[Funland] Liệu có kiếp sau

Bocui

Xe tăng
Biển số
OF-362970
Ngày cấp bằng
14/4/15
Số km
1,364
Động cơ
255,879 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
em không tin cũng không phủ nhận, do chưa có cơ sở nào chứng minh hay dẫn chứng thực tế được công nhận :D
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,857
Động cơ
1,157,889 Mã lực
Vâng, quan điểm cá nhân luôn rất nhiều chiều, nhiều hướng, mỗi chúng ta đều có quan điểm riêng của m và, tìm cách bảo vệ nó trước các luận điểm khác một cách phù hợp.

Nếu chỉ giữ khư khư quan điểm mà chưa có luận chứng phù hợp thì ta để đó và tìm đọc thêm nữa, tìm cách thấu triệt nó hoặc các căn cứ hợp lý từ những luận cứ khác phù hợp, khi đó thì việc tranh luận một vđ sẽ mở ra nhiều hướng hơn, có ý nghĩa hơn.

E cũng rất mong các cụ đưa ra quan điểm mới, góc nhìn khác để có thể xem xét thấu đáo hơn những vđ mà, chưa ai có kinh nghiệm trải qua.
Cũng ko hẳn như vậy ạ.

Nếu mình cố đọc để hiểu nó thì cái tâm ham hiểu sẽ dẫn dắt, đôi khi tạo nên cái hiểu thiên kiến và sai lệch, một vc sai thì ngàn việc rối.

Cứ đọc và đọc, đừng cố hiểu cho tới khi tích luỹ đủ mọi nhân duyên, tường tận nhiều lẽ sống, chứng kiến nhiều cuộc đời và lúc nào đó, tự nhiên sẽ đại ngộ ra, khi đó mới là nội dung đích thực, còn đọc như các cụ Hồi giáo, giải nghĩa thành muôn hình vạn trạng rùi bem nhau suốt ngày cũng vì "ham" đọc.

Chúc cụ tinh tấn...
Trên tinh thần cầu thị em xung phong giơ tay nêu quan điểm khác biệt với cụ.

Quan điểm của em : Đọc kinh văn mà không hiểu, thì sẽ dẫn đến thực hành sai. Cái xác xuất " cứ đọc đi rồi đến một lúc nào đó đại ngộ " rất là nhỏ, thậm chí bằng không. Ngay cả các bậc cao tăng đại đức đương thời, tinh thông kinh kệ các loại, hiểu kinh này như lòng bàn tay cũng chưa chắc " đại ngộ " , huống gì người thường . Thậm chí em cho là nếu đọc vẹt kinh này có thể dẫn tới " Ngộ " không phải theo nghĩa tiếng Hán, mà là nghĩa dân gian tiếng Việt.

Học kinh văn cũng giống như học tiểu học lên đại học, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, rồi mới nâng cao trình độ lý luận lên bằng học và hiểu kinh văn, sau đó là tư duy và thực hành. Em xin nhấn mạnh là học và hiểu chứ không phải là đọc.

Tiền nhân đã đúc kết : Văn - Tu- Tư (Văn: học và hiểu → Tư: tư duy, liên hệ bản thân → Tu: thực hành).

Như vậy, trước khi học kinh văn, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, kinh văn cơ sở. Khi học kinh văn ta cần phải hiểu rõ ràng được nội dung ý nghĩa. Nói một cách khác, học kinh văn ta phải được bậc chân tu nàò đó am hiểu sâu sắc bộ kinh giảng nghĩa. Đặc biệt bộ kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh " kim chỉ nam " của Thiền Tông ở cái tầng lý luận cao cấp, nên học nó mà chưa học các bộ kinh cơ sở khác, rồi lại không có thầy giảng giải, rồi lại tự học, thì khả năng cao ta rơi vào " Chấp ".

Tất nhiên lý luận của em có thể không phù hợp với Mật Tông với các trì chú, mật ngữ, bùa pháp. Nhưng mà Mật Tông đọc mà không có thầy ngồi cạnh hướng dẫn khẩu ngữ thì càng dễ " Tẩu hỏa nhập ma ". Tất nhiên là trừ Chú Đại bi, đọc sai không sao, miễn là thành tâm.
 
Chỉnh sửa cuối:

Thỏ móm

Xe container
Biển số
OF-542866
Ngày cấp bằng
24/11/17
Số km
5,011
Động cơ
134,258 Mã lực
Nơi ở
Vườn cà rốt màu mỡ
Trên tinh thần cầu thị em xung phong giơ tay nêu quan điểm khác biệt với cụ.

Quan điểm của em : Đọc kinh văn mà không hiểu, thì sẽ dẫn đến thực hành sai. Cái xác xuất " cứ đọc đi rồi đến một lúc nào đó đại ngộ " rất là nhỏ, thậm chí bằng không. Ngay cả các bậc cao tăng đại đức đương thời, tinh thông kinh kệ các loại, hiểu kinh này như lòng bàn tay cũng chưa chắc " đại ngộ " , huống gì người thường . Thậm chí em cho là nếu đọc vẹt kinh này có thể dẫn tới " Ngộ " không phải theo nghĩa tiếng Hán, mà là nghĩa dân gian tiếng Việt.

Học kinh văn cũng giống như học tiểu học lên đại học, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, rồi mới nâng cao trình độ lý luận lên bằng học và hiểu kinh văn, sau đó là tư duy và thực hành. Em xin nhấn mạnh là học và hiểu chứ không phải là đọc.

Tiền nhân đã đúc kết : Văn - Tu- Tư (Văn: học và hiểu → Tư: tư duy, liên hệ bản thân → Tu: thực hành).

Như vậy, trước khi học kinh văn, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, kinh văn cơ sở. Khi học kinh văn ta cần phải hiểu rõ ràng được nội dung ý nghĩa. Nói một cách khác, học kinh văn ta phải được bậc chân tu nàò đó am hiểu sâu sắc bộ kinh giảng nghĩa. Đặc biệt bộ kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh " kim chỉ nam " của Thiền Tông ở cái tầng lý luận cao cấp, nên học nó mà chưa học các bộ kinh cơ sở khác, rồi lại không có thầy giảng giải, rồi lại tự học, thì khả năng cao ta rơi vào " Chấp ".

Tất nhiên lý luận của em có thể không phù hợp với Mật Tông với các trì chú, mật ngữ, bùa pháp. Nhưng mà Mật Tông đọc mà không có thầy ngồi cạnh hướng dẫn khẩu ngữ thì càng dễ " Tẩu hỏa nhập ma ". :))
Thỏ xin giúp bác 1 tay hiệu đính và làm rõ khái niệm Văn- Tư- Tu. Khái niệm này nghe rất quen, rất nhiều nhưng ít khi được trình bày cà bình giảng chi tiết rõ ràng. Mong còm này của Thỏ sẽ mang lại chút lợi ích cho mọi người.

