọc tạm chứ bây giờ bọn f1 mà bắt nó nhai thần thoại hy lạp hay tam quốc thì nó phun ra vội.
Em nhớ nhất cụ Zeus, thần sấm sét của Hy lạp, nổi tiếng đa tình.
Ngoài bà Hera vợ chính, cụ còn có cả khối bạn tình trên giời với 1 đống con cái, đến người trần (thôn nữ) cụ cũng không tha để có những người anh hùng như Heracles, Perseus...
Bản chất chiếm hữu phụ nữ có từ ngàn xưa.
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,997
Động cơ
400,080 Mã lực
Em nhớ nhất cụ Zeus, thần sấm sét của Hy lạp, nổi tiếng đa tình.
Ngoài bà Hera vợ chính, cụ còn có cả khối bạn tình trên giời với 1 đống con cái, đến người trần (thôn nữ) cụ cũng không tha để có những người anh hùng như Heracles, Perseus...
Bản chất chiếm hữu phụ nữ có từ ngàn xưa.

Nhóm nhỏ những người Judae di cư từ các đảo đến Hy Lạp Athen và Sparta. Họ muốn chiếm quyền kiểm soát thành bang - bộ tộc của người Athens Spata, Thebes, Corinth, Macedonian ... Không dễ. Họ phải dụ các vương tôn quý tộc sống buông thả phóng dật đi, gái gú rượu chè be bét đi .. Khi có nhiều phốt thì nhóm Tinh hoa mới dễ dàng thao túng, giật dây xúi dục họ bảo đấm bang này, đá bang kia, theo liên minh nọ, hợp tác với tay kia để bem thằng ni... Nhóm tinh hoa đã tha hóa người Hy Lạp đến rận gốc rễ !...
 

lehahai

Xe tăng
Biển số
OF-1588
Ngày cấp bằng
30/8/06
Số km
1,011
Động cơ
214,278 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Bởi vậy nên bây giờ bọn gen Z mới ngu như hợi do thiếu kiến thức nền tảng. Suốt ngày chỉ đọc truyện xuyên không với Manga rồi Anh trai say Hi chị gái say Bye, thờ tổng tài như bố. Hỏi nó Hy Lạp ở đâu có khi nó tưởng ở châu Phi, dồi cáu lên có khi chửi Hy Lạp thì quan trọng éo gì biết làm gì. Xạ thu =)).
Cụ nói y hệt thằng cu nhà cháu (gen Z đời gần cuối) chê gen Alpha.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
860
Động cơ
799,460 Mã lực
1765505884938.png


Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
495
Động cơ
33,530 Mã lực
View attachment 9427000

Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
Phần viết này rất chi tiết và tổng hợp nhiều loại kiến thức nền tảng. Rất là tốt đẹp xạ thu. =D>
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,997
Động cơ
400,080 Mã lực
View attachment 9427000

Phần 29: Thời đại Hoàng kim Athens - Trải nghiệm đỉnh cao

Những nước đi thần sầu của Pericles trong nội trị và ngoại giao đã đưa Athens lên đường cao tốc phát triển thứ hai. Tiếp đó, một làn sóng tăng trưởng mạnh mẽ ập đến, vận nước của Athens lại một lần nữa thăng hoa.

Quốc thái dân an, kinh tế phồn vinh, cộng với thể chế dân chủ đã hoàn toàn định hình, cánh cửa để công dân Athens tham gia vào đời sống công cộng càng được mở rộng. Cùng với sự đổ về của dòng chảy của cải khổng lồ, tinh hoa nhân tài và các luồng tư tưởng từ khắp Hy Lạp đều tụ hội về Athens. Tất cả những điều kiện đó cộng lại khiến phồn vinh về văn hóa là điều tất yếu. Việc người Athens theo đuổi sự giàu có về tinh thần cũng giống như việc họ theo đuổi đời sống vật chất sung túc, là hai ý nghĩa không thể thiếu của bất kỳ thời đại hoàng kim nào.

Điều khiến Athens trở nên bá đạo nhất nằm ở chỗ: Trong các lĩnh vực chi tiết tạo nên tòa lâu đài văn hóa như văn học, lịch sử, nghệ thuật, triết học, kịch nghệ... Athens đều đạt được những thành tựu cao nhất của văn minh Hy Lạp cổ đại, và xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại, đó đều là những đẳng cấp hàng đầu.

Không phải nền văn minh nào cũng làm được điều này.

(1) Kiến trúc
Có tiền rồi, tự nhiên người ta sẽ nghĩ đến việc xây dựng lớn. Như đã nói ở phần trước, Athens thời Peisistratos từng có cao trào xây dựng các công trình công cộng, biến Athens trở nên lộng lẫy và thành địa danh biểu tượng của cả Hy Lạp. Nhưng trong Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư lần thứ hai, vì lý do chiến thuật, Athens đã bị Xerxes đốt sạch sành sanh. Dù sau chiến tranh Athens liên tục tái thiết, nhưng vẫn chưa thể khôi phục lại khí thế hào hùng năm xưa. Đây là nỗi đau mãi trong lòng người Athens, cũng là vinh quang đế chế mà họ khao khát được ôn lại nhất.

Pericles, một người Athens từng trải qua chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, thấu hiểu sâu sắc khao khát này. Thế là vào năm 447 TCN, Pericles thúc đẩy Đại hội công dân thông qua một nghị quyết, một đại công trình đủ để đảm bảo doanh thu du lịch cho Athens tận ngày nay: Vệ thành Athens (Acropolis).

Ở Hy Lạp cổ đại, Vệ thành là tiêu chuẩn bắt buộc của mọi thành bang, chủ yếu dùng cho phòng thủ quân sự. Thường khi thành chính bị vây hãm, cư dân sẽ sơ tán lên đây. Vì Vệ thành thường có ba mặt là vách núi, chỉ chừa một lối ra, dễ thủ khó công. Nhưng nhờ công trình tường thành bao quanh của Themistocles trước đó, khả năng Athens bị công phá về mặt quân sự đã trở nên vô cùng nhỏ. Vì vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề an ninh, lại gặp lúc kinh tế phồn vinh, dân số bùng nổ, Pericles bắt đầu tính chuyện với Vệ thành.

Nhắc đến Vệ thành Athens, trong đầu mọi người chắc chắn sẽ hiện lên hình ảnh những tàn tích cột đá. Đó là di chỉ đền Parthenon, công trình chủ đạo của Vệ thành do Pericles quy hoạch. Xung quanh đền Parthenon còn có tượng thần Athena và hàng loạt công trình khác cùng tạo nên quần thể kiến trúc Vệ thành.

Người chủ trì công trình này là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hy Lạp cổ đại: Phidias.

Quan hệ cá nhân giữa Phidias và Pericles rất tốt. Trước khi chủ trì công trình Vệ thành, Phidias đã danh tiếng lẫy lừng. Lúc đó ông đã cho ra đời tác phẩm chấn động toàn Hy Lạp - Tượng thần Zeus (sau này bị hủy hoại trong chiến tranh), nhờ đó Pericles quen biết vị nghệ sĩ thiên tài này. Pericles ủy quyền cho Phidias lập một đội ngũ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng quần thể kiến trúc Vệ thành. Phidias không phụ sự kỳ vọng, và công trình nổi tiếng nhất trong số đó là đền Parthenon.

Đền Parthenon là nơi tế lễ nữ thần Athena, đồng thời cũng là kho bạc của Liên minh Delian. Tiền phí các đàn em đóng hàng năm được cất giữ ở đây, nên đền được xây ở nơi cao nhất của Vệ thành, là hạt nhân của quần thể kiến trúc. Toàn bộ ngôi đền sử dụng kết cấu cột trụ Hy Lạp kinh điển, xung quanh có tổng cộng 46 cột Doric. Khoảng cách giữa các cột không đều nhau mà có sự chênh lệch cực nhỏ dựa trên cảm nhận của mắt thường, để khi nhìn từ một góc độ nào đó, cả hàng cột trông sẽ rất hài hòa. Toàn bộ ngôi đền là hình chữ nhật, chiều dài và chiều rộng tuân theo tỷ lệ vàng hoàn hảo. Do đó, dù quan sát từ góc độ nào, đền Parthenon cũng mang lại cảm giác thẩm mỹ rất dễ chịu, đằng sau đó đều là kết quả của sự tính toán chính xác.

Một điểm đặc sắc khác của đền Parthenon là điêu khắc. Phidias đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư và đích thân thực hiện toàn bộ các bức phù điêu của đền. Trong đó bao gồm tượng Athena khổng lồ và các phù điêu trên tường.

Chính điện đền Parthenon từng thờ một bức tượng thần Athena khổng lồ, toàn thân dát vàng, thể hiện địa vị tôn quý của người bảo hộ thành Athens. Bức tượng này sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh, chúng ta ngày nay không còn cơ hội chiêm ngưỡng bản gốc. Người Mỹ ngày nay đã phục dựng một đền Parthenon tại bang Tennessee theo trí tưởng tượng, bên trong cũng làm một tượng Athena theo tỷ lệ tương tự. Nhưng trình độ thẩm mỹ của bức tượng này, khụ khụ, ai hứng thú có thể tự lên mạng tìm xem.

May mắn thay, nếu ngày nay chúng ta muốn lĩnh hội các tác phẩm điêu khắc của Phidias, muốn biết trình độ nghệ thuật của đền Parthenon rốt cuộc đã đạt đến cảnh giới nào, thì vẫn còn một nơi. Nơi đó không phải ở Hy Lạp, cũng không phải ở Mỹ. Mà là ở London, trong Bảo tàng Anh (British Museum).

Chuyện này phải kể đến Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Khi đó người Thổ và Venice đánh nhau trên biển suốt 200 năm. Năm 1687, Athens bị người Venice vây hãm. Người Thổ biến đền Parthenon thành kho vũ khí, bên trong chất đầy thuốc súng. Không may bị một quả đạn pháo của hải quân Venice bắn trúng gây nổ lớn, thế là công trình vĩ đại này biến thành cái dạng như mọi người thấy ngày nay.

Sau chiến tranh, mảnh vỡ của đền Parthenon vương vãi khắp nơi, người Thổ đang phiền lòng không biết dọn dẹp thế nào thì gặp đúng lúc đại sứ Anh tại Ottoman là Huân tước Elgin nhìn trúng đống "rác" này. Ông ta bèn tự bỏ tiền túi, chi 80.000 bảng Anh để gom hết các mảnh vỡ mang về London, sau đó không lâu thì nhượng lại cho Bảo tàng Anh. Qua phục dựng và lắp ghép, chúng ta có được quần thể điêu khắc Parthenon vô giá trong phòng trưng bày Hy Lạp của Bảo tàng Anh ngày nay.

Chỉ xét từ góc độ thẩm mỹ, những bức tượng này đẹp tuyệt trần, trình độ nghệ thuật không chỉ đứng đầu nước Anh mà còn lọt top 3 các bảo tàng trên toàn thế giới. Vì quần thể tượng này mà người Hy Lạp tức điên lên, năm nào cũng cãi nhau với người Anh, đòi trả lại quốc bảo của mình.

Phần lớn các tác phẩm này là phù điêu chạm khắc trên tường bên trong đền Parthenon, nội dung chủ yếu lấy từ thần thoại Hy Lạp và các sự kiện lớn của Athens như tế lễ hay chiến tranh. Tỷ lệ hình ảnh được tính toán kỹ lưỡng, việc bắt trọn và khắc họa động tác, thần thái nhân vật gần như hoàn hảo, thể hiện trọn vẹn biểu cảm và nội tâm nhân vật ngay tại khoảnh khắc đó, sống động như thật, kỹ thuật siêu phàm. Nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm tượng điêu khắc "Ba nữ thần định mệnh" (The Three Fates) trên pediment của đền Parthenon do Phidias thực hiện.

Pediment là một tiêu chuẩn của kiến trúc phương Tây, chính là phần tường bên ngoài hình tam giác dưới hai mái (xem ảnh). Khu vực tam giác đó chính là nơi nghệ sĩ thể hiện tài năng. Phidias đã khắc một nhóm nhân vật thần thoại Hy Lạp lên đó, và "Ba nữ thần định mệnh" là một phần trong số ấy.

"Ba nữ thần định mệnh" là tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại (xem ảnh). Sự khắc họa hình thể và cơ bắp nhân vật cực kỳ chân thực. Đặc biệt là cách khắc họa y phục, khi bạn nhìn thấy nhóm tượng này lần đầu, bạn khó mà tưởng tượng được những nếp gấp phức tạp và những đường vân uốn lượn mềm mại kia lại được đục đẽo từng chút một bằng tay. Từng chi tiết váy áo sống động như thật, và cơ thể người phụ nữ ẩn hiện dưới lớp áo được khắc họa tinh tế và truyền thần. Bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đá cẩm thạch cứng rắn lại có thể biểu đạt được hình thể đầy đặn, khí chất quyến rũ của người phụ nữ một cách sinh động đến thế. Bạn sẽ không kìm được muốn đưa tay chạm vào, muốn cảm nhận sự cứng rắn và mềm mại đã hòa quyện thống nhất thế nào dưới kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Phidias dùng những công cụ cực kỳ đơn giản để đục ra tác phẩm kinh người như vậy, không phục không được. (Nên nhớ, đây là năm 4xx trước công nguyên, 2.000 năm sau mới đến thời phục hưng với Michelangelo các kiểu).

Hậu thế mô phỏng phong cách của "Ba nữ thần định mệnh", tham khảo tư liệu lịch sử và trí tưởng tượng để phục dựng lại quần thể điêu khắc trên pediment đền Parthenon. Ngày nay, những bản phục dựng này cũng được lưu giữ trong Bảo tàng Anh, qua đó chúng ta có thể thấy hình tượng các vị thần Olympus đứng đầu là Zeus và Athena, cũng như gu thẩm mỹ độc đáo đằng sau những hình tượng ấy.

