[Funland] Liệu có kiếp sau

hoaoaihuong

Xe điện
Biển số
OF-313492
Ngày cấp bằng
27/3/14
Số km
2,105
Động cơ
364,303 Mã lực
Duy Thức Tông – còn gọi là Pháp Tướng Tông – không phải tự nhiên mà xuất hiện như một nhánh độc lập trong lòng Phật giáo Đại thừa. Nó không phải một ý tưởng vụn vặt hay phát kiến triết học đơn lẻ, mà là một phản ứng mang tính hệ thống của Phật giáo trước hoàn cảnh lịch sử, xã hội và triết học cụ thể vào khoảng thế kỷ thứ IV đến V sau Công nguyên tại Ấn Độ. Thời kỳ này, triết học Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã đạt đến độ phát triển cực kỳ tinh vi. Các trường phái Bà La Môn như Số Luận (Sāṃkhya), Du Già (Yoga), Thắng Luận (Vaiśeṣika), và đặc biệt là hệ thống logic Nyāya đã xây dựng nên những nền tảng lý luận rất chặt chẽ để lý giải thế giới, con người, và con đường giải thoát. Phật giáo không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Đặc biệt, sau khi tư tưởng Trung Quán của Long Thọ nổi lên với lập trường “tánh không” và “trung đạo”, một khoảng trống mới xuất hiện: nếu tất cả các pháp đều không có tự tính, thì cái gì đang vận hành, đang mê lầm, và cần được giải thoát? Nếu không có thực thể nào tồn tại, vậy tu hành là chuyển hóa cái gì, và ai là người giác ngộ?

Trong bối cảnh ấy, Duy Thức Tông ra đời không như một sự phủ định mà như một sự tiếp nối tất yếu, nhằm làm rõ cấu trúc vận hành của tâm thức – cái gốc của mê lầm cũng như cái nền của giải thoát. Các luận sư như Vô Trước và Thế Thân không đưa ra một hệ thống đối lập với Trung Quán, mà bổ sung bằng cách cung cấp một mô hình tâm lý học và nhận thức luận cực kỳ tinh vi. Tư tưởng cốt lõi của Duy Thức là “vạn pháp duy thức” – tức mọi hiện tượng trong thế giới mà ta nhận biết được đều là biểu hiện của tâm thức. Không có thế giới nào tồn tại độc lập bên ngoài chủ thể nhận thức; tất cả những gì ta thấy, nghe, nghĩ, tưởng… đều đã bị khúc xạ qua bộ máy tâm lý chủ quan. Nói cách khác, thế giới mà ta tưởng là "khách quan" thực chất là một hình ảnh đã qua xử lý của tâm. Ví dụ nổi tiếng trong các luận thư Duy Thức là trường hợp người bị bệnh về mắt: họ nhìn vật đỏ thành vàng. Người khỏe biết đó là hiện tượng sai lệch, nhưng nếu người ấy bị từ nhỏ, họ sẽ tin rằng màu vàng mới là thật. Vậy “thật” nằm ở đâu? Câu hỏi đó chính là khởi điểm của tư duy Duy Thức.

Hệ thống tám thức được xây dựng để lý giải toàn bộ tiến trình này – từ cảm giác thô sơ cho đến những rung động vi tế nhất của tâm. Trong đó, A-lại-da thức (thức thứ tám) đóng vai trò là “tàng thức” – nơi chứa toàn bộ chủng tử, tức các hạt giống của nghiệp, ký ức, thói quen và nhận thức. Mạt-na thức (thức thứ bảy) là dòng ý niệm bám chặt vào khái niệm “ta”, từ đó làm cơ sở cho sự phân biệt giữa “ngã” và “phi ngã”. Sáu thức còn lại là các kênh tiếp xúc với thế giới (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) – nhưng tất cả đều không thoát khỏi ảnh hưởng của thức tàng và tập khí. Mọi tri giác đều là phản ánh chủ quan, không có gì “nguyên sơ” hay “khách quan” hoàn toàn.

