Bài viết của bạn Lý Thanh Hà. Đường sắt cao tốc bạn ấy nói, có lẽ thiên về những tuyến đường sắt dài Bắc Nam chứ không phải những tuyến ngắn như Bến Thành Cần Giờ.
Tôi thì có cảm giác còn lâu nữa mới khởi công được tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam
... LẠI VỚ ĐƯỢC CỌC
Câu chuyện đường sắt cao tốc ở Việt Nam, nếu đem dựng thành phim truyền hình, thì chắc chắn không phải thể loại phim lẻ, mà là một series dài tập: họp lên họp xuống, tranh luận từ nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác, mỗi khóa Quốc hội thêm vài tình tiết mới, còn hồi kết thì… để ngỏ.
Mở đầu bộ phim là câu hỏi tưởng như rất kỹ thuật nhưng thực ra lại mang tính chính trị – kinh tế sâu sắc: tốc độ bao nhiêu, tải trục bao nhiêu, bán kính cong ra sao, công nghệ nào phù hợp, chi phí bao nhiêu. Vấn đề là, những “tham số đầu bài” ấy trên thực tế không phải Việt Nam muốn đặt thế nào cũng được. Chúng vốn là các thông số chuẩn hóa sẵn của các nhà sản xuất lớn trên thế giới, được mang ra so sánh, cân đong đo đếm, rồi chọn cái nào “có vẻ phù hợp nhất”.
Và thế là tư vấn xuất hiện.
Giai đoạn đầu, tư vấn Nhật Bản được mời vào. Họ làm rất đúng vai của mình: đưa toàn bộ tiêu chuẩn Nhật vào dự án, từ kỹ thuật đến vận hành. Kết quả là Quốc hội… bác, dự án chậm thêm gần chục năm. Công bằng mà nói, thời điểm đó dù có thông qua thì cũng khó làm được: GDP Việt Nam còn quá nhỏ, ăn còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền đầu tư; mà có đầu tư thì lấy đâu ra nguồn bền vững để trả nợ?
Hơn mười năm trôi qua, câu chuyện tư vấn Nhật cũng kết thúc không mấy êm đẹp khi xuất hiện các vấn đề về tính minh bạch tài chính. Đoàn phim đổi diễn viên.
Rồi vài năm gần đây, đường sắt cao tốc bỗng dưng “hot” trở lại. Nghe đâu thu ngân sách khá lên, riêng năm 2025 đâu đó hơn 2 triệu tỷ đồng, xấp xỉ 75 tỷ USD. So với một nền kinh tế GDP chưa tới 500 tỷ USD, con số này vừa lớn, vừa… hơi bất thường nếu đặt cạnh tốc độ tăng trưởng chưa đến 8% mỗi năm. Nhưng thôi, tạm chấp nhận kịch bản lạc quan.
Đến cao trào thì xuất hiện hai “đại gia”. Mỗi ông ôm về một công nghệ khác nhau từ nước ngoài, tuyên bố sẵn sàng làm toàn bộ đường sắt cao tốc Việt Nam. Một ông còn hào phóng hơn: “Tôi lo luôn cả tài chính”. Xã hội xôn xao. Truyền thông nhập cuộc. Dư luận chọn mặt gửi vàng.
Rồi đỉnh điểm là khi một doanh nghiệp lớn ký hợp đồng với một tập đoàn nước ngoài cho một hạng mục cực kỳ quan trọng: giá chuyển hướng của đoàn tàu cao tốc. Chữ ký chưa ráo mực thì… hôm sau tuyên bố rút lui.
Ở đây, vấn đề không phải là “tin hay không tin” một doanh nghiệp. Vấn đề nằm ở chỗ khác căn bản hơn: khả năng tổ chức và triển khai một dự án hạ tầng siêu phức tạp, dài hàng nghìn kilomet, trong khung thời gian 5–10 năm, là điều gần như không tưởng – nếu bên tổ chức không phải là Trung Quốc.
Điểm khác biệt của Trung Quốc không nằm ở một công nghệ đơn lẻ, mà nằm ở mô hình tích hợp hoàn chỉnh: họ đồng thời là nhà thiết kế, nhà sản xuất, nhà thi công và đơn vị vận hành. Họ không chỉ bán tàu, mà bán cả hệ sinh thái đường sắt cao tốc, với kinh nghiệm thực tế vận hành hàng chục nghìn kilomet.
Giới chuyên môn đều biết: đường sắt cao tốc về tài chính thuần túy gần như chắc chắn lỗ. Người ta vẫn làm vì an ninh quốc gia, vì tính chủ động chiến lược, vì chuỗi cung ứng, vì khả năng thay thế – sửa chữa – nội địa hóa. So với hàng không, yêu cầu về thay thế linh kiện của đường sắt thấp hơn rất nhiều, dễ làm chủ hơn rất nhiều.
Việc một vài tập đoàn trong nước ký các thỏa thuận với những hãng lớn nước ngoài thực chất cũng không có gì lạ. Đó là logic “bánh đủ to thì mới chia”. Thị trường đủ lớn thì người ta mới sẵn sàng nói đến chuyển giao công nghệ. Nhưng thẳng thắn mà nói, không một doanh nghiệp Việt Nam nào có đủ năng lực tự thân để xây dựng và vận hành toàn bộ hệ thống đường sắt cao tốc quốc gia.
Trong bức tranh ấy, Trung Quốc lại có thêm một lợi thế mang tính quyết định: khả năng cung cấp tín dụng dài hạn với quy mô lớn, điều mà hiện nay gần như không có quốc gia nào khác sẵn sàng hoặc có đủ dư địa để làm.
Và Trung Quốc cũng là quốc gia có tốc độ phát triển công nghệ nhanh nhất thế giới. Cá nhân tôi thậm chí còn đoán rằng: thời điểm Trung Quốc hoàn thiện việc tự chủ máy quang khắc EUV cấp cao – nếu họ chưa làm xong – thì cũng xấp xỉ thời điểm tuyến đường sắt cao tốc Việt Nam có thể thông tuyến, nếu giao cho Trung Quốc làm ngay từ bây giờ.
Còn hiện tại thì sao?
Hiện tại là trạng thái rất giống… chết đuối vớ được cái cọc. Không còn bên nào thực sự đứng ra làm, đứng ra chịu trách nhiệm trọn gói. Và Trung Quốc, dù thích hay không, chính là bên đang chìa ra chiếc cọc đó.
Ánh sáng bình minh có thể lấp ló nơi đường chân trời. Nhưng bộ phim này, rõ ràng, vẫn còn vài tập nữa mới đến hồi kết.
(Lý Thanh Hà)