Nhưng xây dựng thành phố dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là công trình hình ảnh bên ngoài, thời đại hoàng kim của một nền văn minh tuyệt đối không chỉ có phần cứng bên ngoài, mà còn phải có những sản phẩm tinh thần phong phú bên trong. Chỉ khi nội ngoại kiêm tu, thành tựu của Athens mới xứng đáng với danh hiệu đỉnh cao văn minh thế giới Hy Lạp cổ đại.

Đó chính là văn hóa và khoa học của Athens.

(2) Triết học
Đầu tiên phải nói đến triết học. Đây là nền tảng lớn nhất giúp văn minh Hy Lạp chói lọi cổ kim.

Ngày nay, hễ ai có chút hiểu biết về chính trị, tư tưởng và lịch sử phương Tây đều biết muốn hiểu phương Tây, phải tìm về nguồn cội văn minh Hy Lạp. Vậy rốt cuộc Hy Lạp cổ đại đã để lại những di sản quan trọng nào cho văn minh thế giới ngày nay?

Câu trả lời chính là hệ thống tư tưởng Hy Lạp cổ đại.

Về triết học Hy Lạp, vì nội dung quá phong phú, ở đây chỉ nói vắn tắt về những người và việc bá đạo nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia theo thời gian gồm: Trường phái Miletus, trường phái Pythagoras, trường phái Elea và trường phái Athens. Chia theo địa điểm thì có Ionia, Ý và Athens. Nghĩa là dù xét về thời gian hay không gian, Athens không phải là nơi phát tích của triết học Hy Lạp, mà là trạm cuối. Tư tưởng của các trường phái triết học giống như sông đổ về biển lớn, đều hội tụ tại Athens. Tại đây, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao. Các triết nhân đến thăm hoặc định cư tại Athens đã khai sáng cho thế hệ tinh hoa trẻ tuổi ở đây. Trong bầu không khí văn hóa cởi mở, bao dung, đa nguyên của Athens, lớp hậu sinh này nhanh chóng hòa nhập tinh túy của triết học tự nhiên vào mọi mặt đời sống, ví dụ như tỷ lệ kiến trúc, tạo hình điêu khắc chân thực đã nói ở trên, bên trong đều chứa đựng kiến thức của triết học tự nhiên như toán học, vật lý, thiên văn học và giải phẫu học.

Athens không dừng lại ở đó. Một mặt hấp thu vận dụng triết học tự nhiên, mặt khác không quên đổi mới nâng cấp, nội bộ Athens đã thai nghén ra một lộ trình triết học hoàn toàn mới, đó chính là Siêu hình học Metaphysics lừng danh.

Siêu hình học là một khái niệm rất trừu tượng. Nói đơn giản là quan niệm rằng đằng sau các hiện tượng khoa học phổ biến có một hệ thống quy luật tối cao chi phối sự vận hành của vạn vật vũ trụ. Siêu hình học chính là thông qua tư duy triết học để tìm ra trí tuệ tối cao này. Trong quá trình đó, Athens xuất hiện hàng loạt bậc thầy tư tưởng, trong đó có "Tam kiệt triết học" mà người Trái Đất nào cũng biết: Socrates, Plato, Aristotle.

Nếu bạn chưa từng nghe tên ba vị đại ca này, thì thực sự khuyên bạn nên về nhà đọc thêm sách!

Ba vị này mỗi người bá một kiểu, sau này chúng ta sẽ bàn kỹ, giờ nói sơ qua. Ba người này là quan hệ sư đồ nhất mạch.

Socrates là sư tổ, rất giống Khổng Tử của Trung Quốc, cả đời chỉ nói chứ không viết sách, tư tưởng đều do học trò ghi chép lại. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trường phái triết học lớn, cực kỳ thích suy tư, thích nhất là ra đường tìm người nói chuyện, thông qua giao tiếp hàng ngày để hoàn thành việc tìm kiếm ý nghĩa nhân sinh, chuyển hóa kiến thức thành trí tuệ. Đây là khởi nguồn của Siêu hình học Athens. Socrates trải qua toàn bộ cuộc chiến tranh Peloponnesian, chứng kiến Athens từ thịnh chuyển sang suy, thể chế dân chủ rơi vào hỗn loạn, điều này khiến ông suy tư không dứt. Socrates từ đó chuyển hướng triết học từ quan tâm đến vạn vật vũ trụ sang quan tâm đến con người, triết học từ đây bắt đầu có hơi ấm.

Sau khi Socrates chết, do sự thất vọng tột cùng với hiện thực Athens, đồ đệ Plato đã phê phán kịch liệt nền chính trị dân chủ. Ông cho rằng đám đông bình dân giống như một lũ ô hợp, để họ nắm quyền chính trị là vô cùng ngu xuẩn và nguy hiểm. Ông đưa ra khái niệm "Vua Triết gia" (Philosopher King), tuyên bố rằng hoặc người cai trị phải trở thành triết gia, hoặc triết gia phải trở thành người cai trị, thì việc trị nước mới đạt trạng thái lý tưởng. Ông từng rời Athens đến Sicily tìm người sẵn sàng thực hành lý niệm của mình, suýt nữa thì mất mạng. Cuối đời, ông viết tất cả suy tư về chính trị hiện thực, bao gồm cả hồi ức về thầy Socrates, thành một kiệt tác để đời: Cộng hòa (The Republic). Cuốn sách này tương đương với "Hiến pháp" của triết học chính trị phương Tây. Triết gia Anh Whitehead từng nói: "Toàn bộ sự phát triển của triết học phương Tây mấy ngàn năm qua chỉ là chú thích cho tư tưởng của Plato", có thể thấy cuốn sách này khủng cỡ nào.

Có sư tổ và sư phụ đi trước lót đường, đến lượt Aristotle, triết học Hy Lạp đạt đến đỉnh cao nhất. Sự uyên bác của Aristotle vượt qua tất cả học giả thế giới Hy Lạp đương thời. Nhìn tên các tác phẩm của ông là đủ biết sự tích lũy kiến thức của ông kinh tởm cỡ nào: Chính trị học, Đạo đức học, Vật lý học, Siêu hình học, Logic học, Kinh tế học, Tu từ học, Thi học, Lịch sử động vật, Luận về linh hồn, Khí tượng học, Luận về trí nhớ... Đây chỉ là một phần các tác phẩm của ông. Nhìn bằng con mắt ngày nay, Aristotle còn hơn cả người hiện đại xuyên không về quá khứ. Ông trở thành người tụ tập tinh hoa của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ đó, Siêu hình học và Khoa học tự nhiên cùng phát triển thành hai nhánh lớn của tư tưởng phương Tây. Dựa trên hai trào lưu này, hình thành nên hai hệ thống triết học là Bản thể luận và Nhận thức luận, rồi phát triển thành hai trường phái Duy tâm và Duy vật. Đến cận đại, hai trường phái này xuất hiện Chủ nghĩa kinh nghiệm (đại diện là Bacon) và Chủ nghĩa duy lý (đại diện là Descartes), cuối cùng được thống nhất bởi lý thuyết của đại triết gia Đức Kant. Nếu truy tìm tổ sư của những thành quả này, không ai xứng đáng hơn là Aristotle.

(3) Kịch nghệ
Nếu nói triết học là một loại giải trí, thì loại giải trí này định sẵn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, chỉ những ông lớn có tiền có thời gian mới chịu bỏ công sức theo đuổi cơn "cực khoái trong não" này, dân thường chắc chắn không chơi nổi trò chơi sang chảnh đó. Nhưng điều này không có nghĩa là dân thường không thể trải nghiệm tinh túy của triết học, họ có thể thông qua một cách khác để nhận thức thế giới và cảm nhận vận mệnh.

Thứ đó gọi là Kịch.

Kịch Hy Lạp cổ đại cũng đặc sắc không kém. Kịch khởi nguồn từ dân gian Hy Lạp, là các tiết mục ca xướng để tế lễ thần rượu nho Dionysus, lâu dần thành hình thức biểu diễn cố định. Kịch Hy Lạp chia làm Bi kịch và Hài kịch. Hàm nghĩa của chúng hơi khác với cách hiểu ngày nay.

Bi kịch Hy Lạp cổ đại nhìn theo con mắt ngày nay nên gọi là "Chính kịch", hay "phim chính luận". Nội dung bi kịch cơ bản lấy từ thần thoại Hy Lạp, qua sự gia công của tác giả, dùng cách mà dân thường hiểu được để truyền tải các sản phẩm tinh thần thuộc phạm trù luân lý đạo đức cho xã hội. Qua bi kịch, ta thấy được suy tư của xã hội Hy Lạp bấy giờ về nhân sinh, vận mệnh, trách nhiệm. Những suy tư này cùng một mạch với các vấn đề mà triết học Hy Lạp quan tâm, cũng là ba câu hỏi chí mạng mà bất cứ bác bảo vệ công ty hay cơ quan nào ngày nay cũng sẽ hỏi bạn: Bạn là ai? Từ đâu đến? Muốn đi đâu?

Thời đại hoàng kim của Athens có ba nhà biên kịch bi kịch vĩ đại: Sophocles, Aeschylus, Euripides.

Nổi tiếng nhất chắc chắn là Sophocles, với tác phẩm để đời "Vua Oedipus". Đây là một thảm kịch luân thường đạo lý, kể về nhân vật chính Oedipus giết cha ruột, cưới mẹ ruột, cuối cùng tự đâm mù đôi mắt. Bạn không biết câu chuyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn bạn biết câu đố nổi tiếng của nhân sư Sphinx: Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, tối đi ba chân? Câu đố này là một tình tiết của "Vua Oedipus". Tương tự, nếu bạn tìm hiểu tâm lý học thì chắc chắn biết có từ gọi là "Mặc cảm Oedipus" (yêu mẹ), do ông tổ phân tâm học Freud đưa ra. Cảm hứng của Freud đến từ chính vở bi kịch này. Ngày nay, ai muốn tìm hiểu bi kịch cổ điển phương Tây thì đây là tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc, là thành tựu cao nhất của bi kịch cổ điển Hy Lạp (không có một trong).

Có "Mặc cảm Oedipus" thì cũng có "Mặc cảm Electra" (yêu cha), lý thuyết này cũng do Freud đưa ra, cảm hứng cũng từ một vở bi kịch của Sophocles là "Electra". Lại nữa à? Bạn không biết truyện này cũng không sao, nhưng chắc chắn biết Chiến tranh thành Troy và Con ngựa gỗ thành Troy. Vở bi kịch này kể chuyện xảy ra sau khi thống soái Hy Lạp Agamemnon thắng trận trở về quê nhà. Sức ảnh hưởng của vở kịch kéo dài đến tận ngày nay. Kịch bản "Salome" của văn hào Anh Oscar Wilde, hay tác phẩm đoạt giải Nobel "Lolita" của nhà văn hiện đại Nabokov đều có bóng dáng của "Electra".

Hai vị còn lại cũng lừng danh không kém. Aeschylus với tác phẩm tiêu biểu "Prometheus bị xiềng", Euripides với "Medea" đều cải biên từ thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm này không ngoại lệ đều mượn lớp áo của thần để kể câu chuyện của con người. Vừa có kỳ vọng và tán dương đức hạnh, vừa có suy ngẫm về tội ác và trừng phạt, lại có cả sự đả kích những thói xấu, sự thay đổi thất thường và đen tối của nhân tính. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ cực đẹp, phối hợp với hình thức hợp xướng đương thời tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Về trình độ nghệ thuật, họ hoàn toàn xứng đáng được xếp ngang hàng với Sophocles.

Nói đến Hài kịch, chính xác nên gọi là Kịch châm biếm chính trị. Nó không phải dùng để chọc cười đơn thuần, mà dùng để châm biếm thời cuộc. Ví von một cách khập khiễng thì kịch Hy Lạp hơi giống các chương trình hài độc thoại ngày nay, chỉ có điều các miếng hài là nhắm vào một nhân vật (thường là chính trị gia) hoặc một sự kiện lớn đương thời để cà khịa, chủ yếu là châm biếm đả kích.

Nhà biên kịch hài kịch nổi tiếng nhất là Aristophanes. Tác phẩm của ông có "Mây", "Chim"... Trong những vở hài kịch này, nhiều nhân vật nổi tiếng trở thành đối tượng bị chế giễu. Những nhân vật làm mưa làm gió sau này như Alcibiades, Nicias, Cleon, thậm chí cả bản thân Pericles và đại triết gia Socrates cũng bị lôi lên sân khấu để "dìm hàng". Khác với bi kịch thảo luận về vận mệnh nhân sinh, hài kịch thường đậm màu sắc chính trị. Do đó hài kịch Hy Lạp cổ đại thường là sách tham khảo bắt buộc cho các học giả nghiên cứu chính trị, lịch sử, triết học phương Tây. Không phải vì bản thân vở kịch, mà vì chỉ khi đọc hiểu những nội dung đằng sau tiếng cười châm biếm đó, mới thực sự hiểu được logic vận hành chính trị và mạch hưng suy của Hy Lạp cổ đại.

(4) Văn học và Lịch sử
Sau triết học và kịch nghệ là thành tựu văn học, đặc biệt đáng nhắc đến là thơ ca và lịch sử.

