- Biển số
- OF-67865
- Ngày cấp bằng
- 7/7/10
- Số km
- 2,343
- Động cơ
- 1,277,002 Mã lực
Ngôn ngữ không phù hợp
Cấm viết bài trong thớt
Cấm viết bài trong thớt
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:
Em dốt thật đấy cụ ạ. Lại lười đọc nữa. Thực sự cảm ơn các cụ giải đáp các thắc mắc.Đây là chém gió mà bác, nhất là chém gió Ô ép lắm khi gặp phải một tay tổ chuyên gia nhưng toàn đặt những câu hỏi ngớ ngẩn để anh em ta phải nghĩ. Đấy cũng là một cách dạy dỗ đó!
Thường bọn khôn ngoan thật sự họ không rảnh chém gió. Có một bọn khôn ngoan giả dốt để chém gió ra việc. Còn lại là một bọn hùng hồn rổn rảng thì đa số là bọn dốt, đặc biệt dốt nhất trong những thằng dốt là bọn không biết là mình không biết cái gì. Thành thử cái gì cũng tỏ ra là biết. Như em chả hạn.
Duy Thức Tông – còn gọi là Pháp Tướng Tông – không phải tự nhiên mà xuất hiện như một nhánh độc lập trong lòng Phật giáo Đại thừa. Nó không phải một ý tưởng vụn vặt hay phát kiến triết học đơn lẻ, mà là một phản ứng mang tính hệ thống của Phật giáo trước hoàn cảnh lịch sử, xã hội và triết học cụ thể vào khoảng thế kỷ thứ IV đến V sau Công nguyên tại Ấn Độ. Thời kỳ này, triết học Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã đạt đến độ phát triển cực kỳ tinh vi. Các trường phái Bà La Môn như Số Luận (Sāṃkhya), Du Già (Yoga), Thắng Luận (Vaiśeṣika), và đặc biệt là hệ thống logic Nyāya đã xây dựng nên những nền tảng lý luận rất chặt chẽ để lý giải thế giới, con người, và con đường giải thoát. Phật giáo không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Đặc biệt, sau khi tư tưởng Trung Quán của Long Thọ nổi lên với lập trường “tánh không” và “trung đạo”, một khoảng trống mới xuất hiện: nếu tất cả các pháp đều không có tự tính, thì cái gì đang vận hành, đang mê lầm, và cần được giải thoát? Nếu không có thực thể nào tồn tại, vậy tu hành là chuyển hóa cái gì, và ai là người giác ngộ?Bác hỏi câu này thì em chịu, em chưa từng đọc thấy chỗ nào giảng về mục đích của các ngài khi phát triển lý luận Duy Thức. Nếu ý kiến cá nhân thì em giả định đó là sự cần thiết đào sâu tri thức để phát triển nền tảng lý luận, làm cơ sở để tu hành cho tinh tấn. Như em biết, đông tây triết luận có 3 ngành Duy tâm thì Duy thức là một ngành rất lớn chủ cho triết đông. Thành tựu Vĩ đại đó!
Em nhớ thoạt đầu khi đọc "Phật giáo tư tưởng luận" của bác sĩ Taiken do Cụ Quảng Độ dịch, có đoạn kể về quá trình xây dựng lý luận Duy Thức đưa ra ví dụ thời đó ở Ấn Độ có một loại bệnh về mắt mà ai bị thì nhìn cái gì màu đỏ cũng ra vàng khè. Những người lớn mới mắc thì họ biết cái gì vốn đỏ nay thành vàng nhưng người bị từ bé thì vàng tất. Câu hỏi đặt ra là vậy vàng hãy đỏ là do tự nó thế hay người mình nhận thấy thế? Thế là ngành Duy Thức ra đời.