Văn- Tư - Tu là 3 ( ba) Giai Đoạn Thực Hành Pháp: Văn (lắng nghe giáo lý), Tư (quán chiếu giáo lý), và Tu (thực hành thiền định).

Lộ trình này bảo đảm rằng Phật pháp không chỉ dừng lại ở tri thức lý thuyết, mà trở thành trí tuệ sống động, hiện tiền:

1- Văn (Tạng ngữ: ཐོས་པ། Thoe Pa) — “Hiểu Biết Có Được Từ Tri Thức Của Người Khác”
• Đây là giai đoạn tiếp nhận giáo pháp từ nguồn đáng tin cậy — một bậc thầy, kinh điển, hay lời truyền khẩu.
• Lúc này, sự hiểu biết vẫn chưa phải của riêng bạn; nó còn mang tính lý thuyết, gián tiếp.

2- Tư – Quán chiếu (བསམ་པ། Sam Pa) — “Tuệ Giác Cá Nhân”
Cá nhân suy tư, phân tích và khảo xét những điều đã học để kiểm nghiệm tính hợp lý và sự tương quan với bản thân.
• Qua sự quán chiếu lặp đi lặp lại, giáo pháp thấm sâu vào tâm thức, trở thành quan kiến của chính bạn.
• Ví dụ: Hiểu về Tính Không không chỉ là một khái niệm, mà là một cái thấy hợp lý dựa trên duyên khởi.

3- Tu – Thực chứng (སྒོམ་པ། Gom Pa hoặc སྒྲུབ་པ། Drup Pa) — “Thực Chứng Thân Tâm”
• Đây là sự chứng ngộ trực tiếp qua thiền định và trong đời sống thường nhật.
• Những gì bạn đã học và quán chiếu giờ đây được đưa vào thực hành sống động từng khoảnh khắc.
• Ví dụ: Khi sân khởi lên, bạn lập tức vận dụng cái thấy về Vô Thường hay Vô Ngã để hóa giải nó.

“Văn là cầm lấy tấm bản đồ. Tư là học cách đọc nó. Tu là bước đi trên địa hình ấy.”

Nếu thiếu sự hội nhập trọn vẹn ba giai đoạn này, giáo pháp sẽ chỉ là tri thức chết – không được sử dụng, và dần dần bị lãng quên.
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,857
Động cơ
1,157,889 Mã lực
Thỏ xin giúp bác 1 tay hiệu đính và làm rõ khái niệm Văn- Tư- Tu. Khái niệm này nghe rất quen, rất nhiều nhưng ít khi được trình bày cà bình giảng chi tiết rõ ràng. Mong còm này của Thỏ sẽ mang lại chút lợi ích cho mọi người.

Văn- Tư - Tu là 3 ( ba) Giai Đoạn Thực Hành Pháp: Văn (lắng nghe giáo lý), Tư (quán chiếu giáo lý), và Tu (thực hành thiền định).

Lộ trình này bảo đảm rằng Phật pháp không chỉ dừng lại ở tri thức lý thuyết, mà trở thành trí tuệ sống động, hiện tiền:

1- Văn (Tạng ngữ: ཐོས་པ། Thoe Pa) — “Hiểu Biết Có Được Từ Tri Thức Của Người Khác”
• Đây là giai đoạn tiếp nhận giáo pháp từ nguồn đáng tin cậy — một bậc thầy, kinh điển, hay lời truyền khẩu.
• Lúc này, sự hiểu biết vẫn chưa phải của riêng bạn; nó còn mang tính lý thuyết, gián tiếp.

2- Tư – Quán chiếu (བསམ་པ། Sam Pa) — “Tuệ Giác Cá Nhân”
Cá nhân suy tư, phân tích và khảo xét những điều đã học để kiểm nghiệm tính hợp lý và sự tương quan với bản thân.
• Qua sự quán chiếu lặp đi lặp lại, giáo pháp thấm sâu vào tâm thức, trở thành quan kiến của chính bạn.
• Ví dụ: Hiểu về Tính Không không chỉ là một khái niệm, mà là một cái thấy hợp lý dựa trên duyên khởi.

3- Tu – Thực chứng (སྒོམ་པ། Gom Pa hoặc སྒྲུབ་པ། Drup Pa) — “Thực Chứng Thân Tâm”
• Đây là sự chứng ngộ trực tiếp qua thiền định và trong đời sống thường nhật.
• Những gì bạn đã học và quán chiếu giờ đây được đưa vào thực hành sống động từng khoảnh khắc.
• Ví dụ: Khi sân khởi lên, bạn lập tức vận dụng cái thấy về Vô Thường hay Vô Ngã để hóa giải nó.

“Văn là cầm lấy tấm bản đồ. Tư là học cách đọc nó. Tu là bước đi trên địa hình ấy.”

Nếu thiếu sự hội nhập trọn vẹn ba giai đoạn này, giáo pháp sẽ chỉ là tri thức chết – không được sử dụng, và dần dần bị lãng quên.
Vâng em cảm ơn cụ đã làm rõ ngữ nghĩa của Văn - Tu -Tư.
Nhân đây em cũng bổ xung thêm là riêng Chú Đại Bi, thì khi đọc không cần hiểu nghĩa vì nó là Mật ngữ, và đọc sai không sao vì Bồ Tát Quán Thế Âm cho phép đọc sai , miễn là thành tâm. Chú đại bi có lẽ là kinh văn đựng tung nhiều nhất trong các loại kinh văn.
 
Chỉnh sửa cuối:

Thỏ móm

Xe container
Biển số
OF-542866
Ngày cấp bằng
24/11/17
Số km
5,011
Động cơ
134,258 Mã lực
Nơi ở
Vườn cà rốt màu mỡ
Vâng em cảm ơn cụ đã làm rõ ngữ nghĩa của Văn - Tu -Tư.
Nhân đây em cũng bổ xung thêm là riêng Chú Đại Bi, thì khi đọc không cần hiểu nghĩa vì nó là Mật ngữ, và đọc sai không sao vì Bồ Tát Quán Thế Âm bảo đọc sai không sao, miễn là thành tâm. Chú đại bi có lẽ là kinh văn đựng tung nhiều nhất trong các loại kinh văn.
Về Mật chú hay còn gọi là Chân ngôn - Mantra thì được phân loại tùy theo cấp độ Mật.

Tổng quan về Mật Thừa là Thừa không dành cho số đông vì đòi hỏi căn cơ, trí tuệ. Mật thừa có thể tạm chia ra 2 loại là Mantrayana - Chân ngôn thừa và Tantrayana- Mật điển thừa. Trong này lại gồm 3 mức độ là Ngoại Mật, Nội Mật và Vô thượng Mật.