Từ khi văn minh Hy Lạp thành hình, hình thức văn học chủ yếu là Sử thi, nội dung cơ bản do các nhà thơ rong nghe ngóng rồi gia công, kể lại bằng miệng, điển hình là "Sử thi Homer". Các tác phẩm văn học theo mô típ này chắc chắn hướng đến đại chúng, dân thường đều thích. Nhưng khi văn minh phát triển đến thời kỳ hưng thịnh, hình thức văn học không thể cứ mãi bình dân, mà cũng cần có nội dung hàn lâm. Khoảng trống này chính là Thơ trữ tình Hy Lạp cổ đại, đại diện là nhà thơ vĩ đại nhất Hy Lạp: Pindar.

Nếu bạn không quen thuộc tác phẩm của ông thì cũng không sao, chỉ cần biết vị thế của người này trên văn đàn Hy Lạp lúc đó tương đương với Lý Bạch của Trung Quốc. Tác giả cuốn "Lịch sử văn minh thế giới" Will Durant cho rằng thành tựu nghệ thuật của Pindar giữ vị trí đỉnh cao ở phương Tây trong thời gian dài, cho đến khi Shakespeare của Anh và Montaigne của Pháp xuất hiện thì Pindar mới thoát cảnh độc cô cầu bại. Mà Shakespeare và Montaigne lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ Pindar.

Thành tựu của Pindar đến từ sự đổi mới thơ trữ tình. Thơ trữ tình vốn chỉ dùng để ca công tụng đức, nịnh nọt giai cấp thống trị, nhưng vào tay Pindar, ông biến nó thành vật tải phản ánh đời sống thị dân, thi đấu thể thao, muôn mặt xã hội Hy Lạp, đồng thời tận dụng lợi thế kịch nghệ phát triển của Athens để đưa âm nhạc vào sáng tác thơ. Thơ của Pindar đều có thể hát được, nhờ đó ông đưa thơ trữ tình từ trên bệ thờ xuống, để những vần thơ bác học đi vào từng nhà dân thường. Sau này văn học cổ điển châu Âu thế kỷ 16-17 chịu ảnh hưởng rất lớn từ sáng tác của Pindar.

Ngoài thơ ca, văn học Athens nổi tiếng nhất chắc chắn là Sử học. Hai tác phẩm "Lịch sử" và "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian" đã để lại cho hậu thế phương Tây những kinh điển sử học bất hủ. Cuốn "Lịch sử" và sử gia Herodotus chúng ta đã giới thiệu khi nói về Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Còn "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian", tác giả là Thucydides vĩ đại.

Ngày nay, ai có kiến thức thường thức cơ bản đều biết cái gọi là "Bẫy Thucydides", nói về ván cờ giữa cường quốc truyền thống và cường quốc mới nổi, bắt nguồn từ tác phẩm này. Cuốn sách này đã khai sáng phương pháp tự sự lịch sử kinh điển và là khuôn mẫu viết sử của phương Tây. Sau này chúng ta nói về câu chuyện La Mã, tác phẩm kinh điển nhất là "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã". Nếu mọi người đặt hai bộ sách này cạnh nhau để đọc, sẽ thấy cuốn sau đầy rẫy dấu vết của cuốn trước. Thành tựu văn học của cuốn sách này cũng không hề kém cạnh giá trị sử liệu, tư duy logic chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng đẹp đẽ, đặc biệt là các bài diễn văn được ghi lại trong đó đã trở thành sách giáo khoa về diễn thuyết công chúng cho hơn một nửa chính trị gia và nhà hoạt động xã hội phương Tây ngày nay. Những bài diễn thuyết kinh điển của Lincoln, Churchill, Kennedy, Reagan mà mọi người biết đến, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của "Lịch sử chiến tranh Peloponnesian".

Nói cách khác, các quy phạm viết văn học, lịch sử do Athens khai sáng về cơ bản đã đặt định tiêu chuẩn sáng tác cho các tác phẩm cùng loại ở phương Tây ngày nay. Quy định này kéo dài hơn hai ngàn năm mà gần như không đổi, Hiến pháp Mỹ mới vài trăm năm chỉ là tuổi tí.

(5) Khoa học và Kỹ thuật
Nói xong văn hóa nghệ thuật, hãy xem khoa học kỹ thuật.

Đầu tiên là Y học. Athens thời kỳ đỉnh cao đã cống hiến cho thế giới một người khổng lồ y học: Hippocrates.

Hippocrates đưa ra "Thuyết thể dịch" nổi tiếng. Đại ý là: Ông giải thích các chức năng cơ bản của cơ thể người là kết quả của sự tương tác giữa các loại dịch lỏng khác nhau. Ông cho rằng cơ thể có 4 loại thể dịch: máu, chất nhầy, mật vàng, mật đen. Nếu muốn khỏe mạnh cường tráng thì phải đảm bảo các thể dịch hoạt động bình thường, ngược lại nếu thiếu hụt hoặc tỷ lệ mất cân bằng thì cơ thể sẽ sinh bệnh. Hơn hai ngàn năm trước, trong điều kiện khoa học như vậy, một người xưa có thể nhận thức y học cơ thể đến mức độ đó đã là thành tựu vô cùng ghê gớm.

Hơn nữa, sự vĩ đại của Hippocrates còn nằm ở chỗ ông xây dựng một hệ thống giá trị cho nhân viên y tế, chính xác là một tinh thần coi trọng cả khoa học và đạo nghĩa. Ngày nay tất cả sinh viên y khoa đều biết "Lời thề Hippocrates" nổi tiếng. Từ lời thề này, chúng ta thấy được giới hạn đạo đức thuần túy mà một nhân viên y tế phải giữ gìn: Là bác sĩ, bất kể đối phương là nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều là bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Là bác sĩ, truyền nghề cũng là trách nhiệm không thể chối từ, bạn có nghĩa vụ truyền thụ kỹ thuật cứu người, bất kể có nhận được thù lao hay không. Những đạo đức nghề nghiệp bác sĩ mà ngày nay chúng ta coi là lẽ đương nhiên này, đã được định hình từ mấy ngàn năm trước tại Hy Lạp. Từ góc độ này, cống hiến của Hippocrates quả là công đức vô lượng.

Ngoài y học, việc khám phá bí ẩn vạn vật trong vật lý, toán học và thiên văn học cũng đạt thành tựu rực rỡ.

Sự phát triển khoa học của Hy Lạp cổ đại gần như là tất yếu. Vì lúc đó khá nhiều triết gia đồng thời cũng là nhà khoa học. Ví dụ Pythagoras là nhà toán học, Thales là nhà thiên văn học, Democritus là nhà vật lý học. Chính vì họ kiêm nhiều chức, sự phát triển của triết học tất yếu kéo theo tiến bộ của khoa học. Từ khoảnh khắc triết học tự nhiên truyền vào Athens, tinh thần lý tính khoa học luôn đồng hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Athens. Aristotle càng là nhà khoa học toàn diện, vừa đặt nền móng tư tưởng cho khoa học, vừa cung cấp dinh dưỡng về phương pháp tư duy.

Chính nhờ bối cảnh này, văn minh phương Tây ngay từ nguồn cội đã mang tinh thần khoa học và lý tính. Điều này giải thích tại sao các quốc gia phương Tây thừa kế di sản này lại có thể dẫn đầu ba cuộc cách mạng công nghiệp cận đại. Từ Phục Hưng đến Khai Sáng rồi đến Cách mạng Công nghiệp, không phải phương Tây phát hiện ra lý tính, mà chỉ là đưa lý tính trở về đúng vị trí của nó mà thôi. Tinh thần khoa học ngay từ đầu đã nằm trong cốt lõi tinh thần của văn minh phương Tây.

Đó chính là Pericles và thời đại hoàng kim của Athens dưới sự cai trị của ông.

Thời đại như vậy, thành tựu như vậy, chưa bao giờ từng có trong lịch sử nhân loại.
Em bổ xung là nhóm Tinh Hoa Judae ngoài đem chiến tranh họ còn mang đến Hy Lạp 🇬🇷 chữ viết. Ban đầu chữ viết Hy Lạp không đủ diễn tả, những mục sư nhà buôn Judae mở rộng phát triển và chính họ là người chép thần thoại Hy Lạp. Họ chép kinh thánh về thiên chúa Ibrahim,.. Triết học Hy Lạp xuất phát từ thần học, tâm linh.

Đóng góp đáng kể của giới Tinh Hoa cho Hy Lạp đó là môn kế toán. Sổ cái kế toán sử dụng để ghi chép chiến lợi phẩm, phân chia tiền, chiến lợi phẩm hậu chiến tranh, buôn bán, lỗ lãi, ...và kế toán sổ cái vẫn được dùng đến ngày nay.
 

yadih

Xe tải
Biển số
OF-800791
Ngày cấp bằng
19/12/21
Số km
495
Động cơ
33,530 Mã lực
Em bổ xung là nhóm Tinh Hoa Judae ngoài đem chiến tranh họ còn mang đến Hy Lạp 🇬🇷 chữ viết. Ban đầu chữ viết Hy Lạp không đủ diễn tả, những mục sư nhà buôn Judae mở rộng phát triển và chính họ là người chép thần thoại Hy Lạp. Họ chép kinh thánh về thiên chúa Ibrahim,.. Triết học Hy Lạp xuất phát từ thần học, tâm linh.

Đóng góp đáng kể của giới Tinh Hoa cho Hy Lạp đó là môn kế toán. Sổ cái kế toán sử dụng để ghi chép chiến lợi phẩm, phân chia tiền, chiến lợi phẩm hậu chiến tranh, buôn bán, lỗ lãi, ...và kế toán sổ cái vẫn được dùng đến ngày nay.
Thế hóa ra bọn Judae này ngoài việc bán Chúa còn làm được nhiều việc có ích đấy chứ nhỉ giáo sư? Mà sao bọn này lại đi khắp nơi sang đến cả TQ như hôm nọ giáo sư kể, là thế nào nhỉ? Giáo sư hôm nào mát giời xin kể một đoạn kỹ hơn về bọn này xem sao? Mời giáo sư xem clip operarock mô tả tên Judah bán Chúa. Xạ thu =))

 
Chỉnh sửa cuối:

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
860
Động cơ
799,460 Mã lực
1765683147140.png


Phần 30: Chiến tranh Peloponnese - Khởi đầu của sự kết thúc

Nói xong về đỉnh cao văn minh, văn minh Hy Lạp cổ đại cũng bắt đầu đi xuống dốc.

Đây là chuyện không thể tránh khỏi. Thời đại Hoàng kim của Hy Lạp mà đại diện là Athens tuy vinh quang vô hạn, nhưng một khi đã qua đỉnh cao này, cũng đồng nghĩa với việc cái kết đã không còn xa.

Giống như Ba Tư, sự suy tàn của Hy Lạp cũng đi kèm với chiến tranh, nhưng khác biệt ở chỗ đây là cuộc hỗn chiến nội bộ trong thế giới Hy Lạp. Chiến tranh giống như một con quái thú nuốt chửng của cải và lòng người, móc rỗng những giá trị nội tại của văn minh Hy Lạp. Nền văn minh rực rỡ ấy cũng dần dần hóa thành pháo hoa trong khói lửa, chỉ để lại cho hậu thế những niềm tiếc nuối và mộng tưởng vô hạn.

Đó chính là Chiến tranh Peloponnese (Peloponnesian War, hoặc Pelop War cũng được).

Bây giờ, hãy điều chỉnh nhịp thở và ngồi ngay ngắn lại, để đón nhận cuộc đại hỗn chiến kéo dài gần 30 năm này, và chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về nó trong 30 phần. Vì cuộc chiến này có ý nghĩa trọng đại, diễn biến phức tạp, câu chuyện lại đặc sắc, nên chúng ta sẽ dành riêng một phần để nói về tầm quan trọng và tính đặc thù của nó.

Chiến tranh Peloponnese là sự khởi đầu của kết thúc.

Chiến tranh Peloponnese là cuộc đại chiến bang phái trong thế giới Hy Lạp giữa Liên minh Delian đứng đầu là Athens và Liên minh Peloponnese đứng đầu là Sparta. Nguồn gốc cuộc chiến có thể truy ngược về thời kỳ hai cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Thế giới Hy Lạp đã sản sinh ra hai siêu sao rực rỡ nhưng hoàn toàn khác biệt là Sparta và Athens. Trong chiến tranh vệ quốc, họ bỏ nhiều sức nhất, công lao lớn nhất, nên sau chiến tranh tự nhiên ngồi vào vị trí lãnh đạo.

Thế nhưng hai thành bang này lại quá khác biệt: Một bên là bá chủ già dơ với nền tảng thâm hậu, một bên là kẻ mới nổi đang độ sung sức; một bên là quốc gia nông nghiệp cố thủ trong đất liền, bên kia là đế quốc hàng hải dựa vào thương mại; một bên theo thể chế thiểu số, một bên theo thể chế dân chủ; một bên tương đối khép kín, một bên tương đối cởi mở. Hai logic sinh tồn hoàn toàn trái ngược dần dần va chạm và ma sát trong thế giới Hy Lạp. Để giành không gian sinh tồn lớn hơn, việc chèn ép lẫn nhau và nảy sinh xung đột là điều khó tránh. Theo logic một núi không thể có hai hổ, hai vị lãnh tụ hay lưu manh này vì tranh giành quyền phát ngôn cao nhất đã lao vào đánh nhau sứt đầu mẻ trán trong cái thế giới Hy Lạp nhỏ bé, khuấy đảo cả nền văn minh Hy Lạp đến long trời lở đất.

Chiến tranh chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu đánh nhau 10 năm, hai bên ký một hiệp ước đình chiến mà chẳng ai hài lòng. Tiếp đó là 8 năm hòa bình trên mặt bàn, nhưng dưới gầm bàn thì lén lút hành động liên tục, ai cũng hiểu việc đánh lại chỉ là sớm muộn. Quả nhiên chiến tranh lần hai bùng nổ, lần này đánh gần 10 năm nữa. Đến năm 404 TCN, kết thúc với sự thất bại triệt để của Athens.