Giờ em thấy lại thấy người ta thêm một số giác quan nữa rồi cụ.Muốn vod cụ mà máy nó gato, không cho. Con người chẳng thể là vật chất như gỗ đá dưới chân cũng chẳng thuần ý thức lơ lửng mông lung, bao năm nay đã thế. Là thực thể độc lập tồn tại between the lines, có đủ nước lửa đất khí của xác phàm và cái tâm thức 8 tầng tư duy … và cái gì hợp lý thì tồn tại.
Tính rối rắm của lý thuyết chẳng qua là sự bất lực của ngôn từ khi diễn đạt cái tự nhiên.
Em thì nghĩ rằng Tham là một định nghĩa: khi bạn thu hái, săn bắn quá nhu cầu sử dụng thì mới gọi là tham.Giờ em thấy lại thêm một số giác quan nữa rồi cụ.
Thêm 3 cái:
- Giác quan về không gian: tiền đình
- Giác quan về cơ duỗi cơ khớp
- Nội cảm quan: giác quan về đói, khát, thiếu ô xy..
Cái nội cảm quan khá hay, cũng là một yếu tố gây ra tham.
Đói, khát sinh ra ý thức để dành, dự phòng ấy cụ. Cơ bản do sinh tồn cả. Thiếu hụt tài nguyên, sinh ra dự trữ, rồi tham, rồi thành tính cách cá thể, quần thể, dân tộc. Ví dụ: dân Do thái sống ở vùng đó, rất thiếu tài nguyên, nên sinh ra tính cách ham tích trữ, đứng ở vị trí thuận lợi cho buôn bán trao đổi, nên thạo món kinh doanh. Dân Viking cũng ham tích trữ, nhưng ở vị trí đó, thì chỉ có đi ăn cướp, nên thạo món đánh đấm.Em thì nghĩ rằng Tham là một định nghĩa: khi bạn thu hái, săn bắn quá nhu cầu sử dụng thì mới gọi là tham.
Khi quá nhu cầu thì phần dư ra có thể sẽ bị hỏng, có thể làm cho người đến sau không còn để dùng.
Cá nhân em thì cứ thấy phù hợp là được, ví dụ, con người là loài ăn tạp, nên sẽ ăn mọi thứ mình có thể kiếm được, không từ chối và cũng không ăn một thứ quá nhu cầu.
Em xem các loạt phóng sự về nhóm người cổ xưa thì họ sống rất hòa hợp và gìn giữ tự nhiên, như người Kogi ở Colombia là một điển hình. Họ là bộ lạc nhưng lại có triết lý, sống văn minh.
Bác thật uyên thâm. Cảm ơn bác đã giảng.Duy Thức Tông – còn gọi là Pháp Tướng Tông – không phải tự nhiên mà xuất hiện như một nhánh độc lập trong lòng Phật giáo Đại thừa. Nó không phải một ý tưởng vụn vặt hay phát kiến triết học đơn lẻ, mà là một phản ứng mang tính hệ thống của Phật giáo trước hoàn cảnh lịch sử, xã hội và triết học cụ thể vào khoảng thế kỷ thứ IV đến V sau Công nguyên tại Ấn Độ. Thời kỳ này, triết học Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã đạt đến độ phát triển cực kỳ tinh vi. Các trường phái Bà La Môn như Số Luận (Sāṃkhya), Du Già (Yoga), Thắng Luận (Vaiśeṣika), và đặc biệt là hệ thống logic Nyāya đã xây dựng nên những nền tảng lý luận rất chặt chẽ để lý giải thế giới, con người, và con đường giải thoát. Phật giáo không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Đặc biệt, sau khi tư tưởng Trung Quán của Long Thọ nổi lên với lập trường “tánh không” và “trung đạo”, một khoảng trống mới xuất hiện: nếu tất cả các pháp đều không có tự tính, thì cái gì đang vận hành, đang mê lầm, và cần được giải thoát? Nếu không có thực thể nào tồn tại, vậy tu hành là chuyển hóa cái gì, và ai là người giác ngộ?
