em không tin cũng không phủ nhận, do chưa có cơ sở nào chứng minh hay dẫn chứng thực tế được công nhận 

Vâng, quan điểm cá nhân luôn rất nhiều chiều, nhiều hướng, mỗi chúng ta đều có quan điểm riêng của m và, tìm cách bảo vệ nó trước các luận điểm khác một cách phù hợp.
Nếu chỉ giữ khư khư quan điểm mà chưa có luận chứng phù hợp thì ta để đó và tìm đọc thêm nữa, tìm cách thấu triệt nó hoặc các căn cứ hợp lý từ những luận cứ khác phù hợp, khi đó thì việc tranh luận một vđ sẽ mở ra nhiều hướng hơn, có ý nghĩa hơn.
E cũng rất mong các cụ đưa ra quan điểm mới, góc nhìn khác để có thể xem xét thấu đáo hơn những vđ mà, chưa ai có kinh nghiệm trải qua.
Trên tinh thần cầu thị em xung phong giơ tay nêu quan điểm khác biệt với cụ.Cũng ko hẳn như vậy ạ.
Nếu mình cố đọc để hiểu nó thì cái tâm ham hiểu sẽ dẫn dắt, đôi khi tạo nên cái hiểu thiên kiến và sai lệch, một vc sai thì ngàn việc rối.
Cứ đọc và đọc, đừng cố hiểu cho tới khi tích luỹ đủ mọi nhân duyên, tường tận nhiều lẽ sống, chứng kiến nhiều cuộc đời và lúc nào đó, tự nhiên sẽ đại ngộ ra, khi đó mới là nội dung đích thực, còn đọc như các cụ Hồi giáo, giải nghĩa thành muôn hình vạn trạng rùi bem nhau suốt ngày cũng vì "ham" đọc.
Chúc cụ tinh tấn...
Thỏ xin giúp bác 1 tay hiệu đính và làm rõ khái niệm Văn- Tư- Tu. Khái niệm này nghe rất quen, rất nhiều nhưng ít khi được trình bày cà bình giảng chi tiết rõ ràng. Mong còm này của Thỏ sẽ mang lại chút lợi ích cho mọi người.Trên tinh thần cầu thị em xung phong giơ tay nêu quan điểm khác biệt với cụ.
Quan điểm của em : Đọc kinh văn mà không hiểu, thì sẽ dẫn đến thực hành sai. Cái xác xuất " cứ đọc đi rồi đến một lúc nào đó đại ngộ " rất là nhỏ, thậm chí bằng không. Ngay cả các bậc cao tăng đại đức đương thời, tinh thông kinh kệ các loại, hiểu kinh này như lòng bàn tay cũng chưa chắc " đại ngộ " , huống gì người thường . Thậm chí em cho là nếu đọc vẹt kinh này có thể dẫn tới " Ngộ " không phải theo nghĩa tiếng Hán, mà là nghĩa dân gian tiếng Việt.
Học kinh văn cũng giống như học tiểu học lên đại học, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, rồi mới nâng cao trình độ lý luận lên bằng học và hiểu kinh văn, sau đó là tư duy và thực hành. Em xin nhấn mạnh là học và hiểu chứ không phải là đọc.
Tiền nhân đã đúc kết : Văn - Tu- Tư (Văn: học và hiểu → Tư: tư duy, liên hệ bản thân → Tu: thực hành).
Như vậy, trước khi học kinh văn, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, kinh văn cơ sở. Khi học kinh văn ta cần phải hiểu rõ ràng được nội dung ý nghĩa. Nói một cách khác, học kinh văn ta phải được bậc chân tu nàò đó am hiểu sâu sắc bộ kinh giảng nghĩa. Đặc biệt bộ kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh " kim chỉ nam " của Thiền Tông ở cái tầng lý luận cao cấp, nên học nó mà chưa học các bộ kinh cơ sở khác, rồi lại không có thầy giảng giải, rồi lại tự học, thì khả năng cao ta rơi vào " Chấp ".