Chiến tranh Peloponnese có thể coi là Thế chiến thứ nhất của phương Tây theo đúng nghĩa đen. Dù là các thành bang chúng ta từng nhắc đến, hay chỉ là những chấm nhỏ trên bản đồ ít người nhớ tới, không ai có thể may mắn thoát khỏi, tất cả đều bị cuốn vào cuộc chiến. Mọi thành bang đều gia nhập một trong hai phe, và thường xuyên xuất hiện những kẻ hay vì lợi ích mà quay giáo trở cờ, gió chiều nào che chiều ấy. Chiến tranh như một gáo nước lạnh dội từ đầu xuống chân văn minh Hy Lạp, sau cuộc chiến, Hy Lạp đi vào suy tàn.

Khi hai phe Hy Lạp đánh nhau nhiều năm, không ai làm gì được ai, Sparta đã liên hệ với kẻ thù không đội trời chung năm xưa là người Ba Tư, hy vọng mượn sức họ để đánh bại Athens. Thế lực Ba Tư nhân cơ hội này lại một lần nữa tiến vào khu vực Hy Lạp sau chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, khuấy động các phe phái nội bộ đấu đá kịch liệt và phức tạp hơn. Chính vì thế mà những kẻ cõng rắn cắn gà nhà vẫn bị muôn đời phỉ nhổ. Cuối cùng, dù Sparta thắng lợi như ý nguyện, nhưng không hề có được sự yên ổn thực sự. Các đàn em trước kia bắt đầu mơ mộng làm đại ca, các thành bang chủ chốt của Hy Lạp bắt đầu những vòng hỗn chiến mới. Điều này tạo cơ hội cho Vương quốc Macedonia ở vùng Thrace phía Bắc trỗi dậy.

Người Macedonia thông qua học tập, mô phỏng và vượt qua, đã phát minh ra "trận hình Macedonia" nổi tiếng đánh đâu thắng đó. Với sự xuất hiện của thiên tài quân sự Alexander Đại đế, cái kẻ mà người Hy Lạp từng coi là "nhà quê" này không chỉ quét sạch thế giới Hy Lạp, mà còn bành trướng ra bên ngoài không gì cản nổi. Ông không chỉ chinh phục toàn bộ Ba Tư mà còn vượt qua đèo Khyber đến lưu vực sông Hằng, suýt nữa thống nhất toàn bộ Ấn Độ. Trong quá trình chinh phục của Alexander, thành quả văn minh Hy Lạp theo chân quân đội Macedonia truyền bá đến các khu vực dọc đường, từ đó mở ra thời đại "Hy Lạp hóa" (Hellenistic) nổi tiếng trong lịch sử. Nó không chỉ ảnh hưởng sâu sắc về văn hóa đến hậu thế, mà còn chuẩn bị sẵn về văn hóa và chính trị cho người kế thừa xuất sắc của Hy Lạp là La Mã trong việc chinh phục và sáp nhập các khu vực này sau đó. La Mã sau khi kế thừa toàn bộ di sản của Hy Lạp đã trỗi dậy thành đại đế quốc "bá chủ Địa Trung Hải", ảnh hưởng đến thế giới tận ngày nay. Ngày nay chúng ta nghiên cứu phương Tây, mở miệng là nói Hy Lạp - La Mã, kết luận "Vinh quang thuộc về Hy Lạp, vĩ đại thuộc về La Mã", nếu truy ngược lên đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ Chiến tranh Peloponnese.

Chiến tranh Peloponnese cũng đặc biệt giống với Thế chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914.

Trong Thế chiến I, Anh và Đức lần lượt là đại ca của phe Hiệp ước và phe Liên minh. Không ai ngờ chiến tranh lại đánh lâu đến thế, hai bên đều tưởng chỉ là giao tranh cục bộ, điểm đến là dừng, ai cũng ảo tưởng kết thúc chiến tranh về nhà đón Giáng sinh, kết quả đánh một mạch 4 năm. Cũng không ai ngờ cuộc chiến này lại kéo giới hạn đạo đức của hai bên xuống thấp đến vậy. Súng máy Maxim, đại bác Krupp, xe tăng, khí độc và dây thép gai đã kéo cuộc chiến vào cuộc thi của tàn sát và sự chịu đựng. Mức độ tàn bạo trên chiến trường vượt qua bất kỳ cuộc chiến nào trước đó. Châu Âu sau chiến tranh không chỉ xác chết đầy đồng mà trật tự quốc tế cũng bị đánh cho thủng lỗ chỗ, thế giới mới từ đó bước lên sân khấu.

Chiến tranh Peloponnese cũng y hệt.

Hai bên từ xung đột cục bộ dần leo thang, cuối cùng diễn biến thành thảm họa chưa từng có của thế giới Hy Lạp. Đến cuối cùng, cả hai bên đều cắn răng chịu đựng, đều quên mất tại sao lúc đầu lại khai chiến, tự nhiên cũng chẳng ai nhớ đánh nhau rốt cuộc để đạt mục đích gì. Cuối cùng chỉ còn một mục đích: Bằng mọi giá giết chết đối phương, dù bản thân có vì thế mà tiêu tùng cũng không tiếc. Cả hai bên đều quên đi sơ tâm, vứt bỏ sứ mệnh, đương nhiên cũng chẳng có kết cục tốt đẹp nào. Athens bại trận, rút lui khỏi cuộc cạnh tranh cố nhiên là đáng tiếc; Sparta thắng trận, cũng chỉ là chiến thắng thảm hại với cái giá quá đắt, chẳng có gì đáng để ca ngợi. Văn minh Hy Lạp cũng theo cuộc chiến mà hạ màn.

Cuộc chiến này để lại quá nhiều chủ đề, tranh cãi, kinh nghiệm và bài học cho hậu thế, luôn là đề tài quan tâm và suy ngẫm của các văn nhân, học giả và lãnh tụ chính trị. Đến ngày nay, những nghiên cứu rút ra từ đoạn lịch sử này đã chuyển hóa thành nhiều bài học kinh doanh, chính trị, quân sự, văn hóa, triết học và các mô hình tư duy. Dù là quản trị nội bộ tổ chức hay đối phó với đối thủ bên ngoài, đều có thể tìm thấy kinh nghiệm và gợi ý từ trong đó.

Từ khi Donald Trump phát động thương chiến với Trung Quốc năm 2018, thế giới bắt đầu nói nhiều về cái gọi là "Bẫy Thucydides".

Quan điểm do giáo sư Graham Allison của Đại học Harvard đưa ra này đã trở thành một trong ba bài toán khó của quản trị chính trị thế giới (hai cái còn lại là Bẫy thu nhập trung bình và Bẫy Tacitus). Quan điểm này từ khi ra đời đã đi kèm với tranh cãi lớn. Nhưng phải thừa nhận, đây là chủ đề không thể né tránh giữa Trung Quốc và Mỹ hiện nay. Nhìn từ những mô tả của Thucydides về cuộc chiến này, chúng ta sống trong thời đại va chạm giữa hai cường quốc, vừa là may mắn vừa là bất hạnh. Chúng ta cũng có thể tìm thấy chút phương pháp tránh "lọt hố" qua việc phân tích và giải đọc Chiến tranh Peloponnese.

Có một nhận thức của "Bẫy Thucydides" đáng được khẳng định: Đó là thế lực trỗi dậy thách thức thế lực hiện tại sẽ khiến vị bá chủ cũ trong trật tự hiện hữu nảy sinh hoảng sợ, từ đó rủi ro xung đột sẽ tăng cao. Người có chút kiến thức lịch sử đều thừa nhận đây là sự thật. Graham Allison cũng đã nghiên cứu so sánh hơn mười lần chuyển giao quyền lãnh đạo giữa bá chủ mới và cũ có ghi chép trong lịch sử nhân loại mới đưa ra kết luận. Tuy nhiên, việc Allison từ đó đưa ra kết luận "Trung - Mỹ tất có một trận chiến tranh nóng" thì có vẻ quá võ đoán, điều này chỉ đúng nếu một trong hai nước không có nuke (tác phẩm liên quan của Allison tên là Destined for War - Định mệnh chiến tranh).

Viết về lịch sử Chiến tranh Peloponnese, tác phẩm tham khảo không thể bỏ qua chắc chắn là kiệt tác truyền đời "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" của Thucydides. Bộ sách này cùng với cuốn "Lịch sử" của Herodotus mà chúng ta đã nhắc nhiều lần trước đây được xưng tụng là hai đỉnh cao của lịch sử phương Tây.

Bộ sách này có 3 đặc điểm: Tính chuyên môn mạnh, tính văn học cao, sức ảnh hưởng lâu dài.

So với "Lịch sử", "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" giống một cuốn sử chuyên ngành hơn. Cảm giác rõ nhất khi đọc "Lịch sử" của Herodotus là nó giống một tập tản văn kể chuyện. Herodotus giống như đang ngồi chém gió với bạn trên bàn nhậu, kể cho bạn nghe về phong thổ nhân tình của Hy Lạp, Ai Cập, Lưỡng Hà 2700 năm trước như kể chuyện cổ tích. Đọc sách đó, đầu óc bạn vừa phải bay bổng vừa phải biết thu lại. Ví dụ trong chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, việc Cambyses chinh phục Ai Cập không phải nội dung cốt lõi, nhưng Herodotus dùng tới 1/9 dung lượng sách để miêu tả toàn cảnh Ai Cập từ trên xuống dưới, kể cả quy trình làm xác ướp của hoàng gia Ai Cập cũng viết ra. Đến mức "Lịch sử" không chỉ dùng để nghiên cứu chiến tranh mà còn dùng cho nghiên cứu nhân văn địa lý.

"Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" hoàn toàn không theo lối đó. Đọc bộ sách này, bạn sẽ thấy chủ đề cực kỳ xác định, tính logic và tính định hướng rất rõ ràng. Hoàn toàn theo trình tự thời gian, bắt đầu từ năm chiến tranh bùng nổ, mỗi năm xảy ra chuyện gì đều được ghi chép tường tận, không có chuyện "tán gẫu".

Nói về nguyên nhân, có lẽ liên quan đến xuất thân của Thucydides. Ông sinh ra trong danh gia vọng tộc ở Athens, hơn 30 tuổi đã được bầu làm một trong 10 tướng quân của Athens, tham gia nửa đầu cuộc chiến, chỉ huy nhiều trận đánh. Sau trận Amphipolis, ông bị bãi miễn, từ đó ghi chép lại toàn cảnh cuộc chiến dưới góc độ người quan sát khách quan. Gia thế tốt và sự nghiêm cẩn của người lính khiến khi viết tác phẩm này ông luôn nỗ lực để chủ đề rõ ràng, nghiêm túc khách quan. Mỗi chi tiết miêu tả đều được ông xác minh và trau chuốt từ nhiều phía, độ tin cậy cực cao, do đó là lựa chọn số một để nghiên cứu giai đoạn lịch sử này. Bản thân Thucydides nhờ tác phẩm này mà được vinh danh là "Thái sơn Bắc đẩu của sử học phương Tây", người duy nhất hậu thế có thể sánh ngang chỉ có đại sử gia Polybius thời Cộng hòa La Mã với tác phẩm "Thông sử".

"Lịch sử Chiến tranh Peloponnese" cũng có trình độ văn học rất cao. Đặc biệt là các bài diễn thuyết được thu lục trong sách cực kỳ xuất sắc, ảnh hưởng to lớn đến nhiều nhân vật phương Tây đời sau. Ví dụ bài "Diễn văn tang lễ" của Pericles đã ảnh hưởng sâu sắc đến "Diễn văn Gettysburg" của Tổng thống Mỹ Lincoln. Nếu mọi người phân tích kỹ và so sánh hai bài diễn văn, sẽ thấy bối cảnh gần giống nhau, cấu trúc tương tự, hương vị quen thuộc, chỉ có điều Pericles thì thao thao bất tuyệt còn Lincoln thì ngắn gọn súc tích mà thôi. Hay như Cicero - nhà hùng biện nổi tiếng nhất lịch sử phương Tây, các tác phẩm diễn thuyết lưu truyền của ông từ kỹ thuật tranh biện, tư duy lập luận, cách dùng từ đến cấu trúc hành văn đều có thể tìm thấy bóng dáng những bài diễn văn trong "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese".

Sở dĩ các bài diễn văn trong sách này trở thành kinh điển, một mặt là vì nội dung diễn thuyết thực sự đặc sắc, mặt khác là nhờ sự tu dưỡng sâu dày về sử học và văn học của chính Thucydides. Nhiều bài diễn văn đã thành văn trước khi Thucydides ra đời, qua nhiều năm lưu truyền, bản gốc phần lớn đã thất lạc. Thucydides không có cơ hội tiếp cận nguyên văn, hoặc là nghe hơi nồi chõ, hoặc là tìm thấy vài mảnh vụn trong các tài liệu khác nhau. Cái tài của Thucydides là ông thông qua nguồn tài nguyên hạn chế, tổng hợp bối cảnh lúc đó của người diễn thuyết, mục đích cần đạt được và tình cảnh đối mặt, thông qua khảo chứng và tưởng tượng, khôi phục lại nội dung diễn thuyết có khả năng nhất cho độc giả. Vừa phù hợp logic khách quan, văn phong lại trôi chảy đẹp đẽ, bày ra trước mắt độc giả bức tranh đặc sắc về đời sống chính trị thành bang Hy Lạp.