Trong bối cảnh ấy, Duy Thức Tông ra đời không như một sự phủ định mà như một sự tiếp nối tất yếu, nhằm làm rõ cấu trúc vận hành của tâm thức – cái gốc của mê lầm cũng như cái nền của giải thoát. Các luận sư như Vô Trước và Thế Thân không đưa ra một hệ thống đối lập với Trung Quán, mà bổ sung bằng cách cung cấp một mô hình tâm lý học và nhận thức luận cực kỳ tinh vi. Tư tưởng cốt lõi của Duy Thức là “vạn pháp duy thức” – tức mọi hiện tượng trong thế giới mà ta nhận biết được đều là biểu hiện của tâm thức. Không có thế giới nào tồn tại độc lập bên ngoài chủ thể nhận thức; tất cả những gì ta thấy, nghe, nghĩ, tưởng… đều đã bị khúc xạ qua bộ máy tâm lý chủ quan. Nói cách khác, thế giới mà ta tưởng là "khách quan" thực chất là một hình ảnh đã qua xử lý của tâm. Ví dụ nổi tiếng trong các luận thư Duy Thức là trường hợp người bị bệnh về mắt: họ nhìn vật đỏ thành vàng. Người khỏe biết đó là hiện tượng sai lệch, nhưng nếu người ấy bị từ nhỏ, họ sẽ tin rằng màu vàng mới là thật. Vậy “thật” nằm ở đâu? Câu hỏi đó chính là khởi điểm của tư duy Duy Thức.
Hệ thống tám thức được xây dựng để lý giải toàn bộ tiến trình này – từ cảm giác thô sơ cho đến những rung động vi tế nhất của tâm. Trong đó, A-lại-da thức (thức thứ tám) đóng vai trò là “tàng thức” – nơi chứa toàn bộ chủng tử, tức các hạt giống của nghiệp, ký ức, thói quen và nhận thức. Mạt-na thức (thức thứ bảy) là dòng ý niệm bám chặt vào khái niệm “ta”, từ đó làm cơ sở cho sự phân biệt giữa “ngã” và “phi ngã”. Sáu thức còn lại là các kênh tiếp xúc với thế giới (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) – nhưng tất cả đều không thoát khỏi ảnh hưởng của thức tàng và tập khí. Mọi tri giác đều là phản ánh chủ quan, không có gì “nguyên sơ” hay “khách quan” hoàn toàn.
Như vậy, lý do sâu xa khiến Duy Thức Tông ra đời là để giải quyết khủng hoảng nhận thức: nếu tất cả đều là vọng tưởng, thì đâu là thực? Duy Thức không trả lời bằng niềm tin, mà bằng một hệ hình phân tích rõ ràng, đủ để hành giả nhìn lại chính mình như đang xem một cỗ máy vận hành – thấy rõ từng mắt xích của vô minh, tập khí, chấp ngã, phân biệt, khổ đau... Và từ đó, thực hành chuyển thức thành trí – biến A-lại-da thành Đại viên cảnh trí, Mạt-na thành Bình đẳng tánh trí, v.v. Không phải đợi đến sau khi chết mới mong giải thoát, mà ngay trong từng sát-na tâm thức, hành giả đã có thể quan sát và chuyển hóa.
Em hiểu vấn đề cụ đề cập vì bản thân em được học rất nhiều các môn về Xã hội học cũng như Triết học. Tham nó đúng như cụ nói, nó được hình thành bởi ý chí người lãnh đạo, có thể từ thủa sơ khai hình thành nên văn hóa của một vùng đất hoặc được điều chỉnh theo từng nhà lãnh đạo theo các mốc thời gian cụ thể. Bánh xe lịch sử mà, nó lăn đến đâu, văn hóa thay đổi đến đó.Đói, khát sinh ra ý thức để dành, dự phòng ấy cụ. Cơ bản do sinh tồn cả. Thiếu hụt tài nguyên, sinh ra dự trữ, rồi tham, rồi thành tính cách cá thể, quần thể, dân tộc. Ví dụ: dân Do thái sống ở vùng đó, rất thiếu tài nguyên, nên sinh ra tính cách ham tích trữ, đứng ở vị trí thuận lợi cho buôn bán trao đổi, nên thạo món kinh doanh. Dân Viking cũng ham tích trữ, nhưng ở vị trí đó, thì chỉ có đi ăn cướp, nên thạo món đánh đấm.