Tất nhiên lý luận của em có thể không phù hợp với Mật Tông với các trì chú, mật ngữ, bùa pháp. Nhưng mà Mật Tông đọc mà không có thầy ngồi cạnh hướng dẫn khẩu ngữ thì càng dễ " Tẩu hỏa nhập ma ".![]()
Vâng em cảm ơn cụ đã làm rõ ngữ nghĩa của Văn - Tu -Tư.Thỏ xin giúp bác 1 tay hiệu đính và làm rõ khái niệm Văn- Tư- Tu. Khái niệm này nghe rất quen, rất nhiều nhưng ít khi được trình bày cà bình giảng chi tiết rõ ràng. Mong còm này của Thỏ sẽ mang lại chút lợi ích cho mọi người.
Văn- Tư - Tu là 3 ( ba) Giai Đoạn Thực Hành Pháp: Văn (lắng nghe giáo lý), Tư (quán chiếu giáo lý), và Tu (thực hành thiền định).
Lộ trình này bảo đảm rằng Phật pháp không chỉ dừng lại ở tri thức lý thuyết, mà trở thành trí tuệ sống động, hiện tiền:
1- Văn (Tạng ngữ: ཐོས་པ། Thoe Pa) — “Hiểu Biết Có Được Từ Tri Thức Của Người Khác”
• Đây là giai đoạn tiếp nhận giáo pháp từ nguồn đáng tin cậy — một bậc thầy, kinh điển, hay lời truyền khẩu.
• Lúc này, sự hiểu biết vẫn chưa phải của riêng bạn; nó còn mang tính lý thuyết, gián tiếp.
2- Tư – Quán chiếu (བསམ་པ། Sam Pa) — “Tuệ Giác Cá Nhân”
Cá nhân suy tư, phân tích và khảo xét những điều đã học để kiểm nghiệm tính hợp lý và sự tương quan với bản thân.
• Qua sự quán chiếu lặp đi lặp lại, giáo pháp thấm sâu vào tâm thức, trở thành quan kiến của chính bạn.
• Ví dụ: Hiểu về Tính Không không chỉ là một khái niệm, mà là một cái thấy hợp lý dựa trên duyên khởi.
3- Tu – Thực chứng (སྒོམ་པ། Gom Pa hoặc སྒྲུབ་པ། Drup Pa) — “Thực Chứng Thân Tâm”
• Đây là sự chứng ngộ trực tiếp qua thiền định và trong đời sống thường nhật.
• Những gì bạn đã học và quán chiếu giờ đây được đưa vào thực hành sống động từng khoảnh khắc.
• Ví dụ: Khi sân khởi lên, bạn lập tức vận dụng cái thấy về Vô Thường hay Vô Ngã để hóa giải nó.
“Văn là cầm lấy tấm bản đồ. Tư là học cách đọc nó. Tu là bước đi trên địa hình ấy.”
Nếu thiếu sự hội nhập trọn vẹn ba giai đoạn này, giáo pháp sẽ chỉ là tri thức chết – không được sử dụng, và dần dần bị lãng quên.
Về Mật chú hay còn gọi là Chân ngôn - Mantra thì được phân loại tùy theo cấp độ Mật.Vâng em cảm ơn cụ đã làm rõ ngữ nghĩa của Văn - Tu -Tư.
Nhân đây em cũng bổ xung thêm là riêng Chú Đại Bi, thì khi đọc không cần hiểu nghĩa vì nó là Mật ngữ, và đọc sai không sao vì Bồ Tát Quán Thế Âm bảo đọc sai không sao, miễn là thành tâm. Chú đại bi có lẽ là kinh văn đựng tung nhiều nhất trong các loại kinh văn.
Ủa? có cả việc này hả cụ?....vì Bồ Tát Quán Thế Âm bảo đọc sai không sao, miễn là thành tâm.....
