(Tiếp)
Đối với phương thức chiến đấu ‘tác chiến hiệp đồng’ (CEC) đã được thổi phồng trong những năm gần đây, thường được biết tới là phương thức là ‘A-phóng và B-điều khiển’, không những không dễ thực hiện mà còn có những điểm hạn chế lớn. Do máy bay mang tên lửa và máy bay chuyển tiếp dữ liệu theo dõi cùng một mục tiêu từ các hướng khác nhau, tốc độ, độ cao và hướng bay tương ứng của chúng là khác nhau, do đó sai số của các mục tiêu tương ứng thu được của chúng là hoàn toàn không đồng nhất. Nếu quyền điều khiển chuyển tiếp được chuyển giao giữa hai máy bay mà không có bất kỳ quy trình xử lý kỹ thuật nào thì sẽ có sai số lớn trong các phần tử mục tiêu mà tên lửa nhận được thông qua liên kết dữ liệu. Nếu sai số này không được giảm xuống mức có thể chấp nhận được, hoặc tên lửa sẽ phải thực hiện các thao tác cơ động lớn trong quá trình bay, tiêu tốn quá nhiều năng lượng, khiến tầm bắn hiệu quả bị giảm mạnh, hoặc tên lửa sẽ bị chệch hướng ngoài tầm phát hiện của ra-đa dẫn đường trên tên lửa, khiến tên lửa bị trượt.
F/A 18E/F cấu hình 4 tên lửa AIM-174B và 2 tên lửa AIM-120D, 2 tên lửa AIM-9X
Để loại bỏ hoặc ít nhất là giảm đáng kể các lỗi động (dynamic error) của máy bay mang tên lửa và máy bay chuyển tiếp dữ liệu mục tiêu trong khi bám sát mục tiêu, thì hai máy bay này phải kết hợp vào làm một. Khi đó, trường quan sát của ra-đa trên máy bay có thể cho phép máy tính điều khiển hỏa lực chuyển đổi tọa độ của cả hai bên. Để đạt được điều kiện như vậy, góc hướng giữa máy bay mang tên lửa và máy bay chuyển tiếp phải được kiểm soát trong phạm vi nhỏ. Điều này hạn chế đáng kể các lựa chọn phối hợp chiến thuật và máy bay chuyển tiếp dữ liệu cũng dễ bị bộc lộ trước đối phương.
Về khả năng phòng thủ tên lửa trên biển, việc phát hiện và tính toán quỹ đạo của tên lửa đối phương đang lao tới tiến công vẫn dựa vào hệ thống Aegis trên tàu. Như đã phân tích trước đó, tầm chiến đấu hiệu quả của tên lửa không đối không AIM-174B không có động cơ tăng tốc MK72 bị giảm đáng kể so với tên lửa hải đối không Standard-6 và có phương pháp mang phóng khác với phương pháp mang phóng Standard-6. Do đó, rất khó để nói rằng AIM-174B cần bao nhiêu nâng cấp tiềm năng nữa khi được đưa vào biên chế để có thể đạt được năng lực chống tên lửa trên biển. Nếu chỉ xét về mặt kỹ thuật thì việc thiếu hụt các ngành công nghiệp cơ bản ở Mỹ là rất nghiêm trọng. Nếu muốn nhanh chóng có được một tên lửa không đối không tầm xa, có lẽ một lựa chọn đáng tin cậy hơn việc cải tiến tên lửa hải đối không Standard-6, đó là phát triển phiên bản hàng không dựa trên tên lửa phòng không Patriot PAC-3. Tên lửa Patriot PAC-3 có chiều dài 4,8 m, đường kính 0,255 m và trọng lượng phóng khoảng 328 kg, rõ ràng là nhẹ hơn nhiều so với tên lửa Standard-6. Do đó, sau khi cải tiến chúng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất bay của máy bay mang sẽ ít hơn. Quan trọng hơn, Patriot PAC-3 được trang bị đầu dò ra-đa chủ động sóng milimet có độ chính xác cao (được biết là có bước sóng 8 mm) với sai số dẫn đường lý thuyết dưới 0,17 m. Tên lửa sử dụng đầu đạn tiêu diệt động năng để đảm bảo bắn chính xác vào mục tiêu, phía trước tên lửa được trang bị 180 động cơ nhỏ xung quanh thân giúp đạt được khả năng cơ động và khả năng đánh chặn ở góc lệch trục lớn tốt hơn rất nhiều, so với việc chỉ dựa vào bề mặt điều khiển khí động học. Tên lửa không đối không được phát triển dựa vào loại tên lửa này sẽ có tính năng hoạt động tốt hơn rất nhiều so với tên AIM-174B hiện tại.
F/A 18E/F cấu hình 4 tên lửa AIM-174B và 2 tên lửa AIM-120D, 2 tên lửa AIM-9X
Trên thực tế, cách đây vài năm, RAND Corporation đã để xuất ý tưởng chuyển tên lửa đất đối không Patriot PAC-3 thành tên lửa không đối không tầm xa. Tuy nhiên, vì tên lửa này là sản phẩm của Lockheed Martin nên nó đã bị bỏ rơi trong bối cảnh xung đột phức tạp giữa nhiều cơ quan quân sự của Mỹ và các tập đoàn công nghiệp quân sự khác nhau.