Như vậy, lý do sâu xa khiến Duy Thức Tông ra đời là để giải quyết khủng hoảng nhận thức: nếu tất cả đều là vọng tưởng, thì đâu là thực? Duy Thức không trả lời bằng niềm tin, mà bằng một hệ hình phân tích rõ ràng, đủ để hành giả nhìn lại chính mình như đang xem một cỗ máy vận hành – thấy rõ từng mắt xích của vô minh, tập khí, chấp ngã, phân biệt, khổ đau... Và từ đó, thực hành chuyển thức thành trí – biến A-lại-da thành Đại viên cảnh trí, Mạt-na thành Bình đẳng tánh trí, v.v. Không phải đợi đến sau khi chết mới mong giải thoát, mà ngay trong từng sát-na tâm thức, hành giả đã có thể quan sát và chuyển hóa.
Em chỉ nhớ cố hoà thượng Thích Giác Khang thú nhận, khi ông tu tập cũng gặp khá nhiều nan giải mà không tự kiến giải được, cũng thọ giáo nhiều cao tăng mà vẫn không rốt ráo, cho đến khi đọc được “duy thức học” của Cư Sỹ Minh Tâm (bs Lê Đình Thám) thì rất nhiều điều vỡ ra. Từ đấy bản thân ông đã tự hệ thống kiến thức Phật học của mình và mới thật sự dám đi giảng pháp trên cái tư duy duy thức học. Cũng có nhiều người không đồng tình với cách tiếp cận này, còn chúng sinh bình dân để nuốt được không phải là chuyện dễ. :( . Tuy nhiên, giảng và viết là 2 vấn đề khác nhau nên trước tác của ông chẳng có gì nhiều ngoài các bài giảng lưu truyền trên YouTube.
Như cụ nói về lịch sử hình thành, rõ ràng “duy thức tông” là môn phái sinh sau đẻ muộn, thừa hưởng tinh hoa của thời kỳ rực rỡ triết học cổ Ấn Độ, nên cách tiếp cận có nét gần với vật lý hiện đại cũng là logic.
 
Chỉnh sửa cuối:

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,278 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Em chỉ nhớ cố hoà thượng Thích Giác Khang thú nhận, khi ông tu tập cũng gặp khá nhiều nan giải mà không tự kiến giải được, cũng thọ giáo nhiều cao tăng mà vẫn không rốt ráo, cho đến khi đọc được “duy thức học” của Cư Sỹ Minh Tâm (bs Lê Đình Thám) thì rất nhiều điều vỡ ra. Từ đấy bản thân ông đã tự hệ thống kiến thức Phật học của mình và mới thật sự dám đi giảng pháp trên cái tư duy duy thức học. Cũng có nhiều người không đồng tình với cách tiếp cận này, còn chúng sinh bình dân để nuốt được không phải là chuyện dễ. :( . Tuy nhiên, giảng và viết là 2 vấn đề khác nhau nên trước tác của ông chẳng có gì nhiều ngoài các bài giảng lưu truyền trên YouTube.
Đây là cái em hỏi vì sao DTT được phát triển đó. Liệu có phải do nhiều cụ Bồ Tát luyện mãi không lên được tầng trên theo như các cụ La hán theo phương pháp cổ điển đời trước, nên phải tìm hướng đi mới. Nên DTT chỉ dành cho các cụ trình tiến sỹ này.
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,878
Động cơ
1,157,047 Mã lực
Mình cũng nghĩ vậy. Nên không thật sự quan tâm đến Luân hồi

Nói hơi phũ phàng, có thể nào nhiều người quan tâm đến Luân hồi đôi khi vì tham? câu hỏi nhé, không khẳng định
Tham thì không phải đâu cụ, tham nó nghĩa tiêu cực mà. Ở góc độ nào đó, có thể các cụ coi Phật giáo là một cứu cánh xoa dịu tâm hồn. Em nghĩ là như vậy. Nếu coi là tham là tốt thì có lẽ Tịnh Độ Tông " tham" nhất trong các tông phái Phật giáo.
 

hoaoaihuong

Xe điện
Biển số
OF-313492
Ngày cấp bằng
27/3/14
Số km
2,105
Động cơ
364,303 Mã lực
Đây là cái em hỏi vì sao DTT được phát triển đó. Liệu có phải do nhiều cụ Bồ Tát luyện mãi không lên được tầng trên theo như các cụ La hán theo phương pháp cổ điển đời trước, nên phải tìm hướng đi mới. Nên DTT chỉ dành cho các cụ trình tiến sỹ này.
Có đôi lúc, cố hoà thượng cũng thú nhận kiểu kiểu như vậy trước khi tiếp cận Duy Thúc Học. Cụ ấy cũng tốt nghiệp sư phạm, thời 6x ra trường làm ông giáo rồi mới đi tu theo phái khất sĩ của tổ sư Minh Đăng Quang, một phái rất gần với Phật Giáo Nguyên Thuỷ nam truyền, nhưng em nghĩ cái hiểu của hoà thượng vượt ra khỏi giáo lý của phái này. Duy Thức Tông được xem là 1 nhánh của Đại Thừa, không nhiều người đồng tình là vì vậy.
 