Hành trì Mật thừa lại phải trải qua

1- Tác Mật
2- Hành Mật
3- Du già Đạo sư
4- Du già Tối thượng.

Các Minh chú hoặc Chú mà ai cũng có thể được phép đọc, trì tụng thường thuộc về 1 và 2. Lý do đơn giản là Phật tử ai cũng muốn mình sẽ học theo, sẽ thành các bậc Giác ngộ an bình như Đức Quán Thế Âm, Đức Di Lặc, Đức A Di Đà, Đức Địa Tạng.... và các Ngài thực chất phản chiếu Tâm thức an lành nên các câu Minh chú, Chân ngôn của các Ngài là phổ thông cho Đại chúng.

Chú Đại Bi thực chất là danh hiệu của các Hóa thân của Đức Quán Âm nên chúng sinh có thể tùy nghi tụng niệm mà không sợ sai lệch miễn là phải Tâm thành.
 

HTlangtu

Xe điện
Biển số
OF-486386
Ngày cấp bằng
3/2/17
Số km
3,055
Động cơ
261,096 Mã lực
....vì Bồ Tát Quán Thế Âm bảo đọc sai không sao, miễn là thành tâm.....
Ủa? có cả việc này hả cụ?
Trước thấy ông cụ nhà e bảo là thần chú đó là hồng danh của bao nhiêu vị Phật ghép lại?
E thì cũng không rõ là những ai? dù giờ vẫn thuộc lòng, nhưng đọc vẹt thôi, chưa biết chấm câu, ngắt ở đâu để đúng tên các vị đó?
Còn ngay cả Quan Âm bồ tát cũng không có thực như Đức Tất Đạt đa (Thích Ca)
Trước tìm hiểu hình như vị Bồ Tát này cũng là Pháp thân 1 vị Phật nào đó hóa hiện ra thì phải???

Mà trong này các cụ kiến thức thâm sâu quá. Kiểu như hoằng pháp-truyền đạo thì đúng hơn?
E trần tục nghe u mê luôn, mong có 1 cụ nào giải thích kiểu biện chứng-nguyên tử-lượng tử vật lý khai sáng thì tốt.
Như câu Bát nhã ba la mật: Yết đế, Yết đế.....Hóa ra, tiếng Phạn nghĩa là: vượt qua, vượt qua....kiểu như động viên
Những người niệm chú tu luyện có chút pháp lực hay khẩu lực gì đó, rung động cùng tần số với các vị Chảnh đẳng chánh giác thì tụng lên có thần lực sẽ linh ứng....chứ tầm như loại e thì có phổ nhạc mà hát cũng chả có ý nghĩa gì cả
Đại ý là chủ đề này tạm hiểu là: có các thực thể tồn tại xung quanh chúng ta, dạng sóng từ trường ở các tần số nhất định, (có thể chủ ý hoặc không), họ hay chúng ta có lúc giao thoa với nhau.
Nếu ở dạng sóng vật lý thì đa phần sinh vật sau khi chết, tạm gọi là sóng đó là linh hồn sẽ tồn tại 1 thời gian là tan biến mất. Một số ít tồn lại lâu hơn...
Rất có thể khoa học sau này sẽ có máy móc đo hoặc ghi nhận rõ rệt được hiện tượng này. E tin là như vậy
Về tiền kiếp hậu kiếp, 18 tầng địa ngục, chó ngao, cầu vồng, canh Mạnh Bà, Vọng Cảnh đài... đều là sản phẩm của 1 hay nhiều tác giả xưa và đều có mục đích như đã nói thôi.
Còn e thấy các cách giải thích hiện chưa thuyết phục lắm
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,857
Động cơ
1,157,889 Mã lực
Ủa? có cả việc này hả cụ?
Trước thấy ông cụ nhà e bảo là thần chú đó là hồng danh của bao nhiêu vị Phật ghép lại?
E thì cũng không rõ là những ai? dù giờ vẫn thuộc lòng, nhưng đọc vẹt thôi, chưa biết chấm câu, ngắt ở đâu để đúng tên các vị đó?
Còn ngay cả Quan Âm bồ tát cũng không có thực như Đức Tất Đạt đa (Thích Ca)
Trước tìm hiểu hình như vị Bồ Tát này cũng là Pháp thân 1 vị Phật nào đó hóa hiện ra thì phải???

Mà trong này các cụ kiến thức thâm sâu quá. Kiểu như hoằng pháp-truyền đạo thì đúng hơn?
E trần tục nghe u mê luôn, mong có 1 cụ nào giải thích kiểu biện chứng-nguyên tử-lượng tử vật lý khai sáng thì tốt.
Như câu Bát nhã ba la mật: Yết đế, Yết đế.....Hóa ra, tiếng Phạn nghĩa là: vượt qua, vượt qua....kiểu như động viên
Những người niệm chú tu luyện có chút pháp lực hay khẩu lực gì đó, rung động cùng tần số với các vị Chảnh đẳng chánh giác thì tụng lên có thần lực sẽ linh ứng....chứ tầm như loại e thì có phổ nhạc mà hát cũng chả có ý nghĩa gì cả
Đại ý là chủ đề này tạm hiểu là: có các thực thể tồn tại xung quanh chúng ta, dạng sóng từ trường ở các tần số nhất định, (có thể chủ ý hoặc không), họ hay chúng ta có lúc giao thoa với nhau.
Nếu ở dạng sóng vật lý thì đa phần sinh vật sau khi chết, tạm gọi là sóng đó là linh hồn sẽ tồn tại 1 thời gian là tan biến mất. Một số ít tồn lại lâu hơn...
Rất có thể khoa học sau này sẽ có máy móc đo hoặc ghi nhận rõ rệt được hiện tượng này. E tin là như vậy
Về tiền kiếp hậu kiếp, 18 tầng địa ngục, chó ngao, cầu vồng, canh Mạnh Bà, Vọng Cảnh đài... đều là sản phẩm của 1 hay nhiều tác giả xưa và đều có mục đích như đã nói thôi.
Còn e thấy các cách giải thích hiện chưa thuyết phục lắm
Thật mà cụ, trong kinh văn, Bồ Tát quán Thế âm có giảng, em trích cụ đọc :

“Nếu có chúng sinh nào trì tụng chú này, dù âm đúng hay chưa đúng, chỉ cần tâm thành thì chư Phật, Bồ Tát đều gia hộ và được lợi ích.”
 

manhcsic

Xe điện
Biển số
OF-67865
Ngày cấp bằng
7/7/10
Số km
2,412
Động cơ
1,277,622 Mã lực
Thật mà cụ, trong kinh văn, Bồ Tát quán Thế âm có giảng, em trích cụ đọc :

