- Biển số
- OF-785718
- Ngày cấp bằng
- 27/7/21
- Số km
- 6,814
- Động cơ
- 716,754 Mã lực
Như tên của em đó cụ!How long have you been on topic?
Hỏi khí không phải, có ai từng gọi cụ là Pavel Corchagin chưa vậy?![]()
Như tên của em đó cụ!How long have you been on topic?
Hỏi khí không phải, có ai từng gọi cụ là Pavel Corchagin chưa vậy?![]()
Em tóm gọn có khi lại bay nick cụ ơi. Thôi cứ viết cẩn thận.Anh Kiên có thể làm ơn tóm lược trong 1 đoạn ngắn đc hok?!
Vì đọc bài của a mà e miss 1 cuốc xe rồi đâyyy nàyyyy....
Tưởng cái gì, trên đây nói về quyển này từ lâu rồi cụTrong thời gian 1 tuần nghỉ phép của em thì cuộc đấu tranh vì chính nghĩa trên không gian mạng đã chuyển vào trạng thái chính thức.
Đây không còn là nội dung "vùng cấm" mà đã được nhận diện rõ ràng:
Sai lầm có thể sửa, phản bội thì không
VỮNG NGUYỄN • 14/12/2025 - 21:59
Lịch sử của một dân tộc không phải là bản thảo nháp để ai đó tùy tiện gạch xóa, sửa câu, thay nghĩa theo cảm xúc cá nhân hay theo “thị hiếu” tư tưởng thời thượng. Lịch sử càng không phải là vật hy sinh cho những thử nghiệm văn chương vô trách nhiệm.
Sai lầm, nếu có, có thể nhận diện, có thể sửa chữa, nhưng phản bội thì không. Bởi phản bội không phải là nhầm lẫn nhận thức. Phản bội là lựa chọn có ý thức, là lựa chọn đứng sang phía đối lập với sự thật lịch sử, với giá trị cốt lõi đã làm nên sự tồn tại của quốc gia, với máu xương của hàng triệu người đã ngã xuống.
Đánh tráo khái niệm
Mảnh tường còn sót lại ở Khâm Thiên (Hà Nội) sau trận Điện Biên Phủ trên không thách thức Ních-xơn. Ảnh: Báo Nhân Dân
Trong nhiều năm qua, dưới danh nghĩa “đổi mới tư duy”, “nhìn lại chiến tranh từ góc độ cá nhân”, một số tác phẩm văn học đã đi quá giới hạn phản tư cần thiết để trượt sang đánh tráo bản chất lịch sử.
Từ phản ánh số phận con người trong chiến tranh, họ lặng lẽ chuyển sang lật ngược hệ giá trị, biến người anh hùng thành kẻ đáng ngờ, biến cuộc chiến vệ quốc chính nghĩa thành bi kịch vô nghĩa, và biến Quân giải phóng (lực lượng làm nên độc lập, thống nhất đất nước) thành một tập hợp méo mó, suy đồi, mất nhân tính.
Một số tác phẩm văn học nhận được sự phản đối gay gắt của nhân dân thời gian qua là minh chứng về sự phản bội tư tưởng. Không phải vì các tác phẩm đó viết về nỗi đau, bởi chiến tranh nào không có đau thương. Mà vì trong nhiều lớp miêu tả, tác phẩm đã xuyên tạc hình tượng người chiến sĩ, gán cho họ những hành vi, tâm thế, bản năng đi ngược hoàn toàn với kỷ luật, lý tưởng, phẩm giá của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ở đây, cần nói thẳng: Nếu là sai sót nghệ thuật, có thể tranh luận. Nếu là góc nhìn cá nhân, có thể đối thoại. Nhưng khi lặp đi lặp lại một hình ảnh người lính suy đồi, bạo lực vô kỷ luật, trụy lạc, vô nhân đạo, khi những chi tiết hư cấu chạm tới danh dự của cả một quân đội, thì đó không còn là sai lầm, mà đó là lựa chọn tư tưởng.
Không thể nhân danh văn chương để bóp méo lịch sử
Trên đống đổ nát của Bệnh viện Bạch Mai, từ phải sang: nhà báo, nhà văn Thép Mới, nhà thơ Chế Lan Viên, nhà thơ Huy Cận (quàng khăn kẻ). Ngoài cùng bên trái là nhà văn Nguyễn Tuân. Mọi người đang nghe Anh hùng Lao động, GS, bác sĩ Trần Hữu Tước (người xách cặp) tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ. Ảnh: Báo Nhân Dân
Một dân tộc có thể chấp nhận nhà văn viết về nỗi đau, nhưng không thể chấp nhận việc nhà văn đứng trên nỗi đau ấy để phủ nhận chính nghĩa của cuộc chiến.