Một khía cạnh nữa, cách nhìn của Thucydides về cuộc chiến này đã ảnh hưởng đến thế giới phương Tây suốt 2000 năm. Ngày nay đa số mọi người Trung Quốc đều cho rằng phương Tây ngay từ đầu đã xác định dân chủ là một giá trị phải kiên trì, là một chuẩn mực không thể nghi ngờ. Thực ra không phải.

Khái niệm dân chủ từ xưa đến nay từng tồn tại như một thứ tai họa khủng khiếp ở phương Tây, ảnh hưởng người phương Tây mãi cho đến 200 năm gần đây mới có sự thay đổi.

Đúng vậy, bạn không nhìn nhầm đâu, người phương Tây mãi đến 200 năm trước vẫn cho rằng dân chủ là một chế độ tồi tệ đến cực điểm, chỉ đưa đất nước đến thảm họa. Vì vậy rất nhiều quốc gia phương Tây hoặc chọn quân chủ, hoặc chọn cộng hòa, ngược lại nhắc đến thể chế dân chủ thì tái mặt. Nguồn gốc của tất cả điều này đến từ sự phân tích và giải đọc của Thucydides về Chiến tranh Peloponnese. Ngày nay nhìn lại, do nguyên nhân xuất thân và lập trường, cộng thêm sự tham gia sâu và suy ngẫm về cuộc chiến, việc Thucydides đưa ra cái nhìn tiêu cực và phê bình nghiêm khắc với dân chủ cũng là hợp tình hợp lý. Tư tưởng của Thucydides ảnh hưởng sâu sắc đến Plato - vị hiền triết vĩ đại nhất lịch sử triết học phương Tây, kế đó ảnh hưởng đến Aristotle - người tập đại thành triết học Hy Lạp cổ đại, khiến cả hai ông đều giữ thái độ phê phán với thể chế dân chủ.

Nói cách khác, vì dân chủ trong Chiến tranh Peloponnese đã bộc lộ những điểm yếu quá tồi tệ, mang lại cảm giác rất không tốt, nên các nhà tư tưởng và chính trị gia phương Tây suốt 2000 năm luôn "kính nhi viễn chi" với dân chủ. Mãi đến cận đại, nhà tư tưởng Pháp Tocqueville và nhà tư tưởng Anh John Stuart Mill, lần lượt qua các tác phẩm "Nền dân chủ ở Mỹ" và "Chính thể đại diện", thông qua luận chứng cho mọi người thấy cái tốt của chế độ dân chủ. Đồng thời họ cũng chỉ ra các điều kiện tiên quyết và lưu ý khi thực hiện chế độ này, về mặt lý luận đã xoay chuyển hiểu lầm trong tư duy của mọi người về dân chủ.

Đến năm 1776 khi nước Mỹ lập quốc, nhóm tinh anh lập quốc lúc bấy giờ, thông qua việc soạn thảo "Tập bài viết của những người theo chủ nghĩa Liên bang" (The Federalist Papers), đã trình bày một cách hệ thống tại sao Mỹ nên chọn chế độ Liên bang. Nhân cơ hội này, thông qua thiết kế thể chế dân chủ đại nghị, từ phương diện thực tiễn đã xoay chuyển triệt để nhận thức của mọi người về dân chủ, thể chế dân chủ mới coi như chính thức thức tỉnh trong thế giới phương Tây.

Ngày nay nhìn lại, cuộc chiến này có mức độ đặc sắc vượt xa nhiều bộ phim bom tấn Mỹ. Tiến trình chiến tranh đầy trắc trở, tình tiết đầy thăng trầm và những cú "quay xe". Bạn có thể thấy sự giao lưu giữa hai nước lớn với đường lối, ý thức hệ khác nhau đã xuất hiện sai lệch và hiểu lầm như thế nào; có thể cảm nhận tình thế khó khăn trong nội bộ hai thành bang đã chi phối tiến trình và sự phát triển của chiến tranh ra sao; sự thay đổi của tình hình ngoại giao, thái độ của đồng minh sẽ ảnh hưởng thế nào đến cục diện nội bộ. Bạn có thể thấy nền chính trị dân chủ chưa trưởng thành sẽ mang lại tổn hại gì cho cá nhân và tổ chức; có thể thấy lợi ích của tập đoàn chính trị nội bộ lấn át lợi ích quốc gia ra sao, một số chính khách ích kỷ vì tư lợi mà đùa giỡn với dân ý thế nào; cũng có thể chứng kiến sự cuồng nhiệt của đám đông sẽ sinh ra những kẻ ô hợp ra sao.

Khi bạn xem hết tiến trình của cuộc chiến này này, bạn sẽ phát hiện nó tuyệt đối không chỉ đơn giản là chém giết, mà là sự tổn hại toàn diện đến giá trị nội tại của văn minh Hy Lạp. Khói lửa trên chiến trường không chỉ thiêu đốt thân xác tướng sĩ Hy Lạp, mà còn thiêu hủy những giá trị quan mà người Hy Lạp thừa nhận trong tim. Sự suy tàn toàn diện của văn minh Hy Lạp đã là không thể tránh khỏi. Những suy ngẫm và tìm tòi của con người sau này, dù là lý tưởng "Vua Triết gia" của Plato hay lý luận chính trị học của Aristotle, đều không thể cứu vãn vận mệnh suy tàn của Hy Lạp. Văn minh Hy Lạp biến thành một cái xác rỗng bị móc hết ruột gan, lặng lẽ chờ đợi vận mệnh bị thay thế.

Đó đều là di sản của Chiến tranh Peloponnese.

Đoạn lịch sử này rối rắm phức tạp, tài liệu rất nhiều, cơ bản đều là sách dày cộp, liên quan đến điển cố lịch sử, địa lý và văn hóa khá nhiều, nhìn thôi đã đau đầu. Ngoài các học giả lịch sử chuyên nghiệp, người bình thường đừng nói nghiên cứu, chỉ riêng việc nhớ hết tên mấy người này đã là gánh nặng khổng lồ (tên người Hy Lạp khó nhằn thế nào, mọi người có thể tìm lại danh sách đội tuyển bóng đá quốc gia Hy Lạp vô địch Euro năm 2004 là cảm nhận được ngay). Chưa kể đến tên các thành bang và địa danh nhiều như nấm sau mưa, đánh dấu hết lên bản đồ chắc khiến người ta không dám nhìn vì hội chứng trypophobia mất.

Cho nên bài viết này chỉ chọn cái trọng điểm để nói, nói cho ngắn gọn, nói cho nhẹ nhàng, tái hiện lại vở kịch lớn này một lần, cũng thuận tiện xem có đạo lý gì có thể nghiền ngẫm ra được hay không.
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
860
Động cơ
799,460 Mã lực
1765683200450.png


Phần 31: Chiến tranh Peloponnese - Ba đời ông cháu diễn một vở kịch

Kể từ năm 445 TCN, khi Sparta và Athens ký kết "Hòa ước Ba mươi năm", Sparta đã xác định rõ giới hạn lợi ích của mình, đồng thời ngoài mặt vẫn duy trì được vị thế "đại ca" của thế giới Hy Lạp, nên cũng không đi tìm Athens gây phiền phức. Athens có được địa vị siêu cường, thành lập liên minh của riêng mình, đồng thời cũng tuân thủ quy định của hòa ước, không khiêu khích đại ca nữa. Hai bên một người có cái danh, một người có cái lợi, nước sông không phạm nước giếng, thế giới Hy Lạp nhờ đó mà thái bình được khoảng mười năm.

Nhưng những ngày tháng êm đềm luôn ngắn ngủi.

Xưa nay, phàm là làm đại ca, nhất định sẽ có một nỗi phiền não: Làm sao quản cho tốt đám đàn em bên dưới. Bạn không gây chuyện không có nghĩa là đàn em không gây chuyện. Bạn trăm phương ngàn kế duy trì cục diện, nhưng đám đàn em này luôn biết cách mang đến cho bạn những ngạc nhiên nhớ đời vào những lúc không ngờ nhất.

Năm 432 TCN, sự ngạc nhiên ấy đã đến, đàn em của Sparta là nhà Corinth gặp chuyện.

Đó chính là sự kiện Epidamnus nổi tiếng.

Nói về toàn bộ quá trình sự kiện này, vì quan hệ phức tạp, tên lại khó nhớ, nên đọc lên nghe rất mệt. Nhưng thực ra rất đơn giản: Mọi người chỉ cần tưởng tượng tất cả những người tham gia sự kiện này là ba thế hệ trong một gia đình, và đây là một vở kịch đạo đức gia đình nảy sinh từ vấn đề khoảng cách thế hệ.

Nói đơn giản là: Ông nội và cháu trai liên thủ lại để xử ông bố.

Mọi người tưởng tượng xem, có một gia đình nọ, ông nội sinh được một người con trai, người con trai này cũng sinh được một đứa con trai, ba đời cùng sống dưới một mái nhà. Ai cũng biết tình huống này dễ nảy sinh khác biệt thế hệ, kịch bản thông thường là ông nội không quản được bố, bố không quản được con. Và do cùng có “kẻ thù” chung, ông nội và cháu trai thường lập thành mặt trận thống nhất để đối phó với ông bố ở giữa. Ông bố bị ép đến mức cuống lên sẽ nghĩ ra đủ chiêu trò phản chế, thế là xung đột luân lý gia đình nảy sinh.

Sự kiện Epidamnus chính là phiên bản cấp quốc gia của vở kịch luân lý này.

Trước đó chúng ta đã nói, văn minh Hy Lạp sau khi bước ra khỏi Kỷ nguyên Bóng tối, sự phồn vinh của nó đi kèm với hai làn sóng di dân thuộc địa ra hải ngoại. Rất nhiều thành bang Hy Lạp đều có kinh nghiệm đi xây dựng thuộc địa. Trong đó có Corinth, hơn nữa Corinth là thành bang gia nhập trào lưu di dân từ khá sớm. Corinth thiết lập rất nhiều thuộc địa ở hải ngoại, trong đó có một thành bang tên là Corcyra (một số tài liệu dịch là Corfu).

Corcyra là một đảo quốc nên có truyền thống thương mại rất mạnh (tài nguyên không đủ, không buôn bán thì không có cơm ăn). Thuyền buôn của họ quanh năm hoạt động trên các tuyến đường thương mại từ Aegean đến Địa Trung Hải. Dần dần Corcyra phát triển thành một thành bang giàu có. Có tiền rồi, Corcyra cũng tính chuyện đi mở rộng thuộc địa cho riêng mình, và thuộc địa mà Corcyra chọn chính là Epidamnus.

Chốt lại mối quan hệ: Corinth lập ra Corcyra, Corcyra lập ra Epidamnus.

Và nguyên nhân cũng như kết quả của vở kịch luân lý này tóm gọn là:

(1) Bối cảnh
Có câu cha mẹ sinh con trời sinh tính, đừng thấy Corcyra do Corinth lập ra mà nhầm, Corcyra chẳng có chút ý định tôn trọng nào đối với Corinth cả. Lời Corinth nói lọt vào tai Corcyra cũng chỉ như gió thoảng mây bay. Và cái gia đình này quả đúng là ba đời một nết, thằng cháu Epidamnus cũng học theo y hệt, coi ông bô Corcyra chẳng ra gì, hoàn toàn không để mắt đến "mẫu quốc". Cứ thế, ba thành bang làm tổn thương lẫn nhau, chẳng ai coi ai ra gì.

Ví dụ điển hình nhất là ông nội Corinth gia nhập Liên minh Peloponnese do Sparta đứng đầu, trong khi hai cha con Corcyra và Epidamnus lại không gia nhập, đúng là chẳng nể mặt ông cụ chút nào.

Tại sao lại như vậy? Điều này phải nói đến vấn đề kỹ thuật cai trị.

Ngày nay, nhận thức của chúng ta về cai trị thuộc địa thường là hình ảnh thực dân bóc lột tàn khốc, nô dịch ép uổng người dân thuộc địa. Nói thế đương nhiên không sai, nhưng cần phân biệt về thời gian. Những áp bức mà các nước thuộc địa phải chịu đựng đều bắt đầu từ sau Thời đại Đại hàng hải. Khi đó, kỹ thuật cai trị của nhân loại đã phát triển đến mức cho phép kẻ thực dân thiết lập hệ thống cai trị vững chắc ngay cả ở những vùng đất xa xôi, từ đó bóc lột sâu hơn.

Ví dụ như kỹ thuật giao thông, tàu hỏa và tàu thủy hơi nước giúp kẻ thực dân đi lại nhanh hơn giữa mẫu quốc và thuộc địa; điện thoại, điện báo giúp kẻ chinh phục từ bản quốc có thể điều khiển từ xa các công việc lớn nhỏ của thuộc địa; kỹ thuật quân sự phát triển cho phép kẻ thực dân sở hữu ưu thế bạo lực không cân xứng, dùng ít người cai trị được nhiều người. Hàng loạt thủ đoạn kỹ thuật này giúp thiết lập hệ thống áp bức thực dân chặt chẽ, ổn định, nắm quyền sinh sát trong tay.

Nhưng ở thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ 8 TCN, những kỹ thuật và thủ đoạn cai trị này chưa xuất hiện. Khi người khai hoang đến một vùng đất mới lập thành phố mới, hoặc là vì kỹ thuật không theo kịp, hoặc chi phí cai trị quá cao, mẫu quốc (thành bang mẹ) thường là lực bất tòng tâm, chỉ có thể mặt kệ cho người khai hoang tự sinh tự diệt ở địa phương. Vì thế mẫu quốc buộc phải trao quyền tự chủ rất lớn cho thuộc địa. Lâu dần, khi các thành bang này phát triển lên, quan hệ với mẫu quốc không còn mật thiết nữa. Lúc này mẫu quốc muốn kiểm soát triệt để và bóc lột thuộc địa thì khó như lên trời. Điều này tạo nên hiện tượng đặc thù của phong trào thuộc địa Hy Lạp: Thuộc địa và mẫu quốc không phải quan hệ chủ tớ, mà giống như họ hàng xa, cuộc sống của thuộc địa không đến mức khổ cực.