Thật mà cụ, trong kinh văn, Bồ Tát quán Thế âm có giảng, em trích cụ đọc :Ủa? có cả việc này hả cụ?
Trước thấy ông cụ nhà e bảo là thần chú đó là hồng danh của bao nhiêu vị Phật ghép lại?
E thì cũng không rõ là những ai? dù giờ vẫn thuộc lòng, nhưng đọc vẹt thôi, chưa biết chấm câu, ngắt ở đâu để đúng tên các vị đó?
Còn ngay cả Quan Âm bồ tát cũng không có thực như Đức Tất Đạt đa (Thích Ca)
Trước tìm hiểu hình như vị Bồ Tát này cũng là Pháp thân 1 vị Phật nào đó hóa hiện ra thì phải???
Mà trong này các cụ kiến thức thâm sâu quá. Kiểu như hoằng pháp-truyền đạo thì đúng hơn?
E trần tục nghe u mê luôn, mong có 1 cụ nào giải thích kiểu biện chứng-nguyên tử-lượng tử vật lý khai sáng thì tốt.
Như câu Bát nhã ba la mật: Yết đế, Yết đế.....Hóa ra, tiếng Phạn nghĩa là: vượt qua, vượt qua....kiểu như động viên
Những người niệm chú tu luyện có chút pháp lực hay khẩu lực gì đó, rung động cùng tần số với các vị Chảnh đẳng chánh giác thì tụng lên có thần lực sẽ linh ứng....chứ tầm như loại e thì có phổ nhạc mà hát cũng chả có ý nghĩa gì cả
Đại ý là chủ đề này tạm hiểu là: có các thực thể tồn tại xung quanh chúng ta, dạng sóng từ trường ở các tần số nhất định, (có thể chủ ý hoặc không), họ hay chúng ta có lúc giao thoa với nhau.
Nếu ở dạng sóng vật lý thì đa phần sinh vật sau khi chết, tạm gọi là sóng đó là linh hồn sẽ tồn tại 1 thời gian là tan biến mất. Một số ít tồn lại lâu hơn...
Rất có thể khoa học sau này sẽ có máy móc đo hoặc ghi nhận rõ rệt được hiện tượng này. E tin là như vậy
Về tiền kiếp hậu kiếp, 18 tầng địa ngục, chó ngao, cầu vồng, canh Mạnh Bà, Vọng Cảnh đài... đều là sản phẩm của 1 hay nhiều tác giả xưa và đều có mục đích như đã nói thôi.
Còn e thấy các cách giải thích hiện chưa thuyết phục lắm
Như trên lão nói là tu theo trường phái (tạm gọi là tha lực, kết hợp). Còn trường phái tự lực thì có thể quan điểm đuổi bò/gà/vịt... Trong mình đã là thành công rồi.Thật mà cụ, trong kinh văn, Bồ Tát quán Thế âm có giảng, em trích cụ đọc :
“Nếu có chúng sinh nào trì tụng chú này, dù âm đúng hay chưa đúng, chỉ cần tâm thành thì chư Phật, Bồ Tát đều gia hộ và được lợi ích.”
Em Việt hoá thành Nghe Nhớ Tập được không Thầy.Thỏ xin giúp bác 1 tay hiệu đính và làm rõ khái niệm Văn- Tư- Tu. Khái niệm này nghe rất quen, rất nhiều nhưng ít khi được trình bày cà bình giảng chi tiết rõ ràng. Mong còm này của Thỏ sẽ mang lại chút lợi ích cho mọi người.
Văn- Tư - Tu là 3 ( ba) Giai Đoạn Thực Hành Pháp: Văn (lắng nghe giáo lý), Tư (quán chiếu giáo lý), và Tu (thực hành thiền định).