Càng không thể chấp nhận việc nhân danh “tự do sáng tạo” để gieo rắc hoài nghi về nền tảng đạo đức của Quân giải phóng, lực lượng đã hy sinh không phải cho một học thuyết trừu tượng, mà cho độc lập dân tộc, cho quyền được làm người của nhân dân Việt Nam.
Văn chương không đứng ngoài trách nhiệm xã hội, và nhà văn càng không đứng ngoài lịch sử.
Khi một tác phẩm khiến cho kẻ thù cũ hả hê, khiến những thế lực chống phá lịch sử Việt Nam coi đó là “bằng chứng nội sinh, sinh động”, trong khi lại gây tổn thương sâu sắc cho cựu chiến binh, thương binh, thân nhân liệt sĩ thì câu hỏi cần đặt ra không phải là “tác phẩm hay hay dở”, mà là tác phẩm đó đang phục vụ cho hệ giá trị nào?
Sai lầm có thể sửa, phản bội thì không
Có người nói, đó chỉ là văn học, đừng chính trị hóa. Lập luận này nghe thì có vẻ “ôn hòa”, nhưng thực chất là trốn tránh trách nhiệm.
Cũng không ai nhầm lẫn văn học với sử học. Nhưng văn học viết về lịch sử thì không được quyền bịa đặt làm tổn hại lịch sử.
Bởi lịch sử Việt Nam chưa bao giờ là câu chuyện trung tính. Cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) không phải là cuộc xung đột vô nghĩa giữa những cá nhân lạc lối, mà là cuộc chiến vệ quốc vĩ đại, nơi hàng triệu con người đã tự nguyện đặt sinh mạng mình dưới lá cờ độc lập.
Khi một tiểu thuyết lấy bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, sử dụng hình tượng người chiến sĩ Quân giải phóng, tức chủ thể lịch sử có thật, thì mọi hư cấu đều phải tôn trọng ranh giới đạo đức và sự thật nền tảng.
Xuyên tạc hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong cuộc chiến ấy không phải là “cách nhìn khác”, mà là phủ định nền tảng đạo đức của cả một thời đại. Và phủ định có hệ thống, có chủ ý, lặp lại nhiều lần thì không thể gọi là vô tình.
Nếu văn học được phép gán cho bộ đội những hành vi vô kỷ luật, vô nhân tính; khắc họa họ như tập hợp những con người suy đồi, trụy lạc, bạo lực bản năng; làm mờ hoặc phủ định lý tưởng chiến đấu; … rồi biện minh bằng câu “đây chỉ là văn học”, thì mọi biểu tượng lịch sử đều có thể bị xé nát.
Sai lầm là khi người ta nhận ra mình đã đi lệch và quay lại. Phản bội là khi biết rõ mình đang đi đâu, nhưng vẫn đi. Và lịch sử dân tộc Việt Nam không có nghĩa vụ phải khoan dung với sự phản bội ấy, dù nó khoác lên mình chiếc áo văn chương bóng bẩy đến đâu.
Không thể im lặng trước sự phản bội giá trị
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Ảnh: Báo Quân đội
Một câu hỏi không thể né tránh, đó là: Ai hưởng lợi khi hình tượng Quân giải phóng bị bôi nhọ? Ai hưởng lợi khi cuộc chiến vệ quốc bị gọi là “bi kịch vô nghĩa”? Ai hưởng lợi khi lớp trẻ được dẫn dắt để nhìn lịch sử dân tộc bằng con mắt hoài nghi, yếm thế, mất niềm tin?
Câu trả lời không nằm trong nước, và đó là lý do vì sao những tác phẩm méo mó tư tưởng đó luôn được tung hô, khai thác, trích dẫn ở những diễn đàn vốn chưa bao giờ thiện chí với lịch sử Việt Nam.
Người chiến sĩ đã ngã xuống thì không thể tự lên tiếng. Nhưng những người còn sống thì không có quyền im lặng.
Bảo vệ lịch sử không phải là bảo thủ. Bảo vệ hình tượng Bộ đội Cụ Hồ không phải là thần thánh hóa. Đó là giữ gìn ranh giới đạo đức tối thiểu để một dân tộc không tự cắt rễ của mình.
Sai lầm, nếu có, còn có thể sửa. Nhưng khi đã lựa chọn đứng về phía bóp méo, xuyên tạc, lật sử, thì đó không còn là sai lầm.
Đó là phản bội. Và với lịch sử, phản bội là không thể tha thứ.
(Báo Cựu Chiến Binh)
Từ tốn, chịu khó hơn, bác sĩ Phạm Ngọc Thắng, một quân nhân, cựu chiến binh, viết:
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, PHIÊN BẢN XẤU CỦA “PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ”
Xin phép được viết bài này với ngôn từ lính tráng, ai thích thì đọc, không thì thôi.