Nói cách khác, không phải người khai hoang Hy Lạp tốt bụng, mà là do điều kiện khách quan lúc đó không cho phép họ làm những việc tàn ác kia thôi.

Dưới sự dẫn dắt của logic này, hiện tượng đời trước không quản được đời sau xuất hiện. Corinth là mẫu quốc của Corcyra, nhưng Corcyra giữ khoảng cách rất lớn với Corinth. Tương tự, khi Epidamnus dần dần định hình, quyền tiếng nói của Corcyra đối với Epidamnus cũng nhỏ bé vô cùng.

(2) Nguyên nhân
Nói rõ mối quan hệ vi diệu của ba đời ông cháu này rồi, chuyện tiếp theo sẽ dễ hiểu hơn.

Phàm là một thành bang, luôn có các phe phái, và các phe phái này kiểu gì cũng đánh nhau. Epidamnus không ngoại lệ. Nội bộ Epidamnus cũng tồn tại hai phe lớn: Phe Dân chủ và Phe Độc tài. Nghe tên hai phe này là biết mâu thuẫn giữa họ cũng giống như quan hệ giữa Athens và Sparta vậy, không thể nào tốt đẹp được. Hai bên ngoài mặt hòa khí, sau lưng thì chửi bới tổ tông nhau cả ngày. Mâu thuẫn tích tụ lâu ngày ắt sẽ bùng nổ. Năm 436 TCN, hai phe cuối cùng cũng lao vào đánh nhau, kết quả phe Dân chủ thắng, phe Độc tài thua.

Nhưng phe Độc tài không cam tâm, tập hợp một đám người vác vũ khí bao vây thành phố, thề đoạt lại quyền kiểm soát. Điều này khiến phe Dân chủ trong thành vô cùng căng thẳng. Epidamnus vốn định cầu cứu ông bố Corcyra, nhưng vì bình thường quan hệ căng thẳng quá, ông bố thấy đứa con gặp rắc rối thì chỉ kéo ghế ngồi xem, thấy chết không cứu. Epidamnus bị ép vào đường cùng, dứt khoát vượt mặt bố, tìm thẳng đến ông nội Corinth.

Bạn nào đã đọc các phần trước chắc chắn ấn tượng với Corinth. Thành bang này là một hiện tượng lạ trong thế giới Hy Lạp: Chơi gì cũng ngu, chỉ chơi ngu là giỏi. Phàm là quốc gia hay cá nhân kiểu này, thường có một sự tự tin thần kỳ về bản thân, luôn cảm thấy bố mày vô địch thiên hạ, nhưng khi gặp chuyện thì hiện nguyên hình trong một nốt nhạc. Chuyện gì cũng muốn chõ mũi vào, nhưng đi đâu cũng chỉ là vai phụ. Đã thế lại còn tự cảm thấy bản thân rất tốt đẹp, luôn nghĩ mình năng lực xuất chúng, mị lực siêu phàm, người khác phải xun xoe nịnh bợ mình, cho đến khi bị thực tế vả cho sưng mặt, túm tóc tạt tai tát tới tấp luôn.

Ưu điểm duy nhất có thể gọi tên là tâm lý cực vững, dù lần nào cũng bị đánh cho rơi răng đầy đất, bò dậy vẫn là một hảo hán, lần sau lại tiếp tục gây chuyện, lại bị người ta chà đạp tiếp.

Corinth là nhân vật số 2 trong Liên minh Peloponnese, đại ca Sparta rất khách khí với hắn. Nhưng địa vị cao của Corinth không phải vì hắn giỏi giang gì, mà vì Sparta khó xử.

Đa số thành viên trong Liên minh Peloponnese là các thành bang lục địa, không có hải quân. Corinth là kẻ duy nhất trong đám vịt cạn này sở hữu hải quân. Nên Sparta coi trọng Corinth chỉ vì nhất thời không tìm được ai thay thế nên đành dùng tạm thôi. Sparta là thành bang cực kỳ coi trọng năng lực quân sự, mà sức chiến đấu của Corinth thì hài hước y như đội tuyển bóng đá nam Trung Quốc vậy. Với trình độ đó, Sparta làm sao mà coi trọng thực sự cho được?

Nhưng Corinth lại tự cảm thấy mình rất ổn, luôn nghĩ địa vị mình đặc biệt, đại ca coi trọng là do mình ưu tú, bình thường rất thích chỉ tay năm ngón với các thành bang khác. Mọi người thử nghĩ xem, một tính cách như thế sẽ có thái độ gì với đứa con Corcyra do mình lập ra?

Tao là bố mày, tao là bố mày, tao là bố mày!

Nhưng Corcyra đếch quan tâm đến ông bố này.

Vì thực lực của Corcyra không tồi.

Nhìn trên bản đồ, Corcyra nằm ở vùng khá rìa của thế giới Hy Lạp, vị trí địa lý khiến sự hiện diện của Corcyra không mạnh. Do đó cũng không bị Athens hay Sparta chú ý, và tất nhiên anh ta cũng chẳng gia nhập phe nào. Chính nhờ hai đại ca không ai gây phiền phức, Corcyra yên tâm làm ăn. Thuyền buôn Corcyra đi khắp nơi, nhanh chóng tích lũy tài sản khổng lồ, giống như kiểu lẳng lặng phát đại tài, sướng vô cùng. Do kinh doanh trên biển cần duy trì hải quân mạnh để bảo vệ, qua nhiều năm, Corcyra tích lũy được một hạm đội hải quân không thể xem thường, số lượng tàu chiến còn vượt qua cả Corinth, chỉ đứng sau bá chủ biển cả Athens.

Vì vậy, nhà giàu mới nổi Corcyra đối đãi với ông bố Corinth rất đơn giản: Biến!

Thế là hai thành bang này không thèm nhìn mặt nhau, như bao cặp cha con khắc khẩu khác. Bị con trai coi thường, ông bố đương nhiên mất mặt, huống hồ là kẻ ảo tưởng sức mạnh như Corinth. Quan hệ hai bên cực kỳ căng thẳng, chửi nhau, đâm sau lưng nhau chưa bao giờ dứt.

Corinth nằm mơ cũng muốn tìm cơ hội dạy dỗ thằng con ngỗ nghịch này. Giờ thấy thằng cháu đích tôn cầu cứu, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, vui mừng khôn xiết. Không những tiếp đón nhiệt tình, mà còn sảng khoái đồng ý xuất quân ngay. Nói là làm, lập tức phát binh tiến về Epidamnus, lại còn tổ chức người dân Corinth chuẩn bị di cư quy mô lớn đến đó, ra vẻ như muốn thu nạp trực tiếp, rõ ràng là cố tình chọc tức Corcyra.

Quả nhiên, Corcyra nghe tin Corinth can thiệp vào Epidamnus thì nổi giậm đập bàn: Ông già kia có ý gì? Con trai tôi tôi quản, ông xía vào làm gì!

Corcyra lập tức phái đặc sứ đến giao thiệp với Corinth. Đương nhiên, kết quả dùng ngón chân cũng đoán được: Biến!

Corinth vốn đang định mượn chuyện này để can thiệp, thậm chí kiểm soát Corcyra, mày càng nhảy dựng lên tao càng thích.

Thế là, võ mồm không giải quyết được vấn đề, Corcyra bị ép phải động thủ. Corcyra phái tàu chiến bao vây Epidamnus, định đánh chiếm xong xuôi nhân lúc đại quân Corinth chưa đến, cắt đứt cơ hội của Corinth.

Người Corinth thấy thế càng bực: Mày ngon nhỉ? Có mỗi mày có hải quân à? Coi hải quân Corinth tao là vô dụng hả?

Nói đúng rồi đấy, chính là vô dụng!

Corinth phái 70 tàu chiến tiến về Epidamnus, định cho Corcyra thấy thế nào là sự cường đại của mẫu quốc. Kết quả đi được nửa đường, gặp hạm đội tuần tra của Corcyra. Hai bên chạm mặt, lao vào hỗn chiến. Corinth không hổ danh là tuyển bóng đá nam Trung Quốc của thế giới Hy Lạp cổ đại, trong tình thế quân lực chiếm ưu thế, Corinth lại bị tiêu diệt toàn quân. Toàn bộ 70 tàu chiến không bị đánh chìm thì cũng bị bắt sống.

Phong độ cực kì ổn định!

Hạm đội Corinth bị đánh bại, Epidamnus mất viện binh đương nhiên hết hy vọng, đối mặt với đại quân Corcyra chỉ còn nước mở cổng đầu hàng. Thế là, Corcyra vốn định mặc kệ, ngồi cắn hạt dưa, lại nhờ thế mà kiểm soát được đứa con Epidamnus vốn không nghe lời.

Nếu là người bình thường, câu chuyện đến đây là êm rồi. Nhưng Corinth sao có thể cư xử như người bình thường?

Sau khi bị Corcyra tẩn cho một trận, Corinth bắt đầu chơi bài ngoại giao, kích động các đàn em khác trong Liên minh Peloponnese cùng đến đánh hội đồng, hi vọng dùng cách đánh bầy đàn để vớt vát lại thể diện đã mất.

Mọi người nếu xem phim xã hội đen, sẽ thấy kịch bản kinh điển: "Có giỏi đừng chạy, tao đi gọi người". Phàm kẻ nào nói câu đó đều là lưu manh vặt. Lưu manh xịn tuyệt đối không nói thế, vì lưu manh xịn hoặc là tự tay đánh cho tàn phế, hoặc chỉ huy đàn em chôn sống luôn, không cần nói nhảm. Cách làm của Corinth chính là bộ mặt điển hình của lưu manh vặt, không có thực lực cũng không có đàn em ruột, chỉ có thể chạy đi gọi hội.

Làm người phải biết mình là ai chứ.

Nhưng Corinth không biết, vẫn kích động lôi kéo suốt 2 năm trời, làm ra động tĩnh rất lớn. Corcyra thấy áp lực như núi, dù sao mãnh hổ nan địch quần hồ, nếu để Corinth kéo hội đến đánh thật, Corcyra chắc chắn không đỡ được bao lâu. Huống hồ Epidamnus vừa bị chiếm đóng, thấy Corinth hùng hổ như vậy cũng bắt đầu rục rịch làm phản. Nếu thật sự động thủ, Corcyra thù trong giặc ngoài, chắc chắn sẽ thua.

Ông bố Corcyra bị ông nội và đứa con trai liên thủ ép vào chân tường. Nếu là bạn, đến mức độ này, bạn sẽ nghĩ ra đối sách gì?

Ngoại viện.

Corcyra rõ ràng không muốn cam chịu. Nhưng muốn tìm ngoại viện, thế giới Hy Lạp chỉ có hai nhóm: Liên minh Peloponnese và Liên minh Delian. Nhóm trước chính là kẻ đang muốn xử bạn, Corinth là nhị sư huynh của Peloponnese cơ ma, vậy là Corcyra chỉ có một lựa chọn: Liên minh Delian.

Corcyra phái người đến Athens. Động tác này không phải chuyện đùa, vì tính chất của toàn bộ sự kiện đã thay đổi.

Câu chuyện kể đến giờ, xét riêng về sự kiện Epidamnus, chẳng qua chỉ là vở kịch máu chó giữa Corinth và thuộc địa của hắn mà thôi. Dù cho ông, cha, con có quậy thế nào thì đó cũng là mâu thuẫn gia đình, nói toạc ra là xung đột cục bộ ở vùng biên viễn xa xôi. Người tham gia xung đột không phải là những tay chơi cốt lõi của thế giới Hy Lạp, cường độ xung đột cũng chưa đến mức nghiêm trọng. Nên nhiều sách sử phương Tây định nghĩa sự kiện Epidamnus là "cuộc cãi vã ở phương xa".

Nếu xử lý thỏa đáng, "cuộc cãi vã ở phương xa" này cuối cùng cũng chỉ là bọt nước nhỏ trong dòng sông lịch sử, không gây ra sóng gió lớn. Nhưng xui xẻo thay trong đó lại có Corinth, Corinth không những không hòa giải mà còn đi chọc ngoáy khắp nơi, chỉ sợ thiên hạ không loạn, cuối cùng ép Corcyra phải tìm ngoại viện. Và vì anh ta không còn lựa chọn nào khác ngoài chọn Athens, động tác này đã trực tiếp đẩy sự kiện Epidamnus nâng cấp lên mức đại chiến.

Bởi vì một khi Athens can thiệp, Sparta liệu có ngồi yên? Mà một khi Sparta cũng tham gia, thì đây không còn là xung đột cục bộ vùng biên nữa, mà là hai đại cường quốc trực tiếp đối đầu. Như vậy, tính chất sự kiện hoàn toàn thay đổi. Kịch bản diễn tiếp thế nào không còn do Corinth quyết định nữa, vì diễn viên chính và đạo diễn đều đã đổi người.

Nói cách khác, một loạt thao tác của Corinth vốn là do ăn no rửng mỡ thích làm màu, nhưng làm màu là một môn nghệ thuật, Corinth học nghệ không tinh nên chơi dại. Để vớt vát thể diện, hắn càng làm màu tợn hơn, vừa tự biến mình thành kẻ ngốc, vừa biến một vấn đề nhỏ thành vấn đề lớn, cuối cùng lôi cả hai trùm lưu manh của thế giới Hy Lạp xuống nước. Thế giới Hy Lạp từ đó bắt đầu cuộc chiến tranh dai dẳng, con đường xuống dốc đã không thể tránh khỏi.