Chỉnh sửa cuối:

HTlangtu

Xe điện
Biển số
OF-486386
Ngày cấp bằng
3/2/17
Số km
3,062
Động cơ
261,419 Mã lực
..... rõ ràng với các nguyên lý trong vật lý lượng tử. Ví dụ, trong thí nghiệm hai khe hở, khi một hạt như electron đi qua hai khe, nó có thể hành xử như sóng hoặc hạt – tùy thuộc vào việc có người quan sát hay không. Nếu không ai quan sát, nó tồn tại ở dạng xác suất, chưa cố định. Nhưng khi có thiết bị đo, nó “chọn” một trạng thái cụ thể. Nói cách khác: chỉ khi có quan sát, hiện tượng mới hình thành. Không có người quan sát, không có “thực tại” rõ ràng.
....
Hay thật, lần đầu e nghe thấy
Tức là, các nhà khoa học vẫn liên tục tìm kiếm cái không gian tồn tại xung quanh chúng ta
Họ không đọc kinh kệ gì cả, nhưng có vẻ họ vẫn có niềm tin là các đấng siêu linh có thật, hoặc cũng có thể do đam mê khám phá khoa học, hoặc có thể họ cũng có cảm nhận hoặc ít nhiều giao thoa được với các vị đó.
Hy vọng thời gian không xa, khoa học sẽ mở ra được cánh cửa kỳ diệu ở thế kỷ này
 

Trục

Xe ngựa
Biển số
OF-36688
Ngày cấp bằng
6/6/06
Số km
27,034
Động cơ
796,542 Mã lực
Hay thật, lần đầu e nghe thấy
Tức là, các nhà khoa học vẫn liên tục tìm kiếm cái không gian tồn tại xung quanh chúng ta
Họ không đọc kinh kệ gì cả, nhưng có vẻ họ vẫn có niềm tin là các đấng siêu linh có thật, hoặc cũng có thể do đam mê khám phá khoa học, hoặc có thể họ cũng có cảm nhận hoặc ít nhiều giao thoa được với các vị đó.
Hy vọng thời gian không xa, khoa học sẽ mở ra được cánh cửa kỳ diệu ở thế kỷ này
Cái hình âm dương trên avatar em để cụ có thấy quen không?
Khoa học đã chụp ảnh được nó trong thí nghiệm Vật lý trong thời gian gần đây, vậy người vẽ ra cái vòng này đã đi trước khoa học nhiều nghìn năm rồi.
Mọi con đường đều dẫn đến một nơi đó là nơi khởi nguồn của tất cả - hỗn mang.
 

1.25 ton

Xe điện
Biển số
OF-390227
Ngày cấp bằng
3/11/15
Số km
4,878
Động cơ
1,157,047 Mã lực
Cái hình âm dương trên avatar em để cụ có thấy quen không?
Khoa học đã chụp ảnh được nó trong thí nghiệm Vật lý trong thời gian gần đây, vậy người vẽ ra cái vòng này đã đi trước khoa học nhiều nghìn năm rồi.
Mọi con đường đều dẫn đến một nơi đó là nơi khởi nguồn của tất cả - hỗn mang.
Sai rồi cụ ơi, không có ảnh thật nào chụp Orbital electron, photon trong phòng thí nghiệm khoa học như hình cụ gửi trước đó đâu ạ, mấy hức ảnh đó được mô phỏng bằng máy tính, phục vụ mục đích tôn giáo thôi.
 
Chỉnh sửa cuối:
  • Vodka
Reactions: XPQ

Trục

Xe ngựa
Biển số
OF-36688
Ngày cấp bằng
6/6/06
Số km
27,034
Động cơ
796,542 Mã lực
Sai rồi cụ ơi, không có ảnh thật nào chụp Orbital electron, photon trong phòng thí nghiệm khoa học như hình cụ gửi trước đó đâu ạ, mấy hức ảnh đó được mô phỏng bằng máy tính, phục vụ mục đích tôn giáo thôi.
Để em tìm tài liệu gốc viết về việc tạo ra ảnh chụp về rối lượng tử của hai photon kể trên xem nó là mô phỏng hay là phương pháp chụp rồi ghép lại hình.
 