“Nếu có chúng sinh nào trì tụng chú này, dù âm đúng hay chưa đúng, chỉ cần tâm thành thì chư Phật, Bồ Tát đều gia hộ và được lợi ích.”
Như trên lão nói là tu theo trường phái (tạm gọi là tha lực, kết hợp). Còn trường phái tự lực thì có thể quan điểm đuổi bò/gà/vịt... Trong mình đã là thành công rồi.
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,857
Động cơ
1,157,889 Mã lực
Nhân tiện đây, em đề nghị các cụ tinh thông Phật học, trích dẫn kinh văn thì giảng nghĩa tóm tắt đoạn văn, chú giải các từ/ câu Hán Việt khó hiểu giúp chúng em với. Em nói thật là em đọc đoạn văn mà cụ
OUMOUM trích dẫn Kinh Lăng Nghiêm, em không hiểu rõ ý nghĩa của đoạn văn và khá nhiều từ Hán Việt nhất là các danh từ.em cũng không biết nốt.
Ví dụ như các cụ giảng: Văn Báo chiêu cảm ác quả , Khứu báo chiêu cảm ác quả là gì...vv...thì bọn em mới biết sợ và nhập tâm chứ.
Em trích dẫn một đoạn trong nội dung Giáo trình Phật học, nói về việc các đệ tử đời thứ nhất thắc mắc với Phật Tổ vì sao lại chọn ông Xá Lợi Nhất và Mục Kiên Liên làm Đại đệ tử và Nhị đệ tử cho dù 2 vị này gia nhập đoànTỳ Kheo của Đức Phật muộn nhất. Rất rõ ràng dễ hiểu, chú thích về chữ " Kiếp "

1756290566585.png
 
Chỉnh sửa cuối:

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,565 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Thỏ xin giúp bác 1 tay hiệu đính và làm rõ khái niệm Văn- Tư- Tu. Khái niệm này nghe rất quen, rất nhiều nhưng ít khi được trình bày cà bình giảng chi tiết rõ ràng. Mong còm này của Thỏ sẽ mang lại chút lợi ích cho mọi người.

Văn- Tư - Tu là 3 ( ba) Giai Đoạn Thực Hành Pháp: Văn (lắng nghe giáo lý), Tư (quán chiếu giáo lý), và Tu (thực hành thiền định).

Lộ trình này bảo đảm rằng Phật pháp không chỉ dừng lại ở tri thức lý thuyết, mà trở thành trí tuệ sống động, hiện tiền:

1- Văn (Tạng ngữ: ཐོས་པ། Thoe Pa) — “Hiểu Biết Có Được Từ Tri Thức Của Người Khác”
• Đây là giai đoạn tiếp nhận giáo pháp từ nguồn đáng tin cậy — một bậc thầy, kinh điển, hay lời truyền khẩu.
• Lúc này, sự hiểu biết vẫn chưa phải của riêng bạn; nó còn mang tính lý thuyết, gián tiếp.

2- Tư – Quán chiếu (བསམ་པ། Sam Pa) — “Tuệ Giác Cá Nhân”
Cá nhân suy tư, phân tích và khảo xét những điều đã học để kiểm nghiệm tính hợp lý và sự tương quan với bản thân.
• Qua sự quán chiếu lặp đi lặp lại, giáo pháp thấm sâu vào tâm thức, trở thành quan kiến của chính bạn.
• Ví dụ: Hiểu về Tính Không không chỉ là một khái niệm, mà là một cái thấy hợp lý dựa trên duyên khởi.

3- Tu – Thực chứng (སྒོམ་པ། Gom Pa hoặc སྒྲུབ་པ། Drup Pa) — “Thực Chứng Thân Tâm”
• Đây là sự chứng ngộ trực tiếp qua thiền định và trong đời sống thường nhật.
• Những gì bạn đã học và quán chiếu giờ đây được đưa vào thực hành sống động từng khoảnh khắc.
• Ví dụ: Khi sân khởi lên, bạn lập tức vận dụng cái thấy về Vô Thường hay Vô Ngã để hóa giải nó.

“Văn là cầm lấy tấm bản đồ. Tư là học cách đọc nó. Tu là bước đi trên địa hình ấy.”

Nếu thiếu sự hội nhập trọn vẹn ba giai đoạn này, giáo pháp sẽ chỉ là tri thức chết – không được sử dụng, và dần dần bị lãng quên.
Em Việt hoá thành Nghe Nhớ Tập được không Thầy.
 

Thỏ móm

Xe container
Biển số
OF-542866
Ngày cấp bằng
24/11/17
Số km
5,011
Động cơ
134,258 Mã lực
Nơi ở
Vườn cà rốt màu mỡ
Em Việt hoá thành Nghe Nhớ Tập được không Thầy.
Dạ không nên vì không đủ nghĩa. Văn: nghe Pháp, học Pháp, đọc kinh sách, tham khảo Đạo hữu, hỏi Pháp các Chư Tăng..... . Tư : Tự ngẫm, tự xét, ghi nhớ, đối chiếu... Tu: Tập Thiền định, kiểm soát Tâm, quán chiếu Ngũ Uẩn Giai không.....

Tuy nhiên, theo Thỏ, miễn bác cảm thấy Dễ tìm, dễ thấy và dễ lấy thì cũng chả sao. Vì cách gọi cũng chỉ là phương tiện.

P/s: Bác đừng gọi Thỏ là Thầy. Tổn Phước của Thỏ và như thế thành ra khó trao đổi chia sẻ kiến thức.
 

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,565 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Nhân tiện đây, em đề nghị các cụ tinh thông Phật học, trích dẫn kinh văn thì giảng nghĩa tóm tắt đoạn văn, chú giải các từ/ câu Hán Việt khó hiểu giúp chúng em với. Em nói thật là em đọc đoạn văn mà cụ
OUMOUM trích dẫn Kinh Lăng Nghiêm, em không hiểu rõ ý nghĩa của đoạn văn và khá nhiều từ Hán Việt nhất là các danh từ.em cũng không biết nốt.
Ví dụ như các cụ giảng: Văn Báo chiêu cảm ác quả , Khứu báo chiêu cảm ác quả là gì...vv...thì bọn em mới biết sợ và nhập tâm chứ.
Em cho rằng ác quả là kết quả xấu, chiêu là gọi lại, báo = ứng, cảm : nhận, văn: nghe, khướu: ngửi. Ghép thành: nhận lại được kết quả xấu thông quá nghe, chắc là nghe mắng chửi ứng với việc mắng chửi người khác; nhận lại kết quả xâú thông quá ngửi, có lẽ là ngửi mùi khai, ứng với việc đái bậy ngoài đường
 
Chỉnh sửa cuối:

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,565 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Dạ không nên vì không đủ nghĩa. Văn: nghe Pháp, học Pháp, đọc kinh sách, tham khảo Đạo hữu, hỏi Pháp các Chư Tăng..... . Tư : Tự ngẫm, tự xét, ghi nhớ, đối chiếu... Tu: Tập Thiền định, kiểm soát Tâm, quán chiếu Ngũ Uẩn Giai không.....