Đối với phương thức chiến đấu ‘tác chiến hiệp đồng’ (CEC) đã được thổi phồng trong những năm gần đây, thường được biết tới là phương thức là ‘A-phóng và B-điều khiển’, không những không dễ thực hiện mà còn có những điểm hạn chế lớn. Do máy bay mang tên lửa và máy bay chuyển tiếp dữ liệu theo dõi cùng một mục tiêu từ các hướng khác nhau, tốc độ, độ cao và hướng bay tương ứng của chúng là khác nhau, do đó sai số của các mục tiêu tương ứng thu được của chúng là hoàn toàn không đồng nhất. Nếu quyền điều khiển chuyển tiếp được chuyển giao giữa hai máy bay mà không có bất kỳ quy trình xử lý kỹ thuật nào thì sẽ có sai số lớn trong các phần tử mục tiêu mà tên lửa nhận được thông qua liên kết dữ liệu. Nếu sai số này không được giảm xuống mức có thể chấp nhận được, hoặc tên lửa sẽ phải thực hiện các thao tác cơ động lớn trong quá trình bay, tiêu tốn quá nhiều năng lượng, khiến tầm bắn hiệu quả bị giảm mạnh, hoặc tên lửa sẽ bị chệch hướng ngoài tầm phát hiện của ra-đa dẫn đường trên tên lửa, khiến tên lửa bị trượt.
F/A 18E/F cấu hình 4 tên lửa AIM-174B và 2 tên lửa AIM-120D, 2 tên lửa AIM-9X
Để loại bỏ hoặc ít nhất là giảm đáng kể các lỗi động (dynamic error) của máy bay mang tên lửa và máy bay chuyển tiếp dữ liệu mục tiêu trong khi bám sát mục tiêu, thì hai máy bay này phải kết hợp vào làm một. Khi đó, trường quan sát của ra-đa trên máy bay có thể cho phép máy tính điều khiển hỏa lực chuyển đổi tọa độ của cả hai bên. Để đạt được điều kiện như vậy, góc hướng giữa máy bay mang tên lửa và máy bay chuyển tiếp phải được kiểm soát trong phạm vi nhỏ. Điều này hạn chế đáng kể các lựa chọn phối hợp chiến thuật và máy bay chuyển tiếp dữ liệu cũng dễ bị bộc lộ trước đối phương.
Về khả năng phòng thủ tên lửa trên biển, việc phát hiện và tính toán quỹ đạo của tên lửa đối phương đang lao tới tiến công vẫn dựa vào hệ thống Aegis trên tàu. Như đã phân tích trước đó, tầm chiến đấu hiệu quả của tên lửa không đối không AIM-174B không có động cơ tăng tốc MK72 bị giảm đáng kể so với tên lửa hải đối không Standard-6 và có phương pháp mang phóng khác với phương pháp mang phóng Standard-6. Do đó, rất khó để nói rằng AIM-174B cần bao nhiêu nâng cấp tiềm năng nữa khi được đưa vào biên chế để có thể đạt được năng lực chống tên lửa trên biển. Nếu chỉ xét về mặt kỹ thuật thì việc thiếu hụt các ngành công nghiệp cơ bản ở Mỹ là rất nghiêm trọng. Nếu muốn nhanh chóng có được một tên lửa không đối không tầm xa, có lẽ một lựa chọn đáng tin cậy hơn việc cải tiến tên lửa hải đối không Standard-6, đó là phát triển phiên bản hàng không dựa trên tên lửa phòng không Patriot PAC-3. Tên lửa Patriot PAC-3 có chiều dài 4,8 m, đường kính 0,255 m và trọng lượng phóng khoảng 328 kg, rõ ràng là nhẹ hơn nhiều so với tên lửa Standard-6. Do đó, sau khi cải tiến chúng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất bay của máy bay mang sẽ ít hơn. Quan trọng hơn, Patriot PAC-3 được trang bị đầu dò ra-đa chủ động sóng milimet có độ chính xác cao (được biết là có bước sóng 8 mm) với sai số dẫn đường lý thuyết dưới 0,17 m. Tên lửa sử dụng đầu đạn tiêu diệt động năng để đảm bảo bắn chính xác vào mục tiêu, phía trước tên lửa được trang bị 180 động cơ nhỏ xung quanh thân giúp đạt được khả năng cơ động và khả năng đánh chặn ở góc lệch trục lớn tốt hơn rất nhiều, so với việc chỉ dựa vào bề mặt điều khiển khí động học. Tên lửa không đối không được phát triển dựa vào loại tên lửa này sẽ có tính năng hoạt động tốt hơn rất nhiều so với tên AIM-174B hiện tại.
F/A 18E/F cấu hình 4 tên lửa AIM-174B và 2 tên lửa AIM-120D, 2 tên lửa AIM-9X
Trên thực tế, cách đây vài năm, RAND Corporation đã để xuất ý tưởng chuyển tên lửa đất đối không Patriot PAC-3 thành tên lửa không đối không tầm xa. Tuy nhiên, vì tên lửa này là sản phẩm của Lockheed Martin nên nó đã bị bỏ rơi trong bối cảnh xung đột phức tạp giữa nhiều cơ quan quân sự của Mỹ và các tập đoàn công nghiệp quân sự khác nhau.