antumyen

Xe tăng
Biển số
OF-874814
Ngày cấp bằng
18/1/25
Số km
1,727
Động cơ
91,926 Mã lực
Đây là cái em hỏi vì sao DTT được phát triển đó. Liệu có phải do nhiều cụ Bồ Tát luyện mãi không lên được tầng trên theo như các cụ La hán theo phương pháp cổ điển đời trước, nên phải tìm hướng đi mới. Nên DTT chỉ dành cho các cụ trình tiến sỹ này.
Theo Duy Ma Cật sở thuyết kinh thì hàng Thanh Văn xem Phật pháp không còn ích lợi gì nên không phát nguyện nữa, trong khi Bồ tát thậm chí phàm phu vẫn còn có thể phát nguyện tái sinh hoặc hóa độ để cứu tất cả chúng sinh.
Lúc ấy Ðại Ca Diếp tán thán rằng:
-Lành thay! Lành thay! Văn Thù! Lời này rất đúng. Thật như lời ông nói, bọn trần lao mới là hạt giống của Như Lai, nay chúng tôi chẳng còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Người mang tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm sanh nơi Phật pháp, mà chúng tôi đây trọn chẳng thể phát, ví như những người ngũ căn đã hư, đối với ngũ dục chẳng còn cảm xúc. Cũng thế, hàng Thanh Văn đã dứt phiền não trói buộc, xem Phật pháp chẳng còn ích lợi gì nên chẳng phát nguyện nữa.
Cho nên, Văn Thù! Phàm phu ở nơi Phật pháp có biến chuyển mà Thanh Văn thì không. Tại sao? Phàm phu nghe Phật pháp dược sanh khởi đạo tâm vô thượng, chẳng dứt hạt giống Tam Bảo. Dẫu cho Thanh Văn suốt đời nghe Phật pháp và được sức vô úy v.v… chung qui chẳng thể phát đạo tâm vô thượng.
 
Biển số
OF-874007
Ngày cấp bằng
1/1/25
Số km
777
Động cơ
99,511 Mã lực
Sai rồi cụ ơi, không có ảnh thật nào chụp Orbital electron, photon trong phòng thí nghiệm khoa học như hình cụ gửi trước đó đâu ạ, mấy hức ảnh đó được mô phỏng bằng máy tính, phục vụ mục đích tôn giáo thôi.
Cụ Trục không phải nói Orbital electron đâu? Nhưng Ảnh này là thật này :)

Mình vừa đi qua tượng ngọn lửa Thích Quảng Đức, chụp bức ảnh tặng các cụ.

 
Chỉnh sửa cuối:

Lạc Lạc 2008

Xe tải
Biển số
OF-855708
Ngày cấp bằng
22/3/24
Số km
478
Động cơ
13,153 Mã lực
Có nhé. Ngày 2/9 Các cụ trên nghĩa trang Lạc Hồng viên cũng cờ hoa rực rỡ đón Quôc khánh như ta
 

johnson321

Xe tải
Biển số
OF-454258
Ngày cấp bằng
19/9/16
Số km
441
Động cơ
208,650 Mã lực
Tuổi
33
Thật ra e thấy cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này r, các cụ có thể lục tìm tài liệu nghiên cứu khoa học và thấy rất nhiều cái tên ví dụ như Michael Newton hay Brian Weiss. Có nhiều cụ hỏi tại sao ko nhớ ký ức tiền kiếp thì mấy cụ đi nghiên cứu với thôi miên hồi quy tiền kiếp kia cũng có nói là vì có 1 màng lọc hay cái gì đó ngăn dữ liệu. Cơ mà e thì thấy trí nhớ ngay vài phút còn quên, nhiều chuyện vài ngày sau người ta còn chả nhớ chứ đừng nói đến những chuyện cách cả chục năm hay cả trăm năm. Với cả nghiên cứu cũng bảo lũ trẻ con đến 1 độ tuổi sẽ quên gần hết ấy.


Còn về vấn đề niết bàn với Phật thì mỗi người có 1 ý hiểu, theo cách giải thích riêng của mỗi người, có 1 từ nó gọi là kinh nghiệm ko thể truyền thụ qua giảng giải hay sách vở, phải tự mình trải nghiệm, noesis hay gnosis. Ngay kể cả Phật Thích Ca cũng có mỗi cách giảng kinh riêng tùy từng người, vì ông như người bác sĩ tâm lý, mỗi người sẽ có cách tư vấn chữa trị riêng.

Như các cụ có tâm đã giải thích Niết bàn theo ý hiểu của các cụ thì em cũng ngộ ra một vài điều. Cũng cảm ơn các cụ đã đóng góp ý kiến.
 
Biển số
OF-874007
Ngày cấp bằng
1/1/25
Số km
777
Động cơ
99,511 Mã lực
Theo Duy Ma Cật sở thuyết kinh thì hàng Thanh Văn xem Phật pháp không còn ích lợi gì nên không phát nguyện nữa, trong khi Bồ tát thậm chí phàm phu vẫn còn có thể phát nguyện tái sinh hoặc hóa độ để cứu tất cả chúng sinh.
Lúc ấy Ðại Ca Diếp tán thán rằng:
-Lành thay! Lành thay! Văn Thù! Lời này rất đúng. Thật như lời ông nói, bọn trần lao mới là hạt giống của Như Lai, nay chúng tôi chẳng còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Người mang tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm sanh nơi Phật pháp, mà chúng tôi đây trọn chẳng thể phát, ví như những người ngũ căn đã hư, đối với ngũ dục chẳng còn cảm xúc. Cũng thế, hàng Thanh Văn đã dứt phiền não trói buộc, xem Phật pháp chẳng còn ích lợi gì nên chẳng phát nguyện nữa.
Cho nên, Văn Thù! Phàm phu ở nơi Phật pháp có biến chuyển mà Thanh Văn thì không. Tại sao? Phàm phu nghe Phật pháp dược sanh khởi đạo tâm vô thượng, chẳng dứt hạt giống Tam Bảo. Dẫu cho Thanh Văn suốt đời nghe Phật pháp và được sức vô úy v.v… chung qui chẳng thể phát đạo tâm vô thượng.
Học theo Thanh Văn cũng nhìn qua Bồ Tát, dẫu xây 9 bậc phù đồ, chẳng bằng làm phúc cứu cho 1 người.