Tuy nhiên, theo Thỏ, miễn bác cảm thấy Dễ tìm, dễ thấy và dễ lấy thì cũng chả sao. Vì cách gọi cũng chỉ là phương tiện.

P/s: Bác đừng gọi Thỏ là Thầy. Tổn Phước của Thỏ và như thế thành ra khó trao đổi chia sẻ kiến thức.
Thầy trong trong câu 1 chữ cũng là thầy được không cụ. Học 1 chữ gọi thầy 1 lần. Cụ hiểu vui vẻ tý đi, coi như gọi vui là không thấy tổn gì cả.
 

OUMOUM

Xe buýt
Biển số
OF-837863
Ngày cấp bằng
30/7/23
Số km
620
Động cơ
501,320 Mã lực
Tuổi
26
Trên tinh thần cầu thị em xung phong giơ tay nêu quan điểm khác biệt với cụ.

Quan điểm của em : Đọc kinh văn mà không hiểu, thì sẽ dẫn đến thực hành sai. Cái xác xuất " cứ đọc đi rồi đến một lúc nào đó đại ngộ " rất là nhỏ, thậm chí bằng không. Ngay cả các bậc cao tăng đại đức đương thời, tinh thông kinh kệ các loại, hiểu kinh này như lòng bàn tay cũng chưa chắc " đại ngộ " , huống gì người thường . Thậm chí em cho là nếu đọc vẹt kinh này có thể dẫn tới " Ngộ " không phải theo nghĩa tiếng Hán, mà là nghĩa dân gian tiếng Việt.

Học kinh văn cũng giống như học tiểu học lên đại học, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, rồi mới nâng cao trình độ lý luận lên bằng học và hiểu kinh văn, sau đó là tư duy và thực hành. Em xin nhấn mạnh là học và hiểu chứ không phải là đọc.

Tiền nhân đã đúc kết : Văn - Tu- Tư (Văn: học và hiểu → Tư: tư duy, liên hệ bản thân → Tu: thực hành).

Như vậy, trước khi học kinh văn, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, kinh văn cơ sở. Khi học kinh văn ta cần phải hiểu rõ ràng được nội dung ý nghĩa. Nói một cách khác, học kinh văn ta phải được bậc chân tu nàò đó am hiểu sâu sắc bộ kinh giảng nghĩa. Đặc biệt bộ kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh " kim chỉ nam " của Thiền Tông ở cái tầng lý luận cao cấp, nên học nó mà chưa học các bộ kinh cơ sở khác, rồi lại không có thầy giảng giải, rồi lại tự học, thì khả năng cao ta rơi vào " Chấp ".

Tất nhiên lý luận của em có thể không phù hợp với Mật Tông với các trì chú, mật ngữ, bùa pháp. Nhưng mà Mật Tông đọc mà không có thầy ngồi cạnh hướng dẫn khẩu ngữ thì càng dễ " Tẩu hỏa nhập ma ". Tất nhiên là trừ Chú Đại bi, đọc sai không sao, miễn là thành tâm.
Định viết cái gì đó mà ntn cũng khó thật.

"Văn tu tư" là cái cách dành cho lũ trẻ trâu từ đại học trở xuống, vì chúng còn nhỏ, chưa có nền gốc tự chủ, cần học theo thứ tự: nghe trước → hiểu bằng suy nghĩ → tập luyện thành thói quen., đó là cách đọc sách giáo khoa, sách tập làm văn...

Còn chữ Kinh trong kinh văn không phải từ thuần Việt, mà chữ hán nó gồm bộ mịch mang nghĩa sợi tơ, thêm xuyên suốt dụng công, nó là đường chuẩn để làm theo, là đường dọc (kinh lạc) để thi hành nên ít dành cho ấu tập nghe, nghĩ, học...

Người đọc Kinh văn phải cách vật trí tri, chí thành thông thần, Pg gọi là chỉ quán, đi thảng vào vđ chứ ko phải tiệm cận dần dần nên ko có gì phải "văn tư tu"

Còn như Chu Hy khi giảng Tứ thư đã nói:

“Văn tư tu giả, học chi thứ dã. Nhược thâm nhập ư kinh điển, ưng dĩ chí thành vi bản (應以至誠為本)"

"Đọc (văn) và suy (tư) rồi làm (tu) là sự học thứ yếu. Nếu muốn thâm nhập sâu vào kinh điển, phải lấy lòng thành làm gốc"

Thiền tông cũng nhấn mạnh:
“Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.”
Bất lập văn tự: Không lệ thuộc vào kinh sách, văn tự, vì chúng chỉ là phương tiện, không phải bản chất của chân lý.

Giáo ngoại biệt truyền: Chân lý được truyền trực tiếp từ tâm đến tâm, không qua các giáo điều cứng nhắc.

Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật: Nhìn thẳng vào bản tâm, nhận ra bản tánh (tánh Không hoặc Phật tánh) để đạt giác ngộ, không cần qua các bước tuần tự như học tập hay suy ngẫm.

Thiền tông đề cao sự trực giác, trải nghiệm trực tiếp, và thường bác bỏ việc bám víu vào tri thức lý thuyết hay các phương pháp tuần tự.

Nên muốn "chí thành" hay "trực chỉ nhân tâm" thì "tụng trì vạn biến, diệu lý tự minh" chứ văn với tư thế quái nào được với Kinh.

Còn chuyện giảng nghĩa thì chỉ dành cho trẻ em, mà chưa chắc người giảng đã hiểu đúng ý đồ của người lập văn tự kiểu mấy ông viết văn đi nghe giảng lại trích đoạn của mình thì mồm miệng há hốc, thế éo nào chúng nó lại giảng nghĩa ra thế được nhỉ

Còn như cụ nói "tẩu hoả nhập ma" gì đó thì là chuyện hàng ngày, có sao đâu, cơ duyên thấp kém, nghiệp lực chướng ma còn cuồng mong thành đạo thì thế còn nhẹ, tịch tại đương trường cũng ai quan tâm đâu vì đâu phải thứ dành cho trẻ lên ba mà thương với xót, vô duyên thì vô phận.
 