Cụ cứ coi rằng nhánh Khoa học (ví dụ lượng tử) đang nghiên cứu và củng cố lại lý thuyết và thực tế của một kiến thức có từ nền văn minh cổ xưa, họ đang viết lại quá khứ của một nền văn minh siêu việt.Bác thật uyên thâm. Cảm ơn bác đã giảng.
Ti diên, đoạn lượng tử ....các cái thì không nên ghép vào đây. Nó không có cơ sở và không cùng hệ quy chiếu, dễ rơi vào ngụy biện.
Phiêu phiêu thế lại hay. Vì tỉnh rồi cũng say mà say xong ta lại tỉnh. Nhưng nếu thế, khoa học nên thong thả lại để chúng mình còn phiêu cho bền.Cụ cứ coi rằng nhánh Khoa học (ví dụ lượng tử) đang nghiên cứu và củng cố lại lý thuyết và thực tế của một kiến thức có từ nền văn minh cổ xưa, họ đang viết lại quá khứ của một nền văn minh siêu việt.
Còn chúng ta thì đang tự học, tự hành và tự kết. Chúng ta đang ở cấp độ dưới khoa học, những thứ ta học được thì đều là bản thiếu khuyết hoặc dị bản. Hiện tại, em tin vào nhóm khoa học hơn vì chỉ có họ mới chứng minh được những triết lý mà cổ xưa để lại.
Cụ rất hay, tuy nhiên đó vẫn trên phương diện lý thuyết và chỉ làm người đọc thêm khó hiểu , kể cụ có những dẫn chứng liên hệ với thực tế thì tốt , như em đọc cụ xong là e cũng hoảng loạn luônĐiều thú vị là nhiều tư tưởng của Duy Thức Tông – tưởng như chỉ mang tính triết học hoặc tôn giáo – lại có những điểm gần gũi đáng kinh ngạc với khoa học hiện đại, đặc biệt là vật lý lượng tử và vũ trụ học.
Một trong những nguyên lý nổi bật của Duy Thức là: thế giới không tồn tại độc lập ngoài tâm thức. Những gì ta thấy, nghe, nhận biết đều là kết quả của quá trình nhận thức – chịu ảnh hưởng bởi nghiệp, tập khí và các chủng tử nằm sâu trong tàng thức. Cái gọi là “thực tại khách quan” thật ra chỉ là một hiện tượng được tạo ra bởi tâm.
Điều này nghe có vẻ trừu tượng, nhưng lại có sự tương đồng rõ ràng với các nguyên lý trong vật lý lượng tử. Ví dụ, trong thí nghiệm hai khe hở, khi một hạt như electron đi qua hai khe, nó có thể hành xử như sóng hoặc hạt – tùy thuộc vào việc có người quan sát hay không. Nếu không ai quan sát, nó tồn tại ở dạng xác suất, chưa cố định. Nhưng khi có thiết bị đo, nó “chọn” một trạng thái cụ thể. Nói cách khác: chỉ khi có quan sát, hiện tượng mới hình thành. Không có người quan sát, không có “thực tại” rõ ràng.
Đây là điểm gặp gỡ thú vị giữa Duy Thức và vật lý lượng tử: cả hai đều cho rằng nhận thức không chỉ phản ánh thế giới, mà còn tham gia tạo nên thế giới. Duy Thức gọi đó là “biến hiện của thức”, khoa học gọi là “sự phụ thuộc vào phép đo”.