Lộ trình này bảo đảm rằng Phật pháp không chỉ dừng lại ở tri thức lý thuyết, mà trở thành trí tuệ sống động, hiện tiền:
1- Văn (Tạng ngữ: ཐོས་པ། Thoe Pa) — “Hiểu Biết Có Được Từ Tri Thức Của Người Khác”
• Đây là giai đoạn tiếp nhận giáo pháp từ nguồn đáng tin cậy — một bậc thầy, kinh điển, hay lời truyền khẩu.
• Lúc này, sự hiểu biết vẫn chưa phải của riêng bạn; nó còn mang tính lý thuyết, gián tiếp.
2- Tư – Quán chiếu (བསམ་པ། Sam Pa) — “Tuệ Giác Cá Nhân”
Cá nhân suy tư, phân tích và khảo xét những điều đã học để kiểm nghiệm tính hợp lý và sự tương quan với bản thân.
• Qua sự quán chiếu lặp đi lặp lại, giáo pháp thấm sâu vào tâm thức, trở thành quan kiến của chính bạn.
• Ví dụ: Hiểu về Tính Không không chỉ là một khái niệm, mà là một cái thấy hợp lý dựa trên duyên khởi.
3- Tu – Thực chứng (སྒོམ་པ། Gom Pa hoặc སྒྲུབ་པ། Drup Pa) — “Thực Chứng Thân Tâm”
• Đây là sự chứng ngộ trực tiếp qua thiền định và trong đời sống thường nhật.
• Những gì bạn đã học và quán chiếu giờ đây được đưa vào thực hành sống động từng khoảnh khắc.
• Ví dụ: Khi sân khởi lên, bạn lập tức vận dụng cái thấy về Vô Thường hay Vô Ngã để hóa giải nó.
“Văn là cầm lấy tấm bản đồ. Tư là học cách đọc nó. Tu là bước đi trên địa hình ấy.”
Nếu thiếu sự hội nhập trọn vẹn ba giai đoạn này, giáo pháp sẽ chỉ là tri thức chết – không được sử dụng, và dần dần bị lãng quên.
Dạ không nên vì không đủ nghĩa. Văn: nghe Pháp, học Pháp, đọc kinh sách, tham khảo Đạo hữu, hỏi Pháp các Chư Tăng..... . Tư : Tự ngẫm, tự xét, ghi nhớ, đối chiếu... Tu: Tập Thiền định, kiểm soát Tâm, quán chiếu Ngũ Uẩn Giai không.....Em Việt hoá thành Nghe Nhớ Tập được không Thầy.
Em cho rằng ác quả là kết quả xấu, chiêu là gọi lại, báo = ứng, cảm : nhận, văn: nghe, khướu: ngửi. Ghép thành: nhận lại được kết quả xấu thông quá nghe, chắc là nghe mắng chửi ứng với việc mắng chửi người khác; nhận lại kết quả xâú thông quá ngửi, có lẽ là ngửi mùi khai, ứng với việc đái bậy ngoài đườngNhân tiện đây, em đề nghị các cụ tinh thông Phật học, trích dẫn kinh văn thì giảng nghĩa tóm tắt đoạn văn, chú giải các từ/ câu Hán Việt khó hiểu giúp chúng em với. Em nói thật là em đọc đoạn văn mà cụ
OUMOUM trích dẫn Kinh Lăng Nghiêm, em không hiểu rõ ý nghĩa của đoạn văn và khá nhiều từ Hán Việt nhất là các danh từ.em cũng không biết nốt.
Ví dụ như các cụ giảng: Văn Báo chiêu cảm ác quả , Khứu báo chiêu cảm ác quả là gì...vv...thì bọn em mới biết sợ và nhập tâm chứ.
Thầy trong trong câu 1 chữ cũng là thầy được không cụ. Học 1 chữ gọi thầy 1 lần. Cụ hiểu vui vẻ tý đi, coi như gọi vui là không thấy tổn gì cả.Dạ không nên vì không đủ nghĩa. Văn: nghe Pháp, học Pháp, đọc kinh sách, tham khảo Đạo hữu, hỏi Pháp các Chư Tăng..... . Tư : Tự ngẫm, tự xét, ghi nhớ, đối chiếu... Tu: Tập Thiền định, kiểm soát Tâm, quán chiếu Ngũ Uẩn Giai không.....