Lần đầu, đọc Nỗi buồn chiến tranh-NBCT, tôi thốt lên trong đầu: Cái *** gì thế này, một phiên bản Việt của Phía Tây không có gì lạ đây rồi, nhưng phiên bản này xấu và đầy tính ăn cắp. Nhưng xấu thì xấu hơn, ăn cắp ý tưởng thì trắng trợn và không thấy cái đẹp của Số phận con người, không hướng thiện.
Xin nói về tác giả và tác phẩm Phía Tây không có gì lạ trước.
Erich Maria Remarque là tác giả của Im Westen nichts Neues dịch sang tiếng Việt là Phía Tây không có gì lạ, hay Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh. Ông là một cựu binh Đức từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, sau đó về làm giáo viên và bỏ nghề thành nhà văn, từng được đề cử giải Nobel văn chương. Ngày nay, tại quê hương ông có con đường mang tên ông; có giải thưởng mang tên ông như một sự tri ân và ghi nhớ dù ông bị trục xuất khỏi nước Đức dưới thời Quốc xã.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Phía Tây không có gì lạ, đã được viết trong vài tháng năm 1927, nhưng Remarque không tìm được một nhà xuất bản, mà phải đợi mãi tới năm 1929 mới được xuất bản. Ngay lập tức, nó gây chấn động trên toàn thế giới.
Tiểu thuyết này mô tả các kinh nghiệm từng trải của những người lính Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ông cũng là tác giả của cuốn Zeit zu leben und Zeit zu sterben- Thời Gian Sống và Thời Gian Chết, dịch sang tiếng Anh, được dựng phim với tựa đề A Time to Love and a Time to Die, Thời gian để Yêu và Thời gian để Chết.
Tác phẩm Phía Tây không có gì lạ miêu tả cuộc đời từ lúc cùng nhập ngũ với sáu người bạn học đến khi chết của một anh lính Đức trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Cuốc sống lính tráng được mô tả chân thực đến đậm đặc, bất cứ người lính nào trải qua chiến trận đều thấy bóng dáng của mình trong ấy: Lười tập; ăn cắp thực phẩm được thứ gì thì ăn trộm thứ ấy... chỉ để thỏa mãn cơn đói triền miên; văng tục *** xíu; trùm chăn đánh chỉ huy; trốn trại đi chơi gái; bị thương nằm viện và nỗi nhớ nhà; diễm phúc được đi phép về thăm mẹ; chiến hào bẩn thỉu; trận chiến đầu tiên-kẻ thù đầu tiên và lần g.iết người đầu tiên... nhiều lắm, vỏn vẹn trong gần 200 trang sách.
Anh lính Paul Bäumer chết vào một ngày tháng 10 năm 1918, một ngày mà tình hình trên suốt Mặt trận yên ả đến lạ kỳ, tới mức các báo cáo quân sự từ mặt trận phía Tây chỉ chứa gọn một câu "Ở phía Tây, không có gì lạ" và nó đã được lấy làm tựa đề cho cuốn tiểu thuyết.
Lúc người ta lật người anh lính lên, gương mặt anh vẫn toát ra vẻ bình thản chứ không hề có một biểu hiện đau đớn gì cả.
Có vẻ như anh hài lòng vì sự kết thúc đã đến.
Tác phẩm mô tả sự thật: Con người trong chiến tranh nó nhỏ nhoi đến bi thương, nó đầy nét sống tiêu cực đến bẩn thỉu và kiếp sống phổ biến cho tất cả những người tham gia trận chiến không từ một ai.
Và cũng mô tả một sự thật: Tất cả những người lính chiến đều thanh thản nhận số phận của mình, và đều chỉ mong về với mẹ.
Trở lại tiêu đề bài viết, tại sao tôi gọi NBCT là một phiên bản của Phía Tây không có gì lạ, thì bạn hãy đọc nó đi: Cũng ra trận không vui vẻ gì, cũng đói khổ, cũng nhầy nhụa gái mú, cũng suy ngẫm như thật về người lính hai bên chiến tuyến... Cái thêm của NBCT là cuộc sống hậu chiến với đầy tiêu cực: Lính lác ăn trộm ăn cướp, gái nhà lành thì thành buôn gia bị tổ thuế cựu chiến binh cưỡng hiếp trấn lột, cuộc sống hậu chiến đầy bế tắc... một motif hậu chiến giống như trích từ các trang sách Âu Mỹ đầy rẫy.
Nhưng Cái gì đẹp thì không đẹp bằng, cái gì xấu bẩn thì xấu bẩn hơn, tôi không muốn nhắc lại chi tiết, bẩn bài viết của mình.