Thậm chí, trong mô hình Vũ trụ Toàn Ký (Holographic Universe), các nhà vật lý cho rằng mọi thông tin của vũ trụ có thể được mã hóa trên một bề mặt hai chiều – từ đó tạo ra thế giới ba chiều mà ta trải nghiệm. Nghe qua, điều này rất gần với cách Duy Thức giải thích về thế giới hiện tượng: chỉ là biểu hiện tạm thời, không có tự tính, như ảnh trong gương, như giấc mơ – đều do tâm biến hiện.
Cũng tương tự như trong Duy Thức, vũ trụ lượng tử hiện đại không chấp nhận ý tưởng về một “thực tại tuyệt đối, khách quan” nằm ngoài nhận thức. Các nhà khoa học như John Wheeler từng nói: vũ trụ là một quá trình cần sự tham gia của người quan sát, không ai đứng ngoài cuộc.
Tuy Duy Thức không phải là khoa học, và các luận sư xưa không làm thí nghiệm trong phòng lab, nhưng những gì họ khám phá qua thiền định và phân tích tâm thức lại rất gần với những kết luận mà khoa học đang lần tìm qua phương trình và thực nghiệm. Cả hai – bằng hai con đường khác nhau – đều hướng đến một sự thật chung: thế giới không thể tách rời khỏi người đang nhận biết nó.
Em chỉ nhớ cố hoà thượng Thích Giác Khang thú nhận, khi ông tu tập cũng gặp khá nhiều nan giải mà không tự kiến giải được, cũng thọ giáo nhiều cao tăng mà vẫn không rốt ráo, cho đến khi đọc được “duy thức học” của Cư Sỹ Minh Tâm (bs Lê Đình Thám) thì rất nhiều điều vỡ ra. Từ đấy bản thân ông đã tự hệ thống kiến thức Phật học của mình và mới thật sự dám đi giảng pháp trên cái tư duy duy thức học. Cũng có nhiều người không đồng tình với cách tiếp cận này, còn chúng sinh bình dân để nuốt được không phải là chuyện dễ.Duy Thức Tông – còn gọi là Pháp Tướng Tông – không phải tự nhiên mà xuất hiện như một nhánh độc lập trong lòng Phật giáo Đại thừa. Nó không phải một ý tưởng vụn vặt hay phát kiến triết học đơn lẻ, mà là một phản ứng mang tính hệ thống của Phật giáo trước hoàn cảnh lịch sử, xã hội và triết học cụ thể vào khoảng thế kỷ thứ IV đến V sau Công nguyên tại Ấn Độ. Thời kỳ này, triết học Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã đạt đến độ phát triển cực kỳ tinh vi. Các trường phái Bà La Môn như Số Luận (Sāṃkhya), Du Già (Yoga), Thắng Luận (Vaiśeṣika), và đặc biệt là hệ thống logic Nyāya đã xây dựng nên những nền tảng lý luận rất chặt chẽ để lý giải thế giới, con người, và con đường giải thoát. Phật giáo không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Đặc biệt, sau khi tư tưởng Trung Quán của Long Thọ nổi lên với lập trường “tánh không” và “trung đạo”, một khoảng trống mới xuất hiện: nếu tất cả các pháp đều không có tự tính, thì cái gì đang vận hành, đang mê lầm, và cần được giải thoát? Nếu không có thực thể nào tồn tại, vậy tu hành là chuyển hóa cái gì, và ai là người giác ngộ?