Từ góc độ này, nói Corinth là "cục phân chuột trong nồi canh Hy Lạp" quả thực không oan uổng chút nào.

Và thế là, hai đại lưu manh từ sau cánh gà lần lượt bước ra sân khấu, đại chiến sắp sửa bùng nổ.
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,997
Động cơ
400,080 Mã lực
Thế hóa ra bọn Judae này ngoài việc bán Chúa còn làm được nhiều việc có ích đấy chứ nhỉ giáo sư? Mà sao bọn này lại đi khắp nơi sang đến cả TQ như hôm nọ giáo sư kể, là thế nào nhỉ? Giáo sư hôm nào mát giời xin kể một đoạn kỹ hơn về bọn này xem sao? Mời giáo sư xem clip operarock mô tả tên Judah bán Chúa. Xạ thu =))

Bộ tộc (dân tộc) ma giáo Judae này có một môn gọi là "Càn khôn đại nã di", hoặc gọi tên khác là "Hấp tinh đại pháp". Mỗi khi thi triển môn "hấp tinh đại pháp" với một dân tộc - bộ tộc. "Ttinh khí" sức lực của dân tộc đó, tài nguyên, niềm tin, sức khỏe .... của tộc - bộ lạc đó kiệt quệ, rất khó để phục hồi sinh lực.

Các trường hợp "hấp tinh" phổ biến :
- tộc Hy lạp : Sparta - Athens - Thebes
- tộc La Mã : Roma, Frank, Gothics,...
- tộc Mông Cổ : sau đại phá hoành tá tràng hơn 100 năm, thì TQ, gấu Nga vui thì đá cho cái, buồn bẹo tai tạt đầu cho cái.
- Tộc Ấn Độ : Magada, Parkistan, Afghanistan, Kazastan ...
- tộc Hung Nô : Khiết Đan, Duy ngô nhĩ, Tây Tạng, Kim, ....

Nói vui thì mỗi khi uống rượu của người Ju' da` thì đang say men thắng "bố mày chẳng sợ sợ ai!" Đến lúc hết rượu, hết men say khi người Judah rút củi đáy nồi thì : "ai bố mày cũng sợ !",
 

losedow

Xe buýt
Biển số
OF-822088
Ngày cấp bằng
6/11/22
Số km
860
Động cơ
799,460 Mã lực
1765758196767.png


Phần 32: Chiến tranh Peloponnese - Những nước cờ ngáo ngơ của Athens (1)

Phần trước chúng ta đã nói cha con ông cháu nhà Corinth đấm lẫn nhau, Corcyra bị dồn vào đường cùng, phải cầu cạnh Athens.

Năm 432 TCN, phái đoàn của Corcyra đến Athens.

Sứ giả của Corinth cũng ngay lập tức phi ngựa đuổi theo.

Corinth dù có điên khùng cỡ nào thì cũng biết sự lợi hại của Athens. Nếu Athens đứng về phía Corcyra thì công sức chuẩn bị chiến tranh suốt hai năm qua của Corinth coi như đổ sông đổ bể. Vì vậy, lần này phái đoàn Corinth bám sát gót Corcyra, mục đích cũng là để tranh thủ sự ủng hộ của Athens.

Pericles đích thân ra mặt, tiếp đón hai thành bang với nghi thức cấp cao, nhiệt tình, chu đáo, lịch sự mà vẫn giữ được uy nghiêm, đúng phong thái lãnh đạo nước lớn. Tuy nhiên, sứ giả hai bên nhìn vào khuôn mặt nồng hậu của Pericles nhưng lại cảm thấy rõ ràng một khoảng cách. Vị nhân vật làm mưa làm gió cầm quyền Athens suốt 30 năm này, bản lĩnh chính trị đã đạt đến mức lô hỏa thuần thanh, người của hai thành bang nhìn vào lời nói hành vi của ông ta hoàn toàn không thể đoán được suy nghĩ thực sự trong lòng con cáo già này là gì.

Pericles nói với sứ giả hai bên rằng, Athens hiện đã thực hiện chế độ dân chủ toàn dân triệt để, bất kỳ quyết sách nào của Athens cũng đều phải thông qua Đại hội Công dân bỏ phiếu mới quyết định được. Nếu muốn có được sự ủng hộ của Athens, phải công khai trình bày chủ trương của thành bang mình tại Đại hội Công dân, đồng thời còn phải tranh luận, ai thuyết phục được công dân Athens hơn, người đó sẽ thắng.

Nói thì là vậy, nhưng như chúng ta đã biết, Pericles đã liên tục đắc cử lãnh đạo tối cao Athens suốt 30 năm, thâm niên, uy vọng và thành tích chính trị khiến uy tín của ông lúc này là vô đối, đứng đầu quần hùng. Vì vậy, thực tế nhiều năm qua Athens thực hiện chế độ cai trị "bề ngoài dân chủ, thực chất độc tài". Chuyện lớn chuyện nhỏ ở Athens nếu không có cái gật đầu của Pericles thì không xong được. Thay vì nói phải giành được sự ủng hộ của toàn thể công dân Athens, chi bằng nói là tập trung hỏa lực thuyết phục Pericles thì đúng hơn.

Cả Corcyra và Corinth đều hiểu điều này, và đều đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng.

Đó chính là cuộc tranh luận nổi tiếng tại Athens.

Trong "Lịch sử Chiến tranh Peloponnese", Thucydides đã dùng rất nhiều giấy mực để miêu tả toàn bộ quá trình tranh luận này, bao gồm cả việc chép lại toàn văn bài diễn thuyết của hai bên, cũng như từng chi tiết bên tung bên hứng, ăn miếng trả miếng trong tranh luận, cảnh tượng miêu tả đặc sắc vô cùng.

Phải nói rằng trình độ diễn thuyết của hai bên rất cao, đẳng cấp tranh luận đều thuộc hàng cao thủ thượng thừa, nhưng cuối cùng Corcyra là người thắng.

Bài diễn thuyết của Corcyra có thể gói gọn trong một câu: Tôi có hải quân.

Như đã nói ở phần trước, vị trí địa lý độc đáo và chiến lược sinh tồn của Corcyra đã biến họ thành cường quốc quân sự trên biển chỉ đứng sau Athens trong thế giới Hy Lạp. Hải quân thường trực của Corcyra có 120 tàu chiến, nhiều hơn cả Corinth. Corcyra nắm lấy điểm này và tính cho Athens một bài toán: Liên minh Peloponnese do Sparta lãnh đạo toàn là một đám "vịt cạn", kẻ duy nhất có hải quân là Corinth, nhưng thực lực hải quân của Corinth không thể so bì với Athens. Thế nhưng, nếu lần này vì tranh chấp mà để Corinth nhân cơ hội thôn tính luôn Corcyra, thì tiếp theo thực lực hải quân của Liên minh Peloponnese sẽ tăng lên đáng kể, khi đó vị trí bá chủ biển cả của Athens e rằng sẽ gặp rắc rối. Ngược lại, nếu lần này Athens chấp nhận lời cầu viện của Corcyra, thì 120 tàu chiến của Corcyra có thể chiến đấu cho Athens, ưu thế trên biển của Liên minh Delian do Athens lãnh đạo sẽ càng thêm vững chắc không thể lay chuyển.

Logic trong lời nói này của Corcyra rất đơn giản, nhưng sức sát thương cực lớn, chọc thẳng vào dây thần kinh nhạy cảm nhất của Athens.

Bởi vì hải quân là cái gốc lập quốc của Athens.

Lục quân Athens tuy mạnh, nhưng so với Sparta vẫn còn khoảng cách, điểm tựa thực sự giúp Athens đứng vững là sức mạnh hải quân vô song. Số lượng tàu chiến thường trực của Athens là 200 chiếc, đây là quốc sách được định ra từ thời anh cả Themistocles, vì vậy duy trì ưu thế hải quân là trọng tâm của mọi trọng tâm trong công việc của Athens. Bây giờ Corinth có khoảng 100 tàu chiến, nếu Corcyra bị Liên minh Peloponnese của Sparta thu nạp, nghĩa là số lượng chiến hạm mà Sparta có thể kiểm soát sẽ ngang ngửa với Athens. Một khi cục diện này hình thành, Athens sẽ phải đối mặt với áp lực khổng lồ từ Sparta trên cả biển và đất liền, địa vị siêu cường của Athens sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Sự thay đổi cán cân lực lượng này, chỉ cần đầu óc còn hoạt động, ai cũng biết phải tính toán thế nào.

Những lời này đã làm lay động Pericles. Và kết quả cuộc bỏ phiếu cuối cùng không khó đoán:

Athens bỏ phiếu thông qua, chấp nhận lời cầu viện của Corcyra.

Corinth thua trắng.

Việc Athens ngả về phía Corcyra, nói một cách khách quan là điều tất yếu. Câu chuyện phát triển đến đây, phải nói rằng đầu óc của Pericles vẫn còn tỉnh táo, quyết sách là lý trí.

Nhưng hiện thực tàn khốc thường nằm ở chỗ, một người dù hiểu rõ đạo lý, nhưng lại không biết cách làm.

Athens là một ví dụ tuyệt vời. Sau khi đưa ra quyết sách chiến lược đúng đắn, màn thể hiện của Athens trong một loạt các thao tác cụ thể tiếp theo quả thực là... nát như tương bần.

Nếu hỏi tệ đến mức nào, có thể hình dung đơn giản là: Liên tiếp 4 nước cờ ngu ngốc.

Nước cờ ngu ngốc 1: Tự triệt đường lui - Kết đồng minh với Corcyra

Sau khi Corinth bị loại cuộc chơi, Corcyra nhận được sự ủng hộ mong muốn. Ngay sau đó, Pericles tuyên bố tại Đại hội Công dân: Kết thành quan hệ đồng minh với Corcyra. Từ nay về sau, Corcyra chính thức trở thành đàn em của Athens, Corcyra coi như đã tìm được tổ chức.

Quyết định này thiếu suy nghĩ!

Bạn có thể sẽ hỏi, Athens chọn liên kết với Corcyra chẳng phải là kết quả tất yếu sao, vậy Athens kết đồng minh với Corcyra thì có vấn đề gì?

Đương nhiên là có vấn đề, bởi vì "bắt tay" và "kết đồng minh" là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Cũng giống như "lên giường" và "kết hôn" vậy.

Nam nữ qua lại, nếu chỉ là "lên giường", dù tình cảm có tốt đến mức nào thì cũng chỉ là chuyện tình chàng ý thiếp. Lỡ một ngày trở mặt, bất cứ lúc nào cũng có thể vẫy tay bai bai chúc em hạnh phúc, pháp luật không quản được. Nhưng một khi đã kết hôn, tính chất liền hoàn toàn khác, quan hệ giữa hai người sẽ do Luật Hôn nhân quản lý. Điều này có nghĩa là quan hệ của hai bạn vừa liên quan đến đạo đức luân lý, vừa phải chịu sự ràng buộc của pháp luật, các bạn đã thiết lập một mối quan hệ khế ước, đương nhiên cũng không thể tùy hứng muốn làm gì thì làm. Muốn chia tay cũng không phải kéo quần lên là đi được, thủ tục phải làm, giấy tờ phải ký, động tác phải thực hiện không được thiếu cái nào, chưa ký xong mà muốn thoát thân à, không có cửa đâu. Giờ thì bạn đã hiểu tại sao Ukraine nằng nặc đòi gia nhập NATO rồi chứ?

Hiểu rõ sự khác biệt này rồi, quay lại xem tại sao nói Athens kết đồng minh với Corcyra là thiếu suy nghĩ.

"Liên kết" giống như "lên giường", là dựa trên cơ sở tin cậy và cùng có lợi giữa hai quốc gia để thiết lập hợp tác, đây là sự ăn ý ngầm hiểu với nhau, chỉ làm không nói, không có sự ràng buộc giấy trắng mực đen; "Kết đồng minh" chính là "vào động phòng", là ký hợp đồng văn bản, hai bên đều lăn tay điểm chỉ, ràng buộc cứng rắn. Tương đương với việc Athens dùng kiệu tám người khiêng rước Corcyra về dinh, mở tiệc mời khách bố cáo thiên hạ.

Người thường đều cho rằng, kết đồng minh vững chắc hơn, dù sao giấy trắng mực đen cũng đáng tin hơn nói miệng. Nói thế cố nhiên không sai, nhưng cũng phải thấy rằng, hạn chế của việc kết đồng minh cũng nhiều hơn, trách nhiệm phải gánh vác nặng hơn. Quyền lợi và nghĩa vụ của đồng minh đều được quy định rõ, bạn muốn kết đồng minh thì những trách nhiệm này không thể không nghiêm túc thực hiện, và đôi khi kết đồng minh sẽ khiến bạn thân bất do kỷ.

Ví dụ điển hình nhất là Đức thời Thế chiến II. Anh họa sĩ lúc đó đang khô máu với Lô Xiên, sợ nhất là Mỹ đâm một nhát sau lưng khiến mình lưỡng đầu thọ địch, vì vậy anh cực kỳ cẩn thận về ngoại giao, dốc toàn lực tránh đắc tội với Mỹ. Kết quả là ăn quả đắng của “đồng minh” Nhật Bản. Năm 1941 quân Nhật tập kích Trân Châu Cảng, chọc giận Mỹ tuyên chiến với Nhật. Do Đức và Nhật Bản có quan hệ đồng minh, theo nghĩa vụ đồng minh, Đức cũng bắt buộc phải tuyên chiến với Mỹ. Anh họa sĩ cứ thế mơ mơ hồ hồ rơi vào tình cảnh phải tác chiến trên cả hai mặt trận. Tất nhiên khi chiến cuộc đã gần ngã ngũ thì kiểu gì Mỹ cũng nhảy vào thôi, nhưng Nhật đã cho Mỹ một cái cớ chính đáng.