Đó là tương quan Thanh Văn vs Bồ Tát?
 
Chỉnh sửa cuối:

johnson321

Xe tải
Biển số
OF-454258
Ngày cấp bằng
19/9/16
Số km
441
Động cơ
208,650 Mã lực
Tuổi
33
Em cũng chẳng biết lucid dream là gì, chỉ biết hoà thượng Duy Lực gọi cuộc sống này là mở mắt chiêm bao, còn nằm mơ là nhắm mắt chiêm bao. Khi người tu ngộ rồi thì tự tỉnh, hết chiêm bao. Em vẫn còn .. bất tỉnh nên không biết nó giống không :D :D
Em rất ít khi nằm mơ nên giấc mơ nào em nhớ thì em tìm hiểu dữ lắm.
Lucid dream là giấc mơ sáng suốt, tức là khi cụ nằm mơ nhưng nhận ra là mình đang mơ đó. Có nhiều cấp độ lucid dream, ở mức độ nhẹ nhất là cụ biết mình đang nằm mơ nên hoàn cảnh trong mơ ko có thực, cụ có thể xuề xòa cho qua dù cho đó có là ác mộng đi chăng nữa. Em thấy có nhiều cụ còn biết cách luyện tập để đạt được nhiều cấp độ khác trong lucid dream, kiểu là từ tác động nhỏ để điều chỉnh giấc mơ chút ít cho đến thậm chí là thiết lập giấc mơ theo ý muốn của riêng mình, kiểu như lập trình hẳn 1 thế giới giấc mơ đó. Và tất nhiên có nhiều người đã luyện đến mức tạo ra 1 thế giới giấc mơ vô cùng sống động và hay ho, tuy nhiên cái gì quá cũng đều ko tốt, nếu cứ mãi mộng mị thì lại quên mất thực tại, chìm đắm vô giấc mơ.
 

Tlbooks

Xe tăng
Biển số
OF-68488
Ngày cấp bằng
16/7/10
Số km
1,159
Động cơ
530,539 Mã lực
Cụ rất hay, tuy nhiên đó vẫn trên phương diện lý thuyết và chỉ làm người đọc thêm khó hiểu , kể cụ có những dẫn chứng liên hệ với thực tế thì tốt , như em đọc cụ xong là e cũng hoảng loạn luôn
về vật lý thì thì nghiệm lượng tử nó như sau cụ:

Thí nghiệm hai khe được thực hiện bằng cách bắn những hạt cực nhỏ như electron hoặc photon vào một tấm chắn có hai khe hẹp song song. Nếu chỉ mở một khe, hạt sẽ tạo thành một vệt sáng ngay sau khe đó, giống như viên bi bay qua lỗ. Nhưng khi mở cả hai khe, điều bất ngờ xảy ra: trên màn không chỉ hiện hai vệt, mà lại xuất hiện hoa văn giao thoa như sóng nước. Điều đó có nghĩa là mỗi hạt đơn lẻ hành xử như một làn sóng, đi qua cả hai khe cùng lúc và tự giao thoa với chính nó.

Điều kỳ lạ hơn: nếu ta đặt thiết bị để quan sát xem hạt đi qua khe nào, hoa văn giao thoa biến mất ngay. Khi đó, electron chỉ đi qua một khe và hiện ra như hạt. Nếu không quan sát, nó lại hành xử như sóng. Thí nghiệm này cho thấy bản chất của hạt không cố định, mà phụ thuộc vào việc có quan sát hay không. Chỉ khi có phép đo, thực tại mới “chọn” một trạng thái cụ thể. Vì vậy, thí nghiệm hai khe được xem là nền tảng cho sự kỳ lạ của vật lý lượng tử, đặt ra câu hỏi lớn về mối quan hệ giữa người quan sát và thực tại.