Trong bối cảnh ấy, Duy Thức Tông ra đời không như một sự phủ định mà như một sự tiếp nối tất yếu, nhằm làm rõ cấu trúc vận hành của tâm thức – cái gốc của mê lầm cũng như cái nền của giải thoát. Các luận sư như Vô Trước và Thế Thân không đưa ra một hệ thống đối lập với Trung Quán, mà bổ sung bằng cách cung cấp một mô hình tâm lý học và nhận thức luận cực kỳ tinh vi. Tư tưởng cốt lõi của Duy Thức là “vạn pháp duy thức” – tức mọi hiện tượng trong thế giới mà ta nhận biết được đều là biểu hiện của tâm thức. Không có thế giới nào tồn tại độc lập bên ngoài chủ thể nhận thức; tất cả những gì ta thấy, nghe, nghĩ, tưởng… đều đã bị khúc xạ qua bộ máy tâm lý chủ quan. Nói cách khác, thế giới mà ta tưởng là "khách quan" thực chất là một hình ảnh đã qua xử lý của tâm. Ví dụ nổi tiếng trong các luận thư Duy Thức là trường hợp người bị bệnh về mắt: họ nhìn vật đỏ thành vàng. Người khỏe biết đó là hiện tượng sai lệch, nhưng nếu người ấy bị từ nhỏ, họ sẽ tin rằng màu vàng mới là thật. Vậy “thật” nằm ở đâu? Câu hỏi đó chính là khởi điểm của tư duy Duy Thức.
Hệ thống tám thức được xây dựng để lý giải toàn bộ tiến trình này – từ cảm giác thô sơ cho đến những rung động vi tế nhất của tâm. Trong đó, A-lại-da thức (thức thứ tám) đóng vai trò là “tàng thức” – nơi chứa toàn bộ chủng tử, tức các hạt giống của nghiệp, ký ức, thói quen và nhận thức. Mạt-na thức (thức thứ bảy) là dòng ý niệm bám chặt vào khái niệm “ta”, từ đó làm cơ sở cho sự phân biệt giữa “ngã” và “phi ngã”. Sáu thức còn lại là các kênh tiếp xúc với thế giới (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) – nhưng tất cả đều không thoát khỏi ảnh hưởng của thức tàng và tập khí. Mọi tri giác đều là phản ánh chủ quan, không có gì “nguyên sơ” hay “khách quan” hoàn toàn.
Như vậy, lý do sâu xa khiến Duy Thức Tông ra đời là để giải quyết khủng hoảng nhận thức: nếu tất cả đều là vọng tưởng, thì đâu là thực? Duy Thức không trả lời bằng niềm tin, mà bằng một hệ hình phân tích rõ ràng, đủ để hành giả nhìn lại chính mình như đang xem một cỗ máy vận hành – thấy rõ từng mắt xích của vô minh, tập khí, chấp ngã, phân biệt, khổ đau... Và từ đó, thực hành chuyển thức thành trí – biến A-lại-da thành Đại viên cảnh trí, Mạt-na thành Bình đẳng tánh trí, v.v. Không phải đợi đến sau khi chết mới mong giải thoát, mà ngay trong từng sát-na tâm thức, hành giả đã có thể quan sát và chuyển hóa.
Đây là cái em hỏi vì sao DTT được phát triển đó. Liệu có phải do nhiều cụ Bồ Tát luyện mãi không lên được tầng trên theo như các cụ La hán theo phương pháp cổ điển đời trước, nên phải tìm hướng đi mới. Nên DTT chỉ dành cho các cụ trình tiến sỹ này.Em chỉ nhớ cố hoà thượng Thích Giác Khang thú nhận, khi ông tu tập cũng gặp khá nhiều nan giải mà không tự kiến giải được, cũng thọ giáo nhiều cao tăng mà vẫn không rốt ráo, cho đến khi đọc được “duy thức học” của Cư Sỹ Minh Tâm (bs Lê Đình Thám) thì rất nhiều điều vỡ ra. Từ đấy bản thân ông đã tự hệ thống kiến thức Phật học của mình và mới thật sự dám đi giảng pháp trên cái tư duy duy thức học. Cũng có nhiều người không đồng tình với cách tiếp cận này, còn chúng sinh bình dân để nuốt được không phải là chuyện dễ.. Tuy nhiên, giảng và viết là 2 vấn đề khác nhau nên trước tác của ông chẳng có gì nhiều ngoài các bài giảng lưu truyền trên YouTube.