Đọc Nỗi buồn chiến tranh, không thấy chút tự hào của người lính tham gia cuộc chiến giành lại độc lập tự do của đất nước, đặc biệt, không thây tinh thần Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của những người tham gia Giải phóng Dân tộc khỏi giặc ngoại xâm, không thấy khí thế Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước của bao lứa trai lên đường đánh giặc Mỹ và sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ, hy sinh tương lai và đã nằm xuống vì chính nghĩa.
Đọc NBCT, chỉ thấy bẩn thỉu và oán hận.
Tôi không hiểu sự tri ân vừa qua cho tác giả cuốn tiểu thuyết này có ý nghĩa gì.
Hay, những người tri ân này họ muốn phỉ nhổ vào Cuộc chiến tranh thần thánh mang lại thống nhất đất nước, mang lại độc lập tự do của Dân tộc Việt Nam mà bao lớp trai ra trận và bao người đã nằm lại không về với mẹ.
Điều đó, hãy để cho những người có trách nhiệm trả lời, phần tôi, một người lính sẵn sàng hy sinh thân mình vì Đồng bào mình, vì Tổ quốc của mình chỉ biết nói như vậy./.
..
Bài tiếp theo của ông:
VĂN HỌC LÀ NHÂN HỌC, KHÔNG THỂ LÀ BIẾT CHỮ HAY CÓ NGHỀ VIẾT THÌ MUỐN VIẾT GÌ THÌ VIẾT
Có lẽ, chúng ta mãi nhớ cuộc tranh luận Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh từ những năm 30”s-40”s thế kỷ trước.
Một bên thì khăng khăng, nghệ thuật là một thứ cao quý, không lệ thuộc vào cái gì cả ngoài ý muốn của người viết.
Bên kia, tiêu biểu là Hải Triều, buộc nghệ thuật phải gắn với nhân sinh, với thăng tiến xã hội, nghệ thuật phải gắn với cuộc sống của dân tộc và của nhân loại. Hay, nghệ thuật là của cuộc sống đại chúng chứ không phải là của riêng một mớ ông bà thích viết gì thì viết.
Tôi nhắc lại để nhắc những ông bà đang ca tụng Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh hãy nhớ đến điều cơ bản nhất của một người cầm bút là phải hướng thiện, phải hướng đến cuộc sống của đại chúng, của dân tộc, của thời đại và của nhân loại.
Không thể bao biện: Văn đẹp, chữ mới, dám dũng cảm đi vào những cái bẩn thỉu nhất của cá nhân... để biện hộ cho việc làm sai trái của Bảo Ninh: Đi ngược lại khí thế hào hùng của dân tộc, xoáy sâu vào cái bẩn thỉu của cá nhân khi nhìn tính dục như một biện pháp giải thoát khỏi ẩn ức thất bại, hèn nhát và trốn tránh.
Không thể ca tụng việc bịa đặt vu khống bôi nhọ cuộc chiến tranh chính nghĩa, đánh đồng hai bên chiến tuyến làm một.
Không thể ca tụng cả những thứ bẩn thỉu khốn nạn nhất như là một việc dũng cảm khi dựng chuyện bộ đội Việt Nam hiếp dâm tập thể, bịa đặt việc bộ đội bắn chết đồng bào tưởng là vượn, bịa đặt việc tàn nhẫn của chính thể với cá thể..v..v.
Xin nêu một ý kiến đánh giá NBCT của anh Nam Nguyen:
"Đánh giá Nỗi buồn chiến tranh dưới ánh sáng mỹ học Hegel & Kant – hai nền tảng đã được thế giới công nhận suốt 200 năm qua để thấy rõ sự phản giá trị của truyện và nguỵ biện xảo ngôn của nhóm biện minh, ủng hộ cho rác phẩm này.
⸻
1. Tại sao phải dùng Hegel và Kant để đánh giá một tác phẩm văn học?
Trong lịch sử triết học phương Tây, Immanuel Kant và G.W.F. Hegel là hai nhà tư tưởng đặt nền móng cho mỹ học hiện đại – tức lý luận về cái đẹp, về nghệ thuật, về giá trị của sáng tạo.
• Mỹ học Kant xác định tiêu chí cho cái đẹp, cái gì mới gọi là “nghệ thuật đẹp”:
vô tư lợi
phổ quát
nâng tầm tinh thần
hài hòa lý tính – trí tưởng tượng
không ép buộc cảm xúc người đọc chìm trong bản năng thấp
• Mỹ học Hegel xác định tiêu chí cho nghệ thuật lớn, đặc biệt là nghệ thuật mang tầm vóc dân tộc:
phản ánh tinh thần thời đại
thể hiện ý niệm lịch sử
nâng cao tâm hồn cộng đồng
thống nhất giữa cá nhân và dân tộc
hướng con người đến sự hòa giải tinh thần
Hai bộ mỹ học này đã được giảng dạy trong:
• Đại học Harvard
• Đại học Chicago
• MIT, Yale
• Oxford, Cambridge
• Paris-Sorbonne
• Tokyo University
và toàn bộ hệ thống giáo dục nghệ thuật – triết học thế giới.