Tuy nhiên, theo Thỏ, miễn bác cảm thấy Dễ tìm, dễ thấy và dễ lấy thì cũng chả sao. Vì cách gọi cũng chỉ là phương tiện.
P/s: Bác đừng gọi Thỏ là Thầy. Tổn Phước của Thỏ và như thế thành ra khó trao đổi chia sẻ kiến thức.
Định viết cái gì đó mà ntn cũng khó thật.Trên tinh thần cầu thị em xung phong giơ tay nêu quan điểm khác biệt với cụ.
Quan điểm của em : Đọc kinh văn mà không hiểu, thì sẽ dẫn đến thực hành sai. Cái xác xuất " cứ đọc đi rồi đến một lúc nào đó đại ngộ " rất là nhỏ, thậm chí bằng không. Ngay cả các bậc cao tăng đại đức đương thời, tinh thông kinh kệ các loại, hiểu kinh này như lòng bàn tay cũng chưa chắc " đại ngộ " , huống gì người thường . Thậm chí em cho là nếu đọc vẹt kinh này có thể dẫn tới " Ngộ " không phải theo nghĩa tiếng Hán, mà là nghĩa dân gian tiếng Việt.
Học kinh văn cũng giống như học tiểu học lên đại học, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, rồi mới nâng cao trình độ lý luận lên bằng học và hiểu kinh văn, sau đó là tư duy và thực hành. Em xin nhấn mạnh là học và hiểu chứ không phải là đọc.
Tiền nhân đã đúc kết : Văn - Tu- Tư (Văn: học và hiểu → Tư: tư duy, liên hệ bản thân → Tu: thực hành).
Như vậy, trước khi học kinh văn, ta phải hiểu giáo lý cơ bản, kinh văn cơ sở. Khi học kinh văn ta cần phải hiểu rõ ràng được nội dung ý nghĩa. Nói một cách khác, học kinh văn ta phải được bậc chân tu nàò đó am hiểu sâu sắc bộ kinh giảng nghĩa. Đặc biệt bộ kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh " kim chỉ nam " của Thiền Tông ở cái tầng lý luận cao cấp, nên học nó mà chưa học các bộ kinh cơ sở khác, rồi lại không có thầy giảng giải, rồi lại tự học, thì khả năng cao ta rơi vào " Chấp ".
Tất nhiên lý luận của em có thể không phù hợp với Mật Tông với các trì chú, mật ngữ, bùa pháp. Nhưng mà Mật Tông đọc mà không có thầy ngồi cạnh hướng dẫn khẩu ngữ thì càng dễ " Tẩu hỏa nhập ma ". Tất nhiên là trừ Chú Đại bi, đọc sai không sao, miễn là thành tâm.
Bác hiểu đúng đấy ạ, đó là câu chỉ 2 trong Lục ( 6) căn vì khi thân tứ đại được phát sinh, thì Lục căn cũng dựa vào đó mà phát triển. Vậy thế nào là Lục căn? Căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẫy nở, tạo thành. Lục căn thì gồm có:Em cho rằng ác quả là kết quả xấu, chiêu là gọi lại, báo = ứng, cảm : nhận, văn: nghe, khướu: ngửi. Ghép thành: nhận lại được kết quả xấu thông quá nghe, chắc là nghe mắng chửi, nhận lại kết quả xâú thông quá ngửi, có lẽ là ngửi mùi thối.
Người ta nói vậy để khuyến khích kẻ thiểu năng đỡ thấy khó mà thoái lui, lâu dần cũng nảy được cái mầm Bồ đề, kiếp sau cũng có tý vốn đỡ thọ khổ.Vâng em cảm ơn cụ đã làm rõ ngữ nghĩa của Văn - Tu -Tư.
