Tiến sĩ Vũ Thị Kim Dung
À, để cho chắc, xin giới thiệu đây là 1 người trình độ cao (tiến sĩ) trong ngành giáo dục nhé!
VỀ TIỂU THUYẾT “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH” CỦA BẢO NINH
Là một nhà giáo, cũng là người hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy Lý luận VHNT, có sự am hiểu nhất định về văn chương, tôi không thể giữ thái độ im lặng, không nói lên những suy nghĩ, cảm xúc của mình trước những luồng ý kiến trái chiều về cuốn Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
Văn học, với bản chất là nghệ thuật ngôn từ, luôn được trao quyền hư cấu và sáng tạo để phản ánh hiện thực cuộc sống một cách sâu sắc, đa chiều. Tuy nhiên, quyền ấy không phải là vô hạn. Khi hư cấu vượt quá giới hạn, trở thành công cụ để xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ những giá trị thiêng liêng của dân tộc, thì nó không còn là nghệ thuật chân chính nữa mà trở thành một hành vi phản văn hóa, gây hại cho nhận thức xã hội. Từ góc độ của lý luận Mỹ học và chức năng giáo dục của văn học, chúng ta cần nhìn nhận rõ ràng rằng văn học nghệ thuật phải phục vụ cho việc định hình nhận thức đúng đắn, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và giáo dục thế hệ trẻ về những bài học lịch sử cao đẹp. Trong bối cảnh đó, tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh nổi lên như một ví dụ điển hình về sự lạm dụng hư cấu, hạ bệ hình tượng Quân đội Nhân dân Việt Nam – biểu tượng anh hùng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết, cần khẳng định chức năng giáo dục và chức năng nhận thức của văn học nghệ thuật chân chính. Từ quan điểm của chủ nghĩa nhân văn, văn học không chỉ là sự tái hiện hiện thực mà còn là công cụ để giáo dục con người, định hướng nhận thức về các giá trị đạo đức, lịch sử và xã hội. Văn học phải góp phần xây dựng con người về tâm hồn và tư tưởng, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, và truyền tải những bài học về sự hy sinh anh hùng của các thế hệ đi trước. Với mỗi người dân Việt Nam từng phải trải qua những mất mát, đau thương khủng khiếp của chiến tranh để bảo vệ và gìn giữ nền độc lập của dân tộc cũng như trong nhận thức và lương tri của những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới, chiến tranh không bao giờ là đơn giản. Bản chất của chiến tranh là “vô luân” từ góc nhìn chung của nhân loại vì nó bao giờ cũng phải trả giá bằng sự chết chóc, tàn phá, mất mát không gì đong đo đếm nổi. Chiến tranh không bao giờ là một bức tranh đồng nhất, mà là một tấm gương nhiều mặt: có ánh sáng của hào quang chiến thắng đậm chất sử thi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng gắn với lý tưởng cao đẹp của lương tri và chính nghĩa, nhưng song hành với nó cũng là bóng tối bi thảm của máu và nước mắt, của những số phận bị nghiền nát. Viết về chiến tranh cần có góc nhìn đa chiều và tâm thế người đọc cũng cần trân trọng và đánh giá cao những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh thể hiện được góc nhìn đa chiều đó. Văn chương chân chính có quyền và có trách nhiệm soi chiếu cả những gam màu tối của chiến tranh để con người hiểu sâu hơn cái giá của hòa bình, từ đó càng trân trọng hơn giá trị của Hoà Bình. Nhưng điều đó không có nghĩa là tác phẩm văn học được phép nhân danh “quan điểm đa chiều” để chà đạp lên cái đẹp, cái cao cả, hạ thấp và làm méo mó những biểu tượng văn hóa lịch sử. Văn học chân chính cần tôn vinh những giá trị cao đẹp đó để giáo dục thế hệ trẻ về lòng biết ơn và trách nhiệm với Tổ quốc. Nếu văn học đi ngược lại điều này, nó sẽ gây ra những hậu quả khôn lường, làm méo mó nhận thức của giới trẻ, dẫn đến sự thờ ơ hoặc phủ nhận những giá trị thiêng liêng mà cha ông đã đổ máu để bảo vệ. Chính vì vậy, việc phê phán những tác phẩm như “Nỗi buồn chiến tranh” không chỉ là bảo vệ sự thật lịch sử mà còn là khẳng định trách nhiệm giáo dục của văn học.
Soi chiếu vào “Nỗi buồn chiến tranh”, chúng ta thấy rõ sự vi phạm nghiêm trọng đối với chức năng giáo dục này. Tác phẩm miêu tả hình ảnh chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam một cách bạc nhược, u ám, hoàn toàn trái ngược với thực tế anh hùng của “Bộ đội Cụ Hồ” – những người đã hy sinh xương máu để giành độc lập dân tộc. Bảo Ninh, dưới vỏ bọc hư cấu nghệ thuật, đã xây dựng một bức tranh xám xịt về chiến tranh, nơi các chiến sĩ bị hạ thấp phẩm giá, trở thành biểu tượng của sự đồi bại và yếu hèn. Điều này không chỉ xuyên tạc hiện thực mà còn tấn công trực tiếp vào nhận thức của người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ, khiến họ có cái nhìn lệch lạc về lịch sử dân tộc.