Đây không phải “quan điểm cá nhân”, mà là nền móng triết học được thế giới công nhận.
Ngay cả trong phân tích văn học quốc tế, khi đánh giá một tác phẩm “có tầm vóc hay không”, người ta luôn quay lại các tiêu chí Kant – Hegel.
⸻
2. Chiếu theo Kant & Hegel: Nỗi Buồn Chiến Tranh đứng ở đâu?
A. Theo Kant: Tác phẩm không đạt chuẩn “cái đẹp nghệ thuật”
(1) Không vô tư
Kant yêu cầu nghệ thuật phải tạo khoái cảm tinh thần không dính tới bản năng, không bị chi phối bởi:
• dục tính,
• ám ảnh,
• rối loạn tâm lý,
• đau đớn cá nhân
NBCT lại tràn đầy:
• ám ảnh tình dục,
• cảnh xác thịt,
• hoảng loạn tinh thần,
• cảm xúc tăm tối dồn nén → Mất tính vô tư → vi phạm tiêu chí mỹ học căn bản nhất.
⸻
(2) Không phổ quát
Cảm xúc thẩm mỹ phải có tính “phổ quát”, tức ai có khả năng cảm thụ cũng thấy đẹp.
NBCT chỉ phản ánh bi kịch của một cá nhân, không đại diện cho cộng đồng → Không thể trở thành “chân lý thẩm mỹ”.
⸻
(3) Không hài hòa trí tuệ – cảm xúc
Kant yêu cầu nghệ thuật phải giúp trí tuệ sáng ra, chứ không làm người đọc chìm trong:
• tuyệt vọng
• hoang mang
• hỗn loạn cảm xúc
NBCT đẩy người đọc vào khoảng tối tâm lý, không hề mở ra bất kỳ “chơi tự do của trí năng” nào → Không đạt chuẩn nghệ thuật đẹp.
⸻
B. Theo Hegel: một tác phẩm không phản ánh tinh thần dân tộc khi
(1) Không biểu hiện được “Ý niệm tinh thần của thời đại”
Hegel nhấn mạnh: tác phẩm lớn phải nói lên được tinh thần dân tộc.
Nhưng NBCT:
• không tôn vinh tinh thần chiến đấu của dân tộc
• không phản ánh ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến chính nghĩa
• biến sự hy sinh của hàng triệu người thành bi kịch tâm lý cá nhân
→ Không thể là tác phẩm nghệ thuật lớn theo Hegel.
⸻
(2) Tách cá nhân khỏi dân tộc
Hegel cho rằng nghệ thuật phải hòa giải cá nhân với cộng đồng.
NBCT lại:
• tuyệt đối hóa nỗi đau cá nhân
• tách người lính khỏi ý nghĩa chung
• khiến cuộc chiến trở thành nỗi sụp đổ riêng của một người
→ Vi phạm tinh thần mỹ học Hegel.
⸻
(3) Không nâng cao tinh thần mà kéo nó xuống
Hegel yêu cầu nghệ thuật phải:
• hướng con người đi lên
• khơi dậy tinh thần
• đưa người đọc đến sự hòa giải với lịch sử
NBCT làm ngược lại:
→ dẫn người đọc vào bóng tối tâm lý → đánh mất ý nghĩa lịch sử → xuyên tạc tinh thần dân tộc.
⸻
3. Kết luận: NBCT không đạt chuẩn nghệ thuật theo cả Kant lẫn Hegel
Nói một cách công bằng và thẳng thắn:
NBCT là cuốn tiểu thuyết tâm lý hóa cá nhân
không mang tầm vóc nghệ thuật lớn
không phản ánh tinh thần dân tộc
không đạt chuẩn mỹ học quốc tế
không phù hợp đưa vào bậc phổ thông
không đại diện cho lịch sử chiến tranh vệ quốc
Nếu đem chiếu theo Kant: → không còn là “cái đẹp”
Nếu đem chiếu theo Hegel: → không phải “nghệ thuật của tinh thần dân tộc”
Tức là: Không đủ tiêu chuẩn để đại diện văn học Việt Nam trong sách giáo khoa.
Khi nói về NBCT, đừng tranh luận bằng cảm xúc cá nhân mà Hãy dùng nền tảng triết học thế giới – Kant và Hegel – thứ mà mọi ngành nghệ thuật văn chương nghiêm túc đều dựa lên để đánh giá một tác phẩm.
Và khi đặt NBCT vào chuẩn thế giới, ta thấy rất rõ:
Đây chỉ là rác phẩm thể hiện góc nhìn lệch lạc méo mó của cá nhân Bảo Ninh, nhưng không đạt tầm vóc tư tưởng để trở thành một truyện đúng nghĩa chứ đừng nói đến chuẩn mực văn học quốc gia như đã "bị" trao giải.