Điều này lại trùng hợp một cách kỳ lạ với tư tưởng Duy Thức Tông. Các luận sư Phật giáo cho rằng thế giới vật chất không tồn tại độc lập ngoài tâm thức. Có tâm mới có cảnh, có người mới có vật. Mọi sự vật hiện tượng đều là sự biến hiện của thức: trong tàng thức chứa sẵn các hạt giống (chủng tử), khi gặp điều kiện thì hiện khởi thành cảnh giới bên ngoài. Cái mà ta vẫn gọi là “thực tại khách quan” thật ra cũng chỉ là biểu hiện của tâm, giống như ảnh trong gương hay giấc mơ trong khi ngủ.

Nhìn dưới ánh sáng đó, thí nghiệm hai khe chính là minh chứng bằng ngôn ngữ khoa học rằng: vật không có “thực tại tuyệt đối” ngoài nhận thức; nó chỉ xuất hiện rõ ràng khi có người quan sát. Đây cũng là điều mà Duy Thức đã nói từ hơn một nghìn năm trước: tâm và cảnh giới đồng khởi, không thể tách rời.
-------------------------------------------------------
Về các điểm tắc mà vật lý hiện nay chưa vượt qua, Duy Thức Tông có thể giải thích (dù có khiên cưỡng hay không, nhưng về nguyên lý của Duy thức, thì nó khá chặt chẽ):

- Trong vũ trụ học hiện đại, vật chất tối được xem là bí ẩn lớn: nó chiếm hơn 80% khối lượng vũ trụ nhưng con người không thể nhìn thấy hay đo lường trực tiếp, chỉ biết đến qua tác động hấp dẫn lên các thiên hà. Tư tưởng Duy Thức có thể giúp ta hình dung: cảnh giới mà ta thấy chỉ là phần nổi của “thức biến hiện”. Ngoài cái tâm phan duyên đang hoạt động, còn có tàng thức chứa vô số chủng tử chưa hiện hành. Vật chất tối vì thế có thể ví như phần tiềm ẩn của tàng thức vũ trụ: không hiện ra trước mắt, nhưng giữ vai trò nền tảng, bảo đảm cho sự ổn định và cấu trúc của toàn thể pháp giới.

- Đến với hiện tượng lỗ đen, khoa học mô tả đó là vùng không gian nơi lực hấp dẫn khủng khiếp đến mức ánh sáng cũng không thoát được. Ở đó, mọi định luật vật lý dường như sụp đổ, con người không thể hình dung chính xác bên trong tồn tại điều gì. Duy Thức có thể xem lỗ đen như hình ảnh ẩn dụ của phần sâu thẳm trong A-lại-da thức – nơi chứa đựng tất cả hạt giống nghiệp. Với kẻ vô minh, đó là cõi tối tăm, nuốt chửng mọi ánh sáng trí tuệ; nhưng với bậc giác ngộ, chính nơi tưởng như “hư vô tuyệt đối” ấy lại là cửa ngõ để thấy rõ tính Không, từ đó muôn pháp có thể sinh khởi. Lỗ đen nuốt ánh sáng nhưng cũng có thể phát ra bức xạ, gợi nhớ đến sự vận hành “từ vô tướng mà hiện ra hữu tướng” trong Duy Thức.

- Còn với hiện tượng rối lượng tử, khoa học nhận thấy hai hạt có thể “liên thông, hành xử giống hệt nhau” tức thì bất chấp khoảng cách vũ trụ. Đo hạt này thì hạt kia lập tức thay đổi trạng thái tương ứng, như thể có một mối liên hệ vô hình vượt qua mọi giới hạn của không gian và tốc độ ánh sáng. Đây chính là điều mà Duy Thức đã nhấn mạnh: “nhất thiết duy tâm tạo”. Các pháp không thực sự tách rời nhau, mà cùng khởi từ một thức. Giống như trong một giấc mộng, muôn cảnh giới có vẻ khác nhau nhưng đều phát sinh từ một tâm; một niệm khởi thì toàn bộ cảnh mộng rung động theo. Rối lượng tử, theo cách này, chỉ là minh chứng hiện đại cho nguyên lý “cảnh giới và tâm thức tương tức”, khẳng định rằng không có gì tồn tại độc lập tuyệt đối.
 

XPQ

Xe ba gác
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
20,010
Động cơ
587,187 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
về vật lý thì thì nghiệm lượng tử nó như sau cụ:

Thí nghiệm hai khe được thực hiện bằng cách bắn những hạt cực nhỏ như electron hoặc photon vào một tấm chắn có hai khe hẹp song song. Nếu chỉ mở một khe, hạt sẽ tạo thành một vệt sáng ngay sau khe đó, giống như viên bi bay qua lỗ. Nhưng khi mở cả hai khe, điều bất ngờ xảy ra: trên màn không chỉ hiện hai vệt, mà lại xuất hiện hoa văn giao thoa như sóng nước. Điều đó có nghĩa là mỗi hạt đơn lẻ hành xử như một làn sóng, đi qua cả hai khe cùng lúc và tự giao thoa với chính nó.