Nhân đây em cũng bổ xung thêm là riêng Chú Đại Bi, thì khi đọc không cần hiểu nghĩa vì nó là Mật ngữ, và đọc sai không sao vì Bồ Tát Quán Thế Âm cho phép đọc sai , miễn là thành tâm. Chú đại bi có lẽ là kinh văn đựng tung nhiều nhất trong các loại kinh văn.
E cũng chưa hiểu cụ lấy "Chú Đại Bi thực chất là danh hiệu của các Hóa thân của Đức Quán Âm" ở đâu ra nữa,Về Mật chú hay còn gọi là Chân ngôn - Mantra thì được phân loại tùy theo cấp độ Mật.
Tổng quan về Mật Thừa là Thừa không dành cho số đông vì đòi hỏi căn cơ, trí tuệ. Mật thừa có thể tạm chia ra 2 loại là Mantrayana - Chân ngôn thừa và Tantrayana- Mật điển thừa. Trong này lại gồm 3 mức độ là Ngoại Mật, Nội Mật và Vô thượng Mật.
Hành trì Mật thừa lại phải trải qua
1- Tác Mật
2- Hành Mật
3- Du già Đạo sư
4- Du già Tối thượng.
Các Minh chú hoặc Chú mà ai cũng có thể được phép đọc, trì tụng thường thuộc về 1 và 2. Lý do đơn giản là Phật tử ai cũng muốn mình sẽ học theo, sẽ thành các bậc Giác ngộ an bình như Đức Quán Thế Âm, Đức Di Lặc, Đức A Di Đà, Đức Địa Tạng.... và các Ngài thực chất phản chiếu Tâm thức an lành nên các câu Minh chú, Chân ngôn của các Ngài là phổ thông cho Đại chúng.
Chú Đại Bi thực chất là danh hiệu của các Hóa thân của Đức Quán Âm nên chúng sinh có thể tùy nghi tụng niệm mà không sợ sai lệch miễn là phải Tâm thành.
Em gu gờ ra cái sóng não này:Ủa? có cả việc này hả cụ?
Trước thấy ông cụ nhà e bảo là thần chú đó là hồng danh của bao nhiêu vị Phật ghép lại?
E thì cũng không rõ là những ai? dù giờ vẫn thuộc lòng, nhưng đọc vẹt thôi, chưa biết chấm câu, ngắt ở đâu để đúng tên các vị đó?
Còn ngay cả Quan Âm bồ tát cũng không có thực như Đức Tất Đạt đa (Thích Ca)
Trước tìm hiểu hình như vị Bồ Tát này cũng là Pháp thân 1 vị Phật nào đó hóa hiện ra thì phải???
Mà trong này các cụ kiến thức thâm sâu quá. Kiểu như hoằng pháp-truyền đạo thì đúng hơn?
E trần tục nghe u mê luôn, mong có 1 cụ nào giải thích kiểu biện chứng-nguyên tử-lượng tử vật lý khai sáng thì tốt.
Như câu Bát nhã ba la mật: Yết đế, Yết đế.....Hóa ra, tiếng Phạn nghĩa là: vượt qua, vượt qua....kiểu như động viên
Những người niệm chú tu luyện có chút pháp lực hay khẩu lực gì đó, rung động cùng tần số với các vị Chảnh đẳng chánh giác thì tụng lên có thần lực sẽ linh ứng....chứ tầm như loại e thì có phổ nhạc mà hát cũng chả có ý nghĩa gì cả
Đại ý là chủ đề này tạm hiểu là: có các thực thể tồn tại xung quanh chúng ta, dạng sóng từ trường ở các tần số nhất định, (có thể chủ ý hoặc không), họ hay chúng ta có lúc giao thoa với nhau.
Nếu ở dạng sóng vật lý thì đa phần sinh vật sau khi chết, tạm gọi là sóng đó là linh hồn sẽ tồn tại 1 thời gian là tan biến mất. Một số ít tồn lại lâu hơn...