Một tác phẩm không đạt chuẩn triết học về cái đẹp và tinh thần dân tộc không nên được ép vào đầu học sinh phổ thông."
Tôi cũng vậy, tôi nói NBCT là một tác phẩm rác rưởi, bẩn thỉu được viết ra từ một cá nhân hèn nhát.
Xin nhớ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này: Nó ra đời khi Dương Thu Hương được giải thưởng của nước mẹ Đại Pháp của bà, khi trào lưu xét lại ý nghĩa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, khi những ý tưởng đòi đa nguyên đa đảng manh nha bùng phát... Nó là một tác phẩm a dua a tòng, tưởng rằng chửi rủa Cuộc chiến tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam là sẽ được bố Mỹ, mẹ Pháp, cha tàu tung hô và dung túng trao giải, là được lưu vong ngoại quốc.
************* Việt Nam đã có công lãnh đạo dân tộc Việt Nam thống nhất đất nước, giành độc lập tự do, điều đó không ai có thể bác bỏ hay bôi nhọ được.
Cho dù có những sai lầm, có những thiếu sót, thậm chí có những tổn thất nặng nề đến cuộc sống cá thể nhưng với điều kiện dân trí, điều kiện kinh tế, điều kiện chiến tranh liên miên như trong thời gian đó, đa nguyên đa đảng thì chỉ có tan vỡ, có mất nước.
Xét bất cứ điều gì, phải đặt Dân tộc lên trên hết, Đồng bào lên trên hết và nếu suy rộng ra, Nhân loại phải trên tất cả.
Không thể chỉ vì cá nhân mà lờ đi, mà viết ra những câu chữ làm bẩn thỉu trang giấy trắng. Đặc biệt, không thể đưa vào sách giáo khoa, không thể làm vấy bẩn học sinh phổ thông- tương lai của Dân tộc Việt Nam./.
Bác sỹ Phạm Ngọc Thắng.
Bằng 2 bài viết này, ông đã lật mặt mọi luận điệu có thể dùng để tô vẽ, biện minh cho việc tôn vinh rác phẩm NBCT. Kể cả từ giá trị văn chương đến đạo đức người viết văn.
Trước đó, ngày 11/12/2025, Kênh truyền hình An Ninh TV đã lên bài "Cần xử lý nghiêm các đối tượng ********* ‘lật sử’, bôi nhọ Anh hùng dân tộc nhằm chống phá Nhà nước" không chỉ về ấn phẩm NBCT mà còn về việc tôn vinh hàng loạt nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi thông qua đặt tên đường.
...
Do đó tôi đề nghị, những thông tin không còn gì "bí mật, vùng cấm" ít nhất cần được dư luận biết rõ.
Nhân vật chính tên là Kiên, Tác giả tên là Phương. Trong truyện, Kiên và Phương yêu nhau, nhưng không có QHTD thì phải. Cụ Kiên Khùng không thích truyện này.Anh Kiên có thể làm ơn tóm lược trong 1 đoạn ngắn đc hok?!
Vì đọc bài của a mà e miss 1 cuốc xe rồi đâyyy nàyyyy....
Cũng xơ múi hoa quả tí tí đủ để gọi là nhớ nhung, chứ mukbang rồi thì chẳng còn chuyện để kể.Nhân vật chính tên là Kiên, Tác giả tên là Phương. Trong truyện, Kiên và Phương yêu nhau, nhưng không có QHTD thì phải. Cụ Kiên Khùng không thích truyện này.


Con cá mất là con cá to mà cụ. Anh Kiên còn nghiêm túc hơn cả Pavel tôi thép, chán.Cũng xơ múi hoa quả tí tí đủ để gọi là nhớ nhung, chứ mukbang rồi thì chẳng còn chuyện để kể.
Chỉ thắc mắc “yêu” mà nó đơn giản đến thế thì anh Kiên trăn trở làm đếch gì cho phí thằng người. Hâm!
Hay ảnh lại muốn đổ thừa cho cái gì đó![]()
Uầy, tuỳ người thôi cụ, thằng bạn những năm 2000 chỉ nắm tay thôi mà lên máu, cứ trăn trở mãi khi … lấy em khác làm vợCon cá mất là con cá to mà cụ. Anh Kiên còn nghiêm túc hơn cả Pavel tôi thép, chán.