Điều kỳ lạ hơn: nếu ta đặt thiết bị để quan sát xem hạt đi qua khe nào, hoa văn giao thoa biến mất ngay. Khi đó, electron chỉ đi qua một khe và hiện ra như hạt. Nếu không quan sát, nó lại hành xử như sóng. Thí nghiệm này cho thấy bản chất của hạt không cố định, mà phụ thuộc vào việc có quan sát hay không. Chỉ khi có phép đo, thực tại mới “chọn” một trạng thái cụ thể. Vì vậy, thí nghiệm hai khe được xem là nền tảng cho sự kỳ lạ của vật lý lượng tử, đặt ra câu hỏi lớn về mối quan hệ giữa người quan sát và thực tại.

Điều này lại trùng hợp một cách kỳ lạ với tư tưởng Duy Thức Tông. Các luận sư Phật giáo cho rằng thế giới vật chất không tồn tại độc lập ngoài tâm thức. Có tâm mới có cảnh, có người mới có vật. Mọi sự vật hiện tượng đều là sự biến hiện của thức: trong tàng thức chứa sẵn các hạt giống (chủng tử), khi gặp điều kiện thì hiện khởi thành cảnh giới bên ngoài. Cái mà ta vẫn gọi là “thực tại khách quan” thật ra cũng chỉ là biểu hiện của tâm, giống như ảnh trong gương hay giấc mơ trong khi ngủ.

Nhìn dưới ánh sáng đó, thí nghiệm hai khe chính là minh chứng bằng ngôn ngữ khoa học rằng: vật không có “thực tại tuyệt đối” ngoài nhận thức; nó chỉ xuất hiện rõ ràng khi có người quan sát. Đây cũng là điều mà Duy Thức đã nói từ hơn một nghìn năm trước: tâm và cảnh giới đồng khởi, không thể tách rời.
-------------------------------------------------------
Về các điểm tắc mà vật lý hiện nay chưa vượt qua, Duy Thức Tông có thể giải thích (dù có khiên cưỡng hay không, nhưng về nguyên lý của Duy thức, thì nó khá chặt chẽ):

- Trong vũ trụ học hiện đại, vật chất tối được xem là bí ẩn lớn: nó chiếm hơn 80% khối lượng vũ trụ nhưng con người không thể nhìn thấy hay đo lường trực tiếp, chỉ biết đến qua tác động hấp dẫn lên các thiên hà. Tư tưởng Duy Thức có thể giúp ta hình dung: cảnh giới mà ta thấy chỉ là phần nổi của “thức biến hiện”. Ngoài cái tâm phan duyên đang hoạt động, còn có tàng thức chứa vô số chủng tử chưa hiện hành. Vật chất tối vì thế có thể ví như phần tiềm ẩn của tàng thức vũ trụ: không hiện ra trước mắt, nhưng giữ vai trò nền tảng, bảo đảm cho sự ổn định và cấu trúc của toàn thể pháp giới.

- Đến với hiện tượng lỗ đen, khoa học mô tả đó là vùng không gian nơi lực hấp dẫn khủng khiếp đến mức ánh sáng cũng không thoát được. Ở đó, mọi định luật vật lý dường như sụp đổ, con người không thể hình dung chính xác bên trong tồn tại điều gì. Duy Thức có thể xem lỗ đen như hình ảnh ẩn dụ của phần sâu thẳm trong A-lại-da thức – nơi chứa đựng tất cả hạt giống nghiệp. Với kẻ vô minh, đó là cõi tối tăm, nuốt chửng mọi ánh sáng trí tuệ; nhưng với bậc giác ngộ, chính nơi tưởng như “hư vô tuyệt đối” ấy lại là cửa ngõ để thấy rõ tính Không, từ đó muôn pháp có thể sinh khởi. Lỗ đen nuốt ánh sáng nhưng cũng có thể phát ra bức xạ, gợi nhớ đến sự vận hành “từ vô tướng mà hiện ra hữu tướng” trong Duy Thức.