Thế nên bạn thấy đấy, một khi đã ký khế ước lập liên minh, quyền lợi của bạn cố nhiên được bảo đảm, nhưng nghĩa vụ cũng là cứng nhắc, không thể đảo ngược. Cái gọi là có được có mất, bạn có được sự đảm bảo bằng văn bản thì cũng phải trả cái giá tương ứng. Ngược lại, nếu hai bên hình thành sự ăn ý, tin tưởng lẫn nhau, thương lượng phương án cùng tiến cùng lui, vừa đạt được mục đích, lại không bị những điều khoản đồng minh trói buộc chân tay, rõ ràng chi phí nhỏ hơn nhiều, cũng linh hoạt hơn nhiều.

Cho nên thông thường mà nói, nếu chưa đến mức vạn bất đắc dĩ hoặc lợi lớn hơn hại rất nhiều, thì đừng dễ dàng kết đồng minh. Như NATO ấy, hỗ trợ Ukraine kiểu gì cũng được, nhưng cho gia nhập à? Còn khuya nhé.

Mang góc nhìn này soi vào Athens, bạn sẽ thấy Athens còn lâu mới đến mức nhất định phải "kết đồng minh". Athens nếu lo lắng hải quân Corcyra bị đối phương thu nạp, thì anh chỉ cần hành động nghiêng về phía nó là được, việc gì phải kết đồng minh? Một khi kết đồng minh, anh coi như công khai tuyên bố "không đội trời chung" với Corinth, cũng đồng nghĩa với việc phát ra tín hiệu thù địch với ông trùm đứng sau Corinth là Sparta. Một khi Sparta ra mặt can thiệp hoặc có biện pháp đáp trả gay gắt, Athens sẽ không còn dư địa.

Nói cách khác, Athens dùng minh ước giấy trắng mực đen để lôi kéo Corcyra, tương đương với việc trực tiếp đóng sầm cánh cửa hòa giải với Corinth, đồng thời kích hoạt rủi ro đối đầu trực diện với Sparta. Về mặt chính trị và ngoại giao, đây là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng, rõ ràng là lợi bất cập hại.

Và ngay sau đó, Pericles tung ra nước cờ ngu ngốc thứ hai.

Nước cờ ngu ngốc 2: Dục tốc bất đạt - Xuất binh đến Corcyra

Đã ký minh ước rồi, Pericles đương nhiên cho rằng, phải làm tròn chút nghĩa vụ của đại ca, đàn em bị bắt nạt, mình phải đứng ra bảo kê.

Nghĩ thế đương nhiên không sai, nhưng vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ: Cách đứng ra bảo kê có rất nhiều loại, mỗi cách có lợi hại riêng, vì vậy việc lựa chọn phương pháp là cả một nghệ thuật.

Vậy Athens đã chọn cách nào?

Rất tiếc, Athens chọn một cách đơn giản thô bạo nhất: Trực tiếp xuất binh.

Athens phái 10 tàu chiến hộ tống Corcyra trở về. Giữa đường họ chạm trán với hạm đội của Corinth tại một nơi gọi là quần đảo Sybota. Corcyra nghĩ: "Có Athens bảo kê, thằng Corinth này còn không liệu hồn, mau tránh đường cho bố". Corinth thì nghĩ: "Thằng khốn nạn nhà mày lại đi liên kết với người ngoài đánh người nhà, đúng là đồ ăn cây táo rào cây sung". Lúc đó hai bên đều đang nóng máu, chẳng nói năng gì được nữa, trực tiếp xắn tay áo lao vào bem nhau tại vùng biển này, sử gọi là "Trận chiến Sybota".

Diễn biến trận Sybota rất cẩu huyết. Nói đơn giản là, nửa đầu trận chiến Corinth chiếm hết ưu thế, ép hạm đội liên quân Corcyra và Athens lui dần, hạm đội Corinth đuổi đến tận ngoài thành Corcyra, mắt thấy thành chủ Corcyra sắp bị công phá.

Nhưng chúng ta đã nhắc đi nhắc lại, quân đội Corinth được mệnh danh là "Đội tuyển bóng đá nam Trung Quốc của thế giới Hy Lạp", luôn bất ngờ sụp đổ trong tình huống tưởng chừng không thể. Vào thời điểm then chốt nhất của trận chiến, chỉ huy Corinth nhận được chiến báo nói rằng hạm đội viện binh của Athens đang tới. Chỉ huy Corinth sợ xanh mặt, vội vã ra lệnh toàn quân rút lui.

Nhưng thực tế là, Athens chỉ phái thêm 20 tàu chiến đến chi viện thôi. Lúc đó Corinth có 150 tàu chiến. Chỉ huy Corinth chưa nắm được tình báo chi tiết đã mơ hồ rút quân, đánh mất cơ hội chiến thắng một cách khó hiểu trong khi đang chiếm ưu thế tuyệt đối.

Quả nhiên thấm nhuần chân truyền của bóng đá nam Trung Quốc!

Mặc dù diễn biến trận Sybota vô cùng hài hước, nhưng hậu quả thì không hề nhẹ nhàng chút nào, thậm chí có thể nói là rất nghiêm trọng.

Bởi vì trận Sybota đã nâng cấp cục diện song phương vốn đã rất căng thẳng thành xung đột vũ trang, và trong quá trình này, Athens khó mà chối bỏ trách nhiệm!

Có thể bạn sẽ hỏi, Athens trước sau chỉ phái có 30 tàu chiến thôi mà, số tàu này kịch kim cũng chỉ để làm cảnh, đối mặt với chủ lực hải quân Corinth thì nhét kẽ răng cũng không đủ. 30 tàu chiến này chỉ là lực lượng răn đe, trận Sybota cũng chỉ là ngẫu nhiên cướp cò thôi. Sao có thể nói vì Athens phái 30 tàu mà đổ hết trách nhiệm lên đầu Athens được? Hơn nữa, dốc sức giúp bạn mình thì có gì sai?

Đương nhiên là sai!

Lấy ví dụ cho mọi người dễ hiểu.

Mọi người đều từng thấy cảnh rủ nhau đánh hội đồng rồi chứ? Bạn có thấy ai vừa vào trận đã trực tiếp cầm dao chém người không? Kịch bản thông thường là hai bên hẹn nhau một chỗ, sau đó cố gắng kéo càng nhiều người càng tốt, bày ra bộ dạng hung hăng, dùng sự uy hiếp để dọa đối phương. Thủ đoạn dọa nạt có rất nhiều, ví dụ số lượng: tao có 100 thằng mày chỉ có 50, thế là tao uy hiếp được mày. Ví dụ thực lực cứng: tao cầm gậy bóng chày, còn mày chỉ có tay không, thế là tao có ưu thế hơn. Thậm chí nhiều thứ hư ảo cũng có thể dùng để làm màu, ví dụ bên tao xăm trổ đầy mình, ta Thanh Long hữu Bạch Hổ nhìn là thấy ớn, còn bên mày xăm Doraemon với Hello Kitty thì mày đến để tấu hài à.

Chỉ khi tất cả các thủ đoạn răn đe này dùng hết rồi mà hai bên vẫn không đàm phán được thì mới thực sự động thủ. Bạn thấy đấy, ngay cả lưu manh đánh nhau cũng phải có chiến thuật, dùng chiêu trò, côn đồ đầu đường xó chợ còn biết không thể dễ dàng động thủ, huống hồ là ván cờ tầm cỡ quốc gia. Vừa vào đã khô máu, đấy không phải là dũng mãnh, đấy là ngáo!

Cho nên giờ có thể hiểu Athens sai ở đâu rồi. Kể cả anh đã kết đồng minh với Corcyra, anh muốn bảo kê đàn em thì đâu phải chỉ có con đường quân sự. Trừng phạt kinh tế được không? Bao vây ngoại giao được không? Tạo dư luận được không? Ngay từ đầu có đầy thủ đoạn để dùng, những thủ đoạn này đều lý trí hơn là phái binh. Mọi người cứ nghĩ đến cục diện quốc tế ngày nay, hai siêu cường vật tay nhau, mới đầu chắc chắn là võ mồm, chửi bới nhau, làm gì có chuyện vừa vào đã mang máy bay, tên lửa, tàu sân bay đi lượn khắp thế giới. Ở giữa nhất định có quá trình leo thang từng bước. Chỉ khi những thủ đoạn này cạn kiệt, hết cách rồi mới tính đến chuyện cởi trần cầm dao xông vào nhau. Còn trong việc xử lý vấn đề Corcyra, Athens vừa vào đã trực tiếp phái binh, đây rõ ràng không phải là quyết sách lý trí.

Có phải vội đi đầu thai đâu mà gấp thế?

Hai nước cờ này của Pericles, có thể nói là đã hiểu rõ đạo lý nhưng đi sai các bước, và sai lầm này đã mang lại ảnh hưởng cực kỳ tiêu cực cho toàn bộ cục diện ngoại giao của Athens.

Bởi vì đứng ở góc độ Corinth để giải mã việc Athens phái binh, góc nhìn và kết luận hoàn toàn khác biệt.

Trong mắt phe Corinth, khi Athens từ chối Corinth tại Đại hội Công dân, chọn Corcyra thì đã xác định rõ thái độ: Làm kẻ thù với Corinth! Vậy thì hành động phái quân đội sau đó của anh, bất luận số lượng bao nhiêu, chỉ cần anh thực hiện động tác này, chính là đóng đinh thái độ thù địch đó thành sự thật. Tương đương với việc Athens và Corcyra bái thiên địa, vào động phòng xong vẫn chưa đủ, ngày hôm sau anh còn xách cái loa phường đi rêu rao khắp thế giới: "Corcyra là ghệ của tao, đứa nào dám động vào nó tao xử đứa đó". Thái độ này đối với Corinth chính là sự sỉ nhục và khiêu khích trắng trợn, ai nuốt trôi được cục tức này?

Athens cho rằng phái binh là răn đe, còn Corinth cho rằng phái binh là khiêu khích.

Răn đe là hướng tới việc dập tắt chiến tranh, còn khiêu khích là hướng tới việc khai chiến, hai cái đó giống nhau được à?

Athens tưởng phái vài lính lẻ tẻ là dọa được Corinth, nhưng trong mắt Corinth, Athens làm vậy là không chơi theo bài bản thông thường, mà trực tiếp nâng cấp cục diện song phương lên đối đầu quân sự. Trong ngôn ngữ quan hệ quốc tế ngày nay, có một thuật ngữ chuyên dùng để miêu tả hành vi này: Leo thang xung đột!

Vì vậy khi chúng ta đứng ở góc độ hậu thế để dựng lại hành vi phái binh đến Corcyra của Athens, chắc chắn đó là một quyết định tồi tệ: Mặc dù khởi nguồn của mọi chuyện đều đến từ con báo Corinth, nhưng từ đầu đến cuối Corinth cũng chỉ là võ mồm thôi. Còn Athens vì quyết sách sai lầm dẫn đến trận Sybota, tương đương với việc vừa vào đã vả thẳng vào mặt Corinth một cái, điều này tất yếu dẫn đến cục diện quốc tế của thế giới Hy Lạp đi từ căng thẳng đến căng thẳng hơn.

Corinth bị ăn hành ở Sybota, tự nhiên thẹn quá hóa giận. Màn kịch tiếp theo, mọi người dùng đầu gối cũng nghĩ ra được: Chạy đến nhà Sparta khóc lóc ăn vạ.

Sparta như chúng ta đã nói trước đây, là thành bang theo chủ nghĩa "thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện". Trong mắt Sparta, mấy việc này nghe thôi đã thấy phiền, hơn nữa Sparta thừa biết chuỗi sự kiện từ vụ Epidamnus đến giờ đều do thằng khốn Corinth tự mình quậy ra. Cho nên đối mặt với Corinth lăn lộn khóc lóc, Sparta tỏ thái độ vững như bàn thạch, không trực tiếp ra mặt can thiệp, cũng không chỉ thị các đàn em khác trong liên minh phối hợp với Corinth làm khó Athens. Suốt cả quá trình Sparta luôn im hơi lặng tiếng.

Nếu sự việc dừng lại ở đây, thì dù Athens có phạm hai sai lầm liên tiếp, cục diện vẫn chưa tồi tệ đến mức không thể cứu vãn. Chỉ cần Sparta giữ bình tĩnh thì Liên minh Peloponnese sẽ không đối đầu trực diện với Athens và Liên minh Delian. Cuộc xung đột này sẽ chỉ giới hạn trong mâu thuẫn cá biệt giữa Athens và Corinth mà thôi, khả năng bùng nổ thế chiến toàn diện là không tồn tại.

Theo lý thì Athens nên trân trọng cơ hội này vạn phần. Nhưng rất tiếc, Athens không hề nhận thức được mức độ nghiêm trọng của vấn đề.

Pericles rõ ràng đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc phán đoán tình hình. Khi dư âm của hai nước cờ ngu ngốc bên trên còn chưa dứt, vị lãnh đạo cường thế 61 tuổi này lại tung liên tiếp hai chiêu lớn nữa.

Chính hai chiêu này giáng xuống, giống như tiêm thêm một mũi thuốc xổ cho bệnh nhân đang thoi thóp vậy, khiến cục diện vốn đã như trứng xếp chồng bị làm cho mất kiểm soát hoàn toàn, Sparta cũng bị ép phải từ sau cánh gà bước ra sân khấu, và chiến tranh lập tức bùng nổ. Vậy hai nước cờ dở tiếp theo của Athens là gì? Mời xem hồi sau sẽ rõ.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top