Cụ thể, hai tình tiết trong tác phẩm là minh chứng rõ nét cho sự hư cấu ác ý nhằm bôi nhọ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thứ nhất, tình tiết “giết con vượn ăn thịt”. Tác giả kể rằng bộ đội bắn chết một con vượn, khiêng về đơn vị để làm thịt, rồi khi cạo lông mới phát hiện đó là một phụ nữ dân tộc – đồng bào của mình. Sau đó, họ lẳng lặng chôn xác đi, che giấu tội lỗi. Tình tiết này hoàn toàn vô căn cứ, không có cứ liệu thực tế nào. Những cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu ở Tây Nguyên thời kỳ đó, nhiều người còn sống, đều phủ nhận tuyệt đối và vô cùng phẫn nộ. Đây không phải là hư cấu sáng tạo mà là sự bịa đặt chủ quan, nhằm cáo buộc Quân đội Nhân dân Việt Nam giết hại đồng bào và giấu diếm. Từ góc độ giáo dục, tình tiết này gây hại nghiêm trọng: nó làm suy giảm lòng tin của thế hệ trẻ vào quân đội, biến những anh hùng thành kẻ sát nhân, từ đó làm phai mờ giá trị hy sinh cao đẹp của cuộc kháng chiến. Văn học chân chính phải giáo dục về lòng nhân ái và tinh thần đoàn kết dân tộc, chứ không phải gieo rắc nghi ngờ và chia rẽ như vậy.
Thứ hai, tình tiết cưỡng hiếp trên tàu hỏa càng lộ rõ ý đồ hạ bệ. Nhân vật chính Kiên dẫn người yêu Phương từ Hà Nội đi tàu vào Nam tham gia chiến đấu. Trong hỗn loạn, một nhóm bộ đội lôi Phương vào toa tàu và cưỡng hiếp cô, trong khi Kiên bất lực không thể cứu. Tình tiết này cũng hoàn toàn bịa đặt, không có nhân chứng, vật chứng. Các chiến sĩ cùng đơn vị với Bảo Ninh, trên cùng chuyến tàu đi B năm ấy, đều khẳng định không hề xảy ra sự việc đồi bại như vậy. Đây là sự tưởng tượng ác ý, bệnh hoạn, núp bóng “hư cấu nghệ thuật” để biến Quân đội Nhân dân Việt Nam thành biểu tượng của sự tha hóa, mất nhân tính. Từ góc độ nhận thức, nó tấn công trực tiếp vào hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ” – những người lính luôn giữ gìn phẩm giá cách mạng, tôn trọng nhân dân. Văn học giáo dục phải nhấn mạnh tinh thần kỷ luật, đạo đức quân nhân, chứ không được phép bôi đen như thế này, vì nó sẽ khiến giới trẻ có cái nhìn tiêu cực về lịch sử, coi chiến tranh chỉ là địa ngục của sự đồi bại thay vì hành trình anh hùng.
Không dừng lại ở hai tình tiết, toàn bộ tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” ngập tràn gam màu u ám, với dòng cảm xúc chủ đạo là sự phỉ báng và bôi nhọ. Nội dung cơ bản xoay quanh nỗi buồn, sự thất vọng, và hình ảnh quân đội như những nạn nhân của chiến tranh vô nghĩa, thay vì những người anh hùng chiến thắng. Điều này trái ngược hoàn toàn với thực tế lịch sử: Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cùng toàn thể nhân dân đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mang lại độc lập tự do. Sự xuyên tạc này gây bất bình lớn trong đông đảo bạn đọc, đặc biệt là cựu chiến binh, giới tri thức và những người có lương tri. Từ chức năng giáo dục, tác phẩm không những không định hướng nhận thức tích cực mà còn gieo rắc tư tưởng bi quan, phủ nhận giá trị hy sinh của cha ông. Nếu văn học chân chính phải khơi dậy lòng yêu nước, thì “Nỗi buồn chiến tranh” lại làm ngược lại, ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ trẻ – những người đang cần được giáo dục về lịch sử vẻ vang để tiếp nối truyền thống dân tộc.
Điều đáng tiếc hơn là tác phẩm này lại được một nhóm quản lý văn học nghệ thuật bình chọn, trao giải thưởng, và thậm chí đưa vào chương trình sách giáo khoa THPT. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, vì nó biến văn học thành công cụ tuyên truyền tiêu cực, ảnh hưởng đến nhận thức của hàng triệu học sinh. Giới trẻ, với tâm hồn non nớt, dễ bị dẫn dắt bởi những hình ảnh u ám, dẫn đến cái nhìn méo mó về lịch sử: coi cuộc kháng chiến là bi kịch vô nghĩa thay vì chiến thắng vĩ đại. Từ góc độ triết học, văn học phải phục vụ lợi ích dân tộc, giáo dục đạo đức và nhận thức đúng đắn. Việc đưa tác phẩm này vào giáo dục là phản giáo dục, cần được xem xét lại để bảo vệ giá trị chân chính.
Tóm lại, “Nỗi buồn chiến tranh” là minh chứng cho sự lạm dụng hư cấu nhằm bôi nhọ Quân đội Nhân dân Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chức năng giáo dục của văn học. Văn học chân chính phải tôn vinh giá trị anh hùng, định hướng nhận thức tích cực cho thế hệ trẻ, chứ không được phép xuyên tạc lịch sử. Chúng ta cần lên án mạnh mẽ những tác phẩm như vậy để bảo vệ biểu tượng “Bộ đội Cụ Hồ”, nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và đảm bảo văn học thực sự phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Chỉ khi văn học gắn bó với sự thật và giáo dục, nó mới xứng đáng là nghệ thuật cao đẹp.
(TS. Vũ Thị Kim Dung - Nguyên P. Trưởng khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục Công dân; Trưởng khoa CTXH, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)