e đọc gần hết các tác phẩm của nhà văn CL, trừ Mưa đỏ. Có 3 lần và 1 lần là viết tiếp của Nắng Đồng Bằng.Tac phẩm của Chu Lai hơi giống con người ổng ở ngoài
Hơi gồng ạ
Trong cac cuốn có Ăn mày dĩ vãng đọc khá OK
View attachment 6903272
CL cũng là lính đặc công giống Bảo Ninh thì phải. Nhưng viết nhiều hơn, nên chăc vì thế cũng loãng hơn
Buồn nhưng đa phần không phải nỗi buồn như tác giả kể. Mấy đoạn 18+ như tiểu thuyết 3 xu mà cũng có đứa đưa vào SGK được thì cũng lạyChiến tranh tất nhiên là buồn rồi. Nó là tất yếu không ai muốn chiến tranh cả, kể cả người lính. Không hiểu sao có người vui với chiến tranh được chứ?



Cũng không biết được cụ ạ. "Thân phận Tình yêu" gặp các thầy ghét thì cũng bị phê kiểu : Tình yêu nước mà nó viết là thân phận, trời ơi. Mà đọc quyển này nửa tỉnh nửa mơ, đọc rõ mệt, em đọc đúng 1 lần, không muốn đọc lại.Uầy, tuỳ người thôi cụ, thằng bạn những năm 2000 chỉ nắm tay thôi mà lên máu, cứ trăn trở mãi khi … lấy em khác làm vợ
Trở về cuốn tiểu thuyết này, giá như nó vẫn giữ tên cũ "Thân Phận Tình Yêu" thì chắc chẳng có điều tiếng hay rumor gì, chìm vào trong hằng sa số tiểu thuyết khác về tình yêu. À mà có khi như vậy lại ... chẳng được giải![]()
Cần gì phải dùng đến Kant mới lị Hegel …Trong thời gian 1 tuần nghỉ phép của em thì cuộc đấu tranh vì chính nghĩa trên không gian mạng đã chuyển vào trạng thái chính thức.
Đây không còn là nội dung "vùng cấm" mà đã được nhận diện rõ ràng:
Sai lầm có thể sửa, phản bội thì không
VỮNG NGUYỄN • 14/12/2025 - 21:59
Lịch sử của một dân tộc không phải là bản thảo nháp để ai đó tùy tiện gạch xóa, sửa câu, thay nghĩa theo cảm xúc cá nhân hay theo “thị hiếu” tư tưởng thời thượng. Lịch sử càng không phải là vật hy sinh cho những thử nghiệm văn chương vô trách nhiệm.
Sai lầm, nếu có, có thể nhận diện, có thể sửa chữa, nhưng phản bội thì không. Bởi phản bội không phải là nhầm lẫn nhận thức. Phản bội là lựa chọn có ý thức, là lựa chọn đứng sang phía đối lập với sự thật lịch sử, với giá trị cốt lõi đã làm nên sự tồn tại của quốc gia, với máu xương của hàng triệu người đã ngã xuống.
Đánh tráo khái niệm
Mảnh tường còn sót lại ở Khâm Thiên (Hà Nội) sau trận Điện Biên Phủ trên không thách thức Ních-xơn. Ảnh: Báo Nhân Dân
Trong nhiều năm qua, dưới danh nghĩa “đổi mới tư duy”, “nhìn lại chiến tranh từ góc độ cá nhân”, một số tác phẩm văn học đã đi quá giới hạn phản tư cần thiết để trượt sang đánh tráo bản chất lịch sử.
Từ phản ánh số phận con người trong chiến tranh, họ lặng lẽ chuyển sang lật ngược hệ giá trị, biến người anh hùng thành kẻ đáng ngờ, biến cuộc chiến vệ quốc chính nghĩa thành bi kịch vô nghĩa, và biến Quân giải phóng (lực lượng làm nên độc lập, thống nhất đất nước) thành một tập hợp méo mó, suy đồi, mất nhân tính.
Một số tác phẩm văn học nhận được sự phản đối gay gắt của nhân dân thời gian qua là minh chứng về sự phản bội tư tưởng. Không phải vì các tác phẩm đó viết về nỗi đau, bởi chiến tranh nào không có đau thương. Mà vì trong nhiều lớp miêu tả, tác phẩm đã xuyên tạc hình tượng người chiến sĩ, gán cho họ những hành vi, tâm thế, bản năng đi ngược hoàn toàn với kỷ luật, lý tưởng, phẩm giá của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ở đây, cần nói thẳng: Nếu là sai sót nghệ thuật, có thể tranh luận. Nếu là góc nhìn cá nhân, có thể đối thoại. Nhưng khi lặp đi lặp lại một hình ảnh người lính suy đồi, bạo lực vô kỷ luật, trụy lạc, vô nhân đạo, khi những chi tiết hư cấu chạm tới danh dự của cả một quân đội, thì đó không còn là sai lầm, mà đó là lựa chọn tư tưởng.