- Còn với hiện tượng rối lượng tử, khoa học nhận thấy hai hạt có thể “liên thông, hành xử giống hệt nhau” tức thì bất chấp khoảng cách vũ trụ. Đo hạt này thì hạt kia lập tức thay đổi trạng thái tương ứng, như thể có một mối liên hệ vô hình vượt qua mọi giới hạn của không gian và tốc độ ánh sáng. Đây chính là điều mà Duy Thức đã nhấn mạnh: “nhất thiết duy tâm tạo”. Các pháp không thực sự tách rời nhau, mà cùng khởi từ một thức. Giống như trong một giấc mộng, muôn cảnh giới có vẻ khác nhau nhưng đều phát sinh từ một tâm; một niệm khởi thì toàn bộ cảnh mộng rung động theo. Rối lượng tử, theo cách này, chỉ là minh chứng hiện đại cho nguyên lý “cảnh giới và tâm thức tương tức”, khẳng định rằng không có gì tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự liên hệ giữa quan điểm của Duy Thức với các kết quả của khoa học tự nó đã có tính chất ngụy biện vì sự so sánh đã bỏ qua những phát hiện khoa học bất lợi và chỉ khai thác các phát hiện có lợi cho việc bảo vệ quan điểm. Mặt khác, phép diễn dịch với các thủ thuật ngôn ngữ để kết nối, liên hệ cốt dẫn dắt nhận thức dễ làm chúng mình sa vào biên kiến. Thế là đời lại thêm mấy anh cà phê giảng pháp, rượu thịt nghe kinh.

Hơn nữa, nếu giả định rằng những kết quả khoa học như sự phát hiện ra rối lượng tử, lưỡng tính sóng hạt, lỗ đen....các cái mà lại củng cố sự toàn nhiệm của Duy Thức thì các ngành khác như mấy cụ Duy vật sẽ bảo sao?
 

Hạnh Lux

Xe buýt
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-395910
Ngày cấp bằng
8/12/15
Số km
948
Động cơ
244,272 Mã lực

Tlbooks

Xe tăng
Biển số
OF-68488
Ngày cấp bằng
16/7/10
Số km
1,159
Động cơ
530,539 Mã lực
Sự liên hệ giữa quan điểm của Duy Thức với các kết quả của khoa học tự nó đã có tính chất ngụy biện vì sự so sánh đã bỏ qua những phát hiện khoa học bất lợi và chỉ khai thác các phát hiện có lợi cho việc bảo vệ quan điểm. Mặt khác, phép diễn dịch với các thủ thuật ngôn ngữ để kết nối, liên hệ cốt dẫn dắt nhận thức dễ làm chúng mình sa vào biên kiến. Thế là đời lại thêm mấy anh cà phê giảng pháp, rượu thịt nghe kinh.

Hơn nữa, nếu giả định rằng những kết quả khoa học như sự phát hiện ra rối lượng tử, lưỡng tính sóng hạt, lỗ đen....các cái mà lại củng cố sự toàn nhiệm của Duy Thức thì các ngành khác như mấy cụ Duy vật sẽ bảo sao?
e thấy không có mâu thuẫn gì ở đây cả, do tâm phân biệt của ta thôi, duy vật hay duy tâm thì cũng vẫn là phương tiện khám phá chân lý, vấn đề vẫn nếu hội tụ lại ở việc khám phá chân lý, dù cách đi khác nhau, nhưng nếu chúng hội tụ cho ra cùng một kết quả, thì lành lắm thay:

"Duy Vật cho rằng thế giới khách quan tồn tại độc lập với ý thức, và chân lý là sự phản ánh đúng đắn hiện thực ấy. Chân lý chỉ có một, không thay đổi, không phụ thuộc vào quan niệm chủ quan. Con người có thể sai khác trong nhận thức, nhưng sai khác đó đến từ hạn chế của giác quan, của phương pháp tư duy, chứ không làm biến đổi hiện thực. Do đó, muốn tiệm cận chân lý, Duy Vật nhấn mạnh phải dựa vào thực tiễn khách quan để kiểm chứng, vì thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.

Duy Thức cũng nói rằng thực tại tối hậu – chân đế – thì chỉ có một, đó là “như thật”, vượt ngoài mọi phân biệt. Nhưng phần lớn chúng ta chỉ thấy qua bóng dáng của thức, nên rơi vào tầng tục đế, tức những nhận thức sai biệt, chấp ngã, chấp pháp. Vì vậy, mỗi người thấy một kiểu, không phải vì chân lý thay đổi, mà vì vọng niệm che phủ. Đặt song song hai quan điểm, có thể thấy cả hai đều thừa nhận: chân lý thì bất biến và duy nhất, nhưng mức độ tiếp cận chân lý tùy thuộc vào phương pháp và trí tuệ – Duy Vật thì dựa vào thực tiễn kiểm chứng, còn Duy Thức thì tu tập, gạn lọc vọng niệm để thấy thực tại như thật."
 

duongphong

Xe container
Biển số
OF-431207
Ngày cấp bằng
20/6/16
Số km
9,188
Động cơ
389,826 Mã lực
Nơi ở
Lầu Năm Góc
Toàn các cụ già hỏi: có kiếp sau hay không....sau lại đồng hoá thế hệ sau tư tưởng này. :))
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top