Tham thì không phải đâu cụ, tham nó nghĩa tiêu cực mà. Ở góc độ nào đó, có thể các cụ coi Phật giáo là một cứu cánh xoa dịu tâm hồn. Em nghĩ là như vậy. Nếu coi là tham là tốt thì có lẽ Tịnh Độ Tông " tham" nhất trong các tông phái Phật giáo.Mình cũng nghĩ vậy. Nên không thật sự quan tâm đến Luân hồi
Nói hơi phũ phàng, có thể nào nhiều người quan tâm đến Luân hồi đôi khi vì tham? câu hỏi nhé, không khẳng định
Có đôi lúc, cố hoà thượng cũng thú nhận kiểu kiểu như vậy trước khi tiếp cận Duy Thúc Học. Cụ ấy cũng tốt nghiệp sư phạm, thời 6x ra trường làm ông giáo rồi mới đi tu theo phái khất sĩ của tổ sư Minh Đăng Quang, một phái rất gần với Phật Giáo Nguyên Thuỷ nam truyền, nhưng em nghĩ cái hiểu của hoà thượng vượt ra khỏi giáo lý của phái này. Duy Thức Tông được xem là 1 nhánh của Đại Thừa, không nhiều người đồng tình là vì vậy.Đây là cái em hỏi vì sao DTT được phát triển đó. Liệu có phải do nhiều cụ Bồ Tát luyện mãi không lên được tầng trên theo như các cụ La hán theo phương pháp cổ điển đời trước, nên phải tìm hướng đi mới. Nên DTT chỉ dành cho các cụ trình tiến sỹ này.
Hay thật, lần đầu e nghe thấy..... rõ ràng với các nguyên lý trong vật lý lượng tử. Ví dụ, trong thí nghiệm hai khe hở, khi một hạt như electron đi qua hai khe, nó có thể hành xử như sóng hoặc hạt – tùy thuộc vào việc có người quan sát hay không. Nếu không ai quan sát, nó tồn tại ở dạng xác suất, chưa cố định. Nhưng khi có thiết bị đo, nó “chọn” một trạng thái cụ thể. Nói cách khác: chỉ khi có quan sát, hiện tượng mới hình thành. Không có người quan sát, không có “thực tại” rõ ràng.
....
Cái hình âm dương trên avatar em để cụ có thấy quen không?Hay thật, lần đầu e nghe thấy
Tức là, các nhà khoa học vẫn liên tục tìm kiếm cái không gian tồn tại xung quanh chúng ta
Họ không đọc kinh kệ gì cả, nhưng có vẻ họ vẫn có niềm tin là các đấng siêu linh có thật, hoặc cũng có thể do đam mê khám phá khoa học, hoặc có thể họ cũng có cảm nhận hoặc ít nhiều giao thoa được với các vị đó.
Hy vọng thời gian không xa, khoa học sẽ mở ra được cánh cửa kỳ diệu ở thế kỷ này
Sai rồi cụ ơi, không có ảnh thật nào chụp Orbital electron, photon trong phòng thí nghiệm khoa học như hình cụ gửi trước đó đâu ạ, mấy hức ảnh đó được mô phỏng bằng máy tính, phục vụ mục đích tôn giáo thôi.Cái hình âm dương trên avatar em để cụ có thấy quen không?
Khoa học đã chụp ảnh được nó trong thí nghiệm Vật lý trong thời gian gần đây, vậy người vẽ ra cái vòng này đã đi trước khoa học nhiều nghìn năm rồi.
Mọi con đường đều dẫn đến một nơi đó là nơi khởi nguồn của tất cả - hỗn mang.