Thỏ móm

Xe container
Biển số
OF-542866
Ngày cấp bằng
24/11/17
Số km
5,011
Động cơ
134,258 Mã lực
Nơi ở
Vườn cà rốt màu mỡ
Em cho rằng ác quả là kết quả xấu, chiêu là gọi lại, báo = ứng, cảm : nhận, văn: nghe, khướu: ngửi. Ghép thành: nhận lại được kết quả xấu thông quá nghe, chắc là nghe mắng chửi, nhận lại kết quả xâú thông quá ngửi, có lẽ là ngửi mùi thối.
Bác hiểu đúng đấy ạ, đó là câu chỉ 2 trong Lục ( 6) căn vì khi thân tứ đại được phát sinh, thì Lục căn cũng dựa vào đó mà phát triển. Vậy thế nào là Lục căn? Căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẫy nở, tạo thành. Lục căn thì gồm có:

¨ Nhãn là mắt, dùng để nhìn.

¨ Nhĩ là tai, dùng để nghe.

¨ Tỷ là mũi, dùng để ngửi.

¨ Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.

¨ Thân là da bọc thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh..

¨ Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.

Chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu là hiện tượng, vật thể, biến đổi không ngừng cũng như chi phối từ tư tưởng đến hành động của chúng ta từng giây từng phút và chúng ta gọi nó là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là buị, mà đã là bụị thì dơ bẩn và luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật chung quanh con người. Chúng ta gom lại được 6 trần nên gọi là lục trần:

1. Sắc: là màu sắc, hình dáng.

2.Thanh: là âm thanh phát ra.

3.Hương: là mùi vị.

4. Vị: là chất vị do lưỡi nếm được.

5. Xúc: là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.

6. Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.

Khi Lục căn (six sense organs) tiếp xúc với Lục trần (six sense objects), có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoán này được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức (six sense of consciousness). Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
 

OUMOUM

Xe buýt
Biển số
OF-837863
Ngày cấp bằng
30/7/23
Số km
620
Động cơ
501,320 Mã lực
Tuổi
26
Vâng em cảm ơn cụ đã làm rõ ngữ nghĩa của Văn - Tu -Tư.
Nhân đây em cũng bổ xung thêm là riêng Chú Đại Bi, thì khi đọc không cần hiểu nghĩa vì nó là Mật ngữ, và đọc sai không sao vì Bồ Tát Quán Thế Âm cho phép đọc sai , miễn là thành tâm. Chú đại bi có lẽ là kinh văn đựng tung nhiều nhất trong các loại kinh văn.
Người ta nói vậy để khuyến khích kẻ thiểu năng đỡ thấy khó mà thoái lui, lâu dần cũng nảy được cái mầm Bồ đề, kiếp sau cũng có tý vốn đỡ thọ khổ.

Chứ đọc sai cũng không sao thì đọc láo thành thần, sinh da văn tự làm gì, như mấy ông khi đọc lời thề danh dự, dù hai chục năm thuộc lòng từng chữ vẫn phải cầm giấy đọc, vì nó không cho phép bất kỳ sai sót nào.

Lấy cái khuyến dụ với kẻ sơ cơ để áp dụng rùi thế nào cũng được nên sinh ra nhiều trái ngang, mất đi cốt cách...
 

OUMOUM

Xe buýt
Biển số
OF-837863
Ngày cấp bằng
30/7/23
Số km
620
Động cơ
501,320 Mã lực
Tuổi
26
Về Mật chú hay còn gọi là Chân ngôn - Mantra thì được phân loại tùy theo cấp độ Mật.

Tổng quan về Mật Thừa là Thừa không dành cho số đông vì đòi hỏi căn cơ, trí tuệ. Mật thừa có thể tạm chia ra 2 loại là Mantrayana - Chân ngôn thừa và Tantrayana- Mật điển thừa. Trong này lại gồm 3 mức độ là Ngoại Mật, Nội Mật và Vô thượng Mật.

Hành trì Mật thừa lại phải trải qua

1- Tác Mật
2- Hành Mật
3- Du già Đạo sư
4- Du già Tối thượng.

Các Minh chú hoặc Chú mà ai cũng có thể được phép đọc, trì tụng thường thuộc về 1 và 2. Lý do đơn giản là Phật tử ai cũng muốn mình sẽ học theo, sẽ thành các bậc Giác ngộ an bình như Đức Quán Thế Âm, Đức Di Lặc, Đức A Di Đà, Đức Địa Tạng.... và các Ngài thực chất phản chiếu Tâm thức an lành nên các câu Minh chú, Chân ngôn của các Ngài là phổ thông cho Đại chúng.

Chú Đại Bi thực chất là danh hiệu của các Hóa thân của Đức Quán Âm nên chúng sinh có thể tùy nghi tụng niệm mà không sợ sai lệch miễn là phải Tâm thành.
E cũng chưa hiểu cụ lấy "Chú Đại Bi thực chất là danh hiệu của các Hóa thân của Đức Quán Âm" ở đâu ra nữa,

Ngay sau khi triệu thỉnh tôn hiệu bằng chủng tử Omh (mà vb ta hay đọc là án) thì vài chú đã bắt đầu các hiệu lực " cắt đứt mọi xiềng xích trói buộc bởi nghiệp chướng, làm khô cạn mọi biển sinh tử khổ đau của luân hồi, chữa mọi bệnh tật, tiêu trừ mọi tai hoạ và nỗi sợ hãi về cái chết..."

Mỗi thần chú đều có mục đích và hiệu lệnh kèm theo thủ ấn để thực thi mật lệnh mà cụ lại bảo là sai cũng được thì em chịu, sai mật lệnh mà dùng thủ ấn thi hành thì ko toi hô phí.
 

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,565 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Ủa? có cả việc này hả cụ?
Trước thấy ông cụ nhà e bảo là thần chú đó là hồng danh của bao nhiêu vị Phật ghép lại?
E thì cũng không rõ là những ai? dù giờ vẫn thuộc lòng, nhưng đọc vẹt thôi, chưa biết chấm câu, ngắt ở đâu để đúng tên các vị đó?
Còn ngay cả Quan Âm bồ tát cũng không có thực như Đức Tất Đạt đa (Thích Ca)
Trước tìm hiểu hình như vị Bồ Tát này cũng là Pháp thân 1 vị Phật nào đó hóa hiện ra thì phải???