Rất có thể khoa học sau này sẽ có máy móc đo hoặc ghi nhận rõ rệt được hiện tượng này. E tin là như vậy
Về tiền kiếp hậu kiếp, 18 tầng địa ngục, chó ngao, cầu vồng, canh Mạnh Bà, Vọng Cảnh đài... đều là sản phẩm của 1 hay nhiều tác giả xưa và đều có mục đích như đã nói thôi.
Còn e thấy các cách giải thích hiện chưa thuyết phục lắm
Hix, đau nhưng mà cụ nói đúng, không chỉ em mà kha khá cụ trên này, chỉ mới ở bước đầu tìm hiểu Phật pháp nên học kinh văn mà không có thầy giảng nghĩa là hẹo thật cụ ạ.Định viết cái gì đó mà ntn cũng khó thật.
"Văn tu tư" là cái cách dành cho lũ trẻ trâu từ đại học trở xuống, vì chúng còn nhỏ, chưa có nền gốc tự chủ, cần học theo thứ tự: nghe trước → hiểu bằng suy nghĩ → tập luyện thành thói quen., đó là cách đọc sách giáo khoa, sách tập làm văn...
Còn chữ Kinh trong kinh văn không phải từ thuần Việt, mà chữ hán nó gồm bộ mịch mang nghĩa sợi tơ, thêm xuyên suốt dụng công, nó là đường chuẩn để làm theo, là đường dọc (kinh lạc) để thi hành nên ít dành cho ấu tập nghe, nghĩ, học...
Người đọc Kinh văn phải cách vật trí tri, chí thành thông thần, Pg gọi là chỉ quán, đi thảng vào vđ chứ ko phải tiệm cận dần dần nên ko có gì phải "văn tư tu"
Còn như Chu Hy khi giảng Tứ thư đã nói:
“Văn tư tu giả, học chi thứ dã. Nhược thâm nhập ư kinh điển, ưng dĩ chí thành vi bản (應以至誠為本)"
"Đọc (văn) và suy (tư) rồi làm (tu) là sự học thứ yếu. Nếu muốn thâm nhập sâu vào kinh điển, phải lấy lòng thành làm gốc"
Thiền tông cũng nhấn mạnh:
“Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.”
Bất lập văn tự: Không lệ thuộc vào kinh sách, văn tự, vì chúng chỉ là phương tiện, không phải bản chất của chân lý.
Giáo ngoại biệt truyền: Chân lý được truyền trực tiếp từ tâm đến tâm, không qua các giáo điều cứng nhắc.
Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật: Nhìn thẳng vào bản tâm, nhận ra bản tánh (tánh Không hoặc Phật tánh) để đạt giác ngộ, không cần qua các bước tuần tự như học tập hay suy ngẫm.
Thiền tông đề cao sự trực giác, trải nghiệm trực tiếp, và thường bác bỏ việc bám víu vào tri thức lý thuyết hay các phương pháp tuần tự.
Nên muốn "chí thành" hay "trực chỉ nhân tâm" thì "tụng trì vạn biến, diệu lý tự minh" chứ văn với tư thế quái nào được với Kinh.
Còn chuyện giảng nghĩa thì chỉ dành cho trẻ em, mà chưa chắc người giảng đã hiểu đúng ý đồ của người lập văn tự kiểu mấy ông viết văn đi nghe giảng lại trích đoạn của mình thì mồm miệng há hốc, thế éo nào chúng nó lại giảng nghĩa ra thế được nhỉ
Còn như cụ nói "tẩu hoả nhập ma" gì đó thì là chuyện hàng ngày, có sao đâu, cơ duyên thấp kém, nghiệp lực chướng ma còn cuồng mong thành đạo thì thế còn nhẹ, tịch tại đương trường cũng ai quan tâm đâu vì đâu phải thứ dành cho trẻ lên ba mà thương với xót, vô duyên thì vô phận.