Mà trong này các cụ kiến thức thâm sâu quá. Kiểu như hoằng pháp-truyền đạo thì đúng hơn?
E trần tục nghe u mê luôn, mong có 1 cụ nào giải thích kiểu biện chứng-nguyên tử-lượng tử vật lý khai sáng thì tốt.
Như câu Bát nhã ba la mật: Yết đế, Yết đế.....Hóa ra, tiếng Phạn nghĩa là: vượt qua, vượt qua....kiểu như động viên
Những người niệm chú tu luyện có chút pháp lực hay khẩu lực gì đó, rung động cùng tần số với các vị Chảnh đẳng chánh giác thì tụng lên có thần lực sẽ linh ứng....chứ tầm như loại e thì có phổ nhạc mà hát cũng chả có ý nghĩa gì cả
Đại ý là chủ đề này tạm hiểu là: có các thực thể tồn tại xung quanh chúng ta, dạng sóng từ trường ở các tần số nhất định, (có thể chủ ý hoặc không), họ hay chúng ta có lúc giao thoa với nhau.
Nếu ở dạng sóng vật lý thì đa phần sinh vật sau khi chết, tạm gọi là sóng đó là linh hồn sẽ tồn tại 1 thời gian là tan biến mất. Một số ít tồn lại lâu hơn...
Rất có thể khoa học sau này sẽ có máy móc đo hoặc ghi nhận rõ rệt được hiện tượng này. E tin là như vậy
Về tiền kiếp hậu kiếp, 18 tầng địa ngục, chó ngao, cầu vồng, canh Mạnh Bà, Vọng Cảnh đài... đều là sản phẩm của 1 hay nhiều tác giả xưa và đều có mục đích như đã nói thôi.
Còn e thấy các cách giải thích hiện chưa thuyết phục lắm
Em gu gờ ra cái sóng não này:
Các loại sóng não chính
Mỗi loại sóng não có một tần số (đo bằng Hertz - Hz) khác nhau và liên quan đến một trạng thái hoạt động cụ thể của bộ não:
Sóng Delta (0.5 - 4 Hz):
Tần số thấp nhất, xuất hiện trong giấc ngủ sâu, giúp phục hồi và tái tạo năng lượng cho cơ thể.
Sóng Theta (4 - 8 Hz):
Gắn liền với trạng thái thư giãn sâu, giấc ngủ nông, và có vai trò trong việc xử lý thông tin, ghi nhớ, và trực giác.
Sóng Alpha (8 - 12 Hz):
Tần số xuất hiện khi con người ở trạng thái thư giãn, tỉnh táo (ví dụ, khi nhắm mắt hoặc ngồi thiền). Giúp giảm căng thẳng và tăng cường khả năng tiếp thu kiến thức.
Sóng Beta (12 - 30 Hz):
Liên quan đến sự tỉnh táo, tập trung, giải quyết vấn đề, và tư duy logic.
Sóng Gamma (30 - 100 Hz):
Gắn liền với các chức năng nhận thức bậc cao, xử lý thông tin nhanh chóng, học hỏi, và trí nhớ.
Thử tưởng tượng ra đến 1 lớp học Thầy giảng bài não phát ra sóng Gamma, các trò tập trung học đều phát ra sóng Gamma. Cùng tần số cộng hưởng khuyếch đại lên não của những tham gia lớp học, khiến học nhanh hơn. Lên thư viện học có vẻ cũng hiệu quả hơn học 1 mình ở nhà. Học online chắc sóng này yêú hơn nhiều nên không hiệu quả bằng.
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,857
Động cơ
1,157,889 Mã lực
Định viết cái gì đó mà ntn cũng khó thật.

"Văn tu tư" là cái cách dành cho lũ trẻ trâu từ đại học trở xuống, vì chúng còn nhỏ, chưa có nền gốc tự chủ, cần học theo thứ tự: nghe trước → hiểu bằng suy nghĩ → tập luyện thành thói quen., đó là cách đọc sách giáo khoa, sách tập làm văn...

Còn chữ Kinh trong kinh văn không phải từ thuần Việt, mà chữ hán nó gồm bộ mịch mang nghĩa sợi tơ, thêm xuyên suốt dụng công, nó là đường chuẩn để làm theo, là đường dọc (kinh lạc) để thi hành nên ít dành cho ấu tập nghe, nghĩ, học...

Người đọc Kinh văn phải cách vật trí tri, chí thành thông thần, Pg gọi là chỉ quán, đi thảng vào vđ chứ ko phải tiệm cận dần dần nên ko có gì phải "văn tư tu"

Còn như Chu Hy khi giảng Tứ thư đã nói:

“Văn tư tu giả, học chi thứ dã. Nhược thâm nhập ư kinh điển, ưng dĩ chí thành vi bản (應以至誠為本)"

"Đọc (văn) và suy (tư) rồi làm (tu) là sự học thứ yếu. Nếu muốn thâm nhập sâu vào kinh điển, phải lấy lòng thành làm gốc"


Thiền tông cũng nhấn mạnh:
Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.”
Bất lập văn tự: Không lệ thuộc vào kinh sách, văn tự, vì chúng chỉ là phương tiện, không phải bản chất của chân lý.


Giáo ngoại biệt truyền: Chân lý được truyền trực tiếp từ tâm đến tâm, không qua các giáo điều cứng nhắc.

Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật: Nhìn thẳng vào bản tâm, nhận ra bản tánh (tánh Không hoặc Phật tánh) để đạt giác ngộ, không cần qua các bước tuần tự như học tập hay suy ngẫm.

Thiền tông đề cao sự trực giác, trải nghiệm trực tiếp, và thường bác bỏ việc bám víu vào tri thức lý thuyết hay các phương pháp tuần tự.

Nên muốn "chí thành" hay "trực chỉ nhân tâm" thì "tụng trì vạn biến, diệu lý tự minh" chứ văn với tư thế quái nào được với Kinh.

Còn chuyện giảng nghĩa thì chỉ dành cho trẻ em, mà chưa chắc người giảng đã hiểu đúng ý đồ của người lập văn tự kiểu mấy ông viết văn đi nghe giảng lại trích đoạn của mình thì mồm miệng há hốc, thế éo nào chúng nó lại giảng nghĩa ra thế được nhỉ

Còn như cụ nói "tẩu hoả nhập ma" gì đó thì là chuyện hàng ngày, có sao đâu, cơ duyên thấp kém, nghiệp lực chướng ma còn cuồng mong thành đạo thì thế còn nhẹ, tịch tại đương trường cũng ai quan tâm đâu vì đâu phải thứ dành cho trẻ lên ba mà thương với xót, vô duyên thì vô phận.
Hix, đau nhưng mà cụ nói đúng, không chỉ em mà kha khá cụ trên này, chỉ mới ở bước đầu tìm hiểu Phật pháp nên học kinh văn mà không có thầy giảng nghĩa là hẹo thật cụ ạ.
Tuy nhiên em cũng xin phản bác ý kiến của cụ, có gì chưa đúng cụ khai sáng giúp em.

Câu thứ nhất :

Văn - Tư - Tu câu tổng kết này đậm chất Phật giáo, chưa chắc là của cụ Chu Hi giảng Tứ Thư . Ngược lại Nho giáo lại có câu kinh điển " Học nhi thời tập chi” ( Học hỏi là niềm vui ).
Vả lại toàn bộ câu cụ trích " Văn tư tu giả, học chi thứ dã. Nhược thâm nhập ư kinh điển, ưng dĩ chí thành vi bản " em google thì nghĩa của nó là : Muốn tu học theo thứ tự Văn – Tư – Tu, trước hết phải lấy “chí thành” làm gốc.

Câu thứ hai:

Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.

Câu này em hiểu nghĩa là : Thiền tông xem kinh điển, lý luận chỉ là phương tiện, không phải cứu cánh, mà tự mình nghiệm chứng bản tâm mới là con đường dân đến giác ngộ.

Chứ Thiền Tông đâu có bài xích kinh văn đâu ạ ? Vả lại câu ấy cũng chỉ diễn đạt nôi dung được chữ " Tư " và " Tu " theo trường phái Thiền Tông thôi.
 
Chỉnh sửa cuối:

tomza

Xe buýt
Biển số
OF-538143
Ngày cấp bằng
22/10/17
Số km
790
Động cơ
37,207 Mã lực
Nơi ở
Chủ yếu trong nhà
Đây e nghiêng về thuyết của cụ này, đại để dùng khoa học biện chứng 1 tý
Trong này nhiều cụ hay dẫn kinh kệ ra thì .... thực tế nên coi đó là môn khoa học, các cụ nghiên cứu sâu cảnh giới cao có thể coi là 1 học giả, còn để đem ra giải thích thì e nghĩ cũng không hiểu lắm, hàn lâm quá
E cũng cho là các cụ đó theo Phật giáo thì dẫn chứng kinh sách bổ sung cho niềm tin. Cũng không sao cả. Cái đó tốt đẹp, thiện lương
Kiểu như mấy GS bên viện thiên văn NASA giải thích là ngôi sao này ngôi sao kia, cách dải ngân hà bnhieu năm ánh sáng, có sự sống, vì chúng tôi thấy có nước có khí quyển có abc.. trưng ra 1 số ảnh nữa, thì e cũng biết vậy chứ còn phải có 1 số minh chứng nữa mình mới tin - tất nhiên là họ chả cần mình tin hay không. Tôn giáo cũng như vậy. (Còn đương nhiên những người nghiên cứu tu tập như mấy cụ đó là những người đáng ngưỡng mộ rồi)
Cụ ông nhà e cũng theo phật giáo, nên các cụ kia dẫn chứng các đầu kinh sách e thấy cụ ông đều có, vì thấy cụ ý chịu mua lắm còn Quy y lên Bồ Tát giới gì đó, đi đều Bát Quan Trai, hết Chùa Bằng, rồi Lý Triều....
Ngày bé sợ e nghịch ngợm cụ cũng cho lên chùa Tam quy, cũng bắt e đọc kinh kệ các kiểu, rồi thuộc chú Đại Bi. Để đc Phật phù hộ hóa giải độ đẽo các thứ
Lúc bé e nghe lời nên chăm chỉ, chứ thú thực em đọc kinh như con vẹt thôi chứ hiểu gì.
Rồi cụ bảo phải nhìn ảnh Phật quán tưởng bla bla, đôi ba lần e cũng có mơ thấy Phật bà, rồi 1 số các vị thần thánh nào đó, cả Tôn Ngộ Không (chắc do xem đi xem lại Tây Du ký cả truyện lẫn phim). Song có đợt theo cụ lên chùa Chân Tiên bao sái, thấy các cụ đồng đạo lại bảo có khi là ma hóa giả Phật, rồi phải mơ thấy hòa quang dịu không chói mới là mơ thấy Phật, mà không phải ai cũng mơ thấy.
Em cũng không biết thế nào? khả năng là lúc đó e mơ thấy ma ;)) :D

E xác định tầm mình chỉ Tam Quy (quy Phật-Pháp-Tăng thôi) tức là loại đầu đà, hạnh hạng bét nhất, còn Ngũ giới thì không đạt rồi. Vì ngay cả lúc thiếu niên, e cũng cùng lũ bạn trộm táo, dâu da xoan, bị ng ta chứi bới loạn, ăn trộm khuôn in của đứa bạn học, rồi bắt nạt trẻ con, câu ếch nhái, sát sinh... nói chung đủ cả. Lớn lên tý cùng lũ bạn vít ga đua xe ở đường Liễu Giai hồi mới mở, rồi xem trộm phim sex, giờ vẫn vào đều những thớt có nhiều mợ ăn mặc hở hang của otofun..:))
Đại ý là đầu óc e trần tục nên đọc kinh kệ khó hiểu thâm sâu.
Nhưng thớt này có 1 số cụ diễn giải kinh sách xem cũng hay vì hiểu được một số thần chú hay lời kinh lúc bé đọc tiếng Phạn nhưng phiên âm kiểu Hán, rồi kiểu Việt, nó chả thành ra cái gì cả
Còn dẫn chứng ra hàng chương kinh để giải thích thuyết luân hồi thì thật là e cũng chả hiểu gì
Em có ý kiến giống cụ,

Em đọc đâu đó có 1 thí nghiệm là họ cho người bệnh sắp chết nằm lên trên 1 cái cân rất chính xác, toàn thân được đóng gói trong môi trường tiêu chuẩn, rồi khi người bệnh chết thì cân tụt mất từ 2 đến 4g tùy người, họ kết luận là có 1 phần thuộc cơ thể nặng 2-4g đã rời đi, còn gọi nó là gì thì cũng được. Nếu thí nghiệm này là thật thì món rời đi đó có lẽ là kiếp sau, em nghĩ vậy.

Vấn đề các cụ đang nói về, em cũng đã tự hỏi, kinh kệ là gì? Nó nói cái gì? Thì em đã nghe 1 Đại sư giảng rằng, ngày xưa, khi Đức Phật tại thế, ổng giảng bày cho người hữu duyên gặp ổng cách sống, cách tu sao cho giác ngộ, cho khỏi khổ, và những người hữu duyên này lại xuất thân khác nhau, nghề nghiệp tuổi tác khác nhau, nên việc giảng bày này là khác nhau, bỗ bã có, văn vẻ có. Đại khái, khi ngài ở trong rừng, một người là a-bê-xê đến xin làm học trò, ngài bảo “này a-bê-xê, mày hãy đi xuống suối, múc xô nước lên đây..”. Vài trăm năm sau, học trò của ngài thành tịu, ghi chép câu chuyện lại thành kinh kệ, đầu tiên tiếng Phạn, Ấn gì đó, sau dịch ra tiếng Hán, tiếng Nôm…Trong các bài giảng ngài để lại ngoài Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, thì ghi chép rất rất nhiều kinh kệ khác.

Và nếu mình không hiểu gì, mà cứ thắp hương thành kính, gõ mõ đều đều rồi đọc “này a-bê-xê, mày hãy đi xuống suối, múc xô nước lên đây..” thì để làm gì? Đó chưa kể qua quá trình dịch, còn có sai số nữa, thì sẽ ra gì???

Cụ nào thông thạo, xin cho một đoạn nội dung kinh để mở mang thêm,
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top