Em có ý kiến giống cụ,Đây e nghiêng về thuyết của cụ này, đại để dùng khoa học biện chứng 1 tý
Trong này nhiều cụ hay dẫn kinh kệ ra thì .... thực tế nên coi đó là môn khoa học, các cụ nghiên cứu sâu cảnh giới cao có thể coi là 1 học giả, còn để đem ra giải thích thì e nghĩ cũng không hiểu lắm, hàn lâm quá
E cũng cho là các cụ đó theo Phật giáo thì dẫn chứng kinh sách bổ sung cho niềm tin. Cũng không sao cả. Cái đó tốt đẹp, thiện lương
Kiểu như mấy GS bên viện thiên văn NASA giải thích là ngôi sao này ngôi sao kia, cách dải ngân hà bnhieu năm ánh sáng, có sự sống, vì chúng tôi thấy có nước có khí quyển có abc.. trưng ra 1 số ảnh nữa, thì e cũng biết vậy chứ còn phải có 1 số minh chứng nữa mình mới tin - tất nhiên là họ chả cần mình tin hay không. Tôn giáo cũng như vậy. (Còn đương nhiên những người nghiên cứu tu tập như mấy cụ đó là những người đáng ngưỡng mộ rồi)
Cụ ông nhà e cũng theo phật giáo, nên các cụ kia dẫn chứng các đầu kinh sách e thấy cụ ông đều có, vì thấy cụ ý chịu mua lắm còn Quy y lên Bồ Tát giới gì đó, đi đều Bát Quan Trai, hết Chùa Bằng, rồi Lý Triều....
Ngày bé sợ e nghịch ngợm cụ cũng cho lên chùa Tam quy, cũng bắt e đọc kinh kệ các kiểu, rồi thuộc chú Đại Bi. Để đc Phật phù hộ hóa giải độ đẽo các thứ
Lúc bé e nghe lời nên chăm chỉ, chứ thú thực em đọc kinh như con vẹt thôi chứ hiểu gì.
Rồi cụ bảo phải nhìn ảnh Phật quán tưởng bla bla, đôi ba lần e cũng có mơ thấy Phật bà, rồi 1 số các vị thần thánh nào đó, cả Tôn Ngộ Không (chắc do xem đi xem lại Tây Du ký cả truyện lẫn phim). Song có đợt theo cụ lên chùa Chân Tiên bao sái, thấy các cụ đồng đạo lại bảo có khi là ma hóa giả Phật, rồi phải mơ thấy hòa quang dịu không chói mới là mơ thấy Phật, mà không phải ai cũng mơ thấy.
Em cũng không biết thế nào? khả năng là lúc đó e mơ thấy ma![]()
E xác định tầm mình chỉ Tam Quy (quy Phật-Pháp-Tăng thôi) tức là loại đầu đà, hạnh hạng bét nhất, còn Ngũ giới thì không đạt rồi. Vì ngay cả lúc thiếu niên, e cũng cùng lũ bạn trộm táo, dâu da xoan, bị ng ta chứi bới loạn, ăn trộm khuôn in của đứa bạn học, rồi bắt nạt trẻ con, câu ếch nhái, sát sinh... nói chung đủ cả. Lớn lên tý cùng lũ bạn vít ga đua xe ở đường Liễu Giai hồi mới mở, rồi xem trộm phim sex, giờ vẫn vào đều những thớt có nhiều mợ ăn mặc hở hang của otofun..
Đại ý là đầu óc e trần tục nên đọc kinh kệ khó hiểu thâm sâu.
Nhưng thớt này có 1 số cụ diễn giải kinh sách xem cũng hay vì hiểu được một số thần chú hay lời kinh lúc bé đọc tiếng Phạn nhưng phiên âm kiểu Hán, rồi kiểu Việt, nó chả thành ra cái gì cả
Còn dẫn chứng ra hàng chương kinh để giải thích thuyết luân hồi thì thật là e cũng chả hiểu gì