Không thể nhân danh văn chương để bóp méo lịch sử
Trên đống đổ nát của Bệnh viện Bạch Mai, từ phải sang: nhà báo, nhà văn Thép Mới, nhà thơ Chế Lan Viên, nhà thơ Huy Cận (quàng khăn kẻ). Ngoài cùng bên trái là nhà văn Nguyễn Tuân. Mọi người đang nghe Anh hùng Lao động, GS, bác sĩ Trần Hữu Tước (người xách cặp) tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ. Ảnh: Báo Nhân Dân
Một dân tộc có thể chấp nhận nhà văn viết về nỗi đau, nhưng không thể chấp nhận việc nhà văn đứng trên nỗi đau ấy để phủ nhận chính nghĩa của cuộc chiến.
Càng không thể chấp nhận việc nhân danh “tự do sáng tạo” để gieo rắc hoài nghi về nền tảng đạo đức của Quân giải phóng, lực lượng đã hy sinh không phải cho một học thuyết trừu tượng, mà cho độc lập dân tộc, cho quyền được làm người của nhân dân Việt Nam.
Văn chương không đứng ngoài trách nhiệm xã hội, và nhà văn càng không đứng ngoài lịch sử.
Khi một tác phẩm khiến cho kẻ thù cũ hả hê, khiến những thế lực chống phá lịch sử Việt Nam coi đó là “bằng chứng nội sinh, sinh động”, trong khi lại gây tổn thương sâu sắc cho cựu chiến binh, thương binh, thân nhân liệt sĩ thì câu hỏi cần đặt ra không phải là “tác phẩm hay hay dở”, mà là tác phẩm đó đang phục vụ cho hệ giá trị nào?
Sai lầm có thể sửa, phản bội thì không
Có người nói, đó chỉ là văn học, đừng chính trị hóa. Lập luận này nghe thì có vẻ “ôn hòa”, nhưng thực chất là trốn tránh trách nhiệm.
Cũng không ai nhầm lẫn văn học với sử học. Nhưng văn học viết về lịch sử thì không được quyền bịa đặt làm tổn hại lịch sử.
Bởi lịch sử Việt Nam chưa bao giờ là câu chuyện trung tính. Cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) không phải là cuộc xung đột vô nghĩa giữa những cá nhân lạc lối, mà là cuộc chiến vệ quốc vĩ đại, nơi hàng triệu con người đã tự nguyện đặt sinh mạng mình dưới lá cờ độc lập.
Khi một tiểu thuyết lấy bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, sử dụng hình tượng người chiến sĩ Quân giải phóng, tức chủ thể lịch sử có thật, thì mọi hư cấu đều phải tôn trọng ranh giới đạo đức và sự thật nền tảng.
Xuyên tạc hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong cuộc chiến ấy không phải là “cách nhìn khác”, mà là phủ định nền tảng đạo đức của cả một thời đại. Và phủ định có hệ thống, có chủ ý, lặp lại nhiều lần thì không thể gọi là vô tình.
Nếu văn học được phép gán cho bộ đội những hành vi vô kỷ luật, vô nhân tính; khắc họa họ như tập hợp những con người suy đồi, trụy lạc, bạo lực bản năng; làm mờ hoặc phủ định lý tưởng chiến đấu; … rồi biện minh bằng câu “đây chỉ là văn học”, thì mọi biểu tượng lịch sử đều có thể bị xé nát.
Sai lầm là khi người ta nhận ra mình đã đi lệch và quay lại. Phản bội là khi biết rõ mình đang đi đâu, nhưng vẫn đi. Và lịch sử dân tộc Việt Nam không có nghĩa vụ phải khoan dung với sự phản bội ấy, dù nó khoác lên mình chiếc áo văn chương bóng bẩy đến đâu.
Không thể im lặng trước sự phản bội giá trị
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Ảnh: Báo Quân đội
Một câu hỏi không thể né tránh, đó là: Ai hưởng lợi khi hình tượng Quân giải phóng bị bôi nhọ? Ai hưởng lợi khi cuộc chiến vệ quốc bị gọi là “bi kịch vô nghĩa”? Ai hưởng lợi khi lớp trẻ được dẫn dắt để nhìn lịch sử dân tộc bằng con mắt hoài nghi, yếm thế, mất niềm tin?
Câu trả lời không nằm trong nước, và đó là lý do vì sao những tác phẩm méo mó tư tưởng đó luôn được tung hô, khai thác, trích dẫn ở những diễn đàn vốn chưa bao giờ thiện chí với lịch sử Việt Nam.
Người chiến sĩ đã ngã xuống thì không thể tự lên tiếng. Nhưng những người còn sống thì không có quyền im lặng.
Bảo vệ lịch sử không phải là bảo thủ. Bảo vệ hình tượng Bộ đội Cụ Hồ không phải là thần thánh hóa. Đó là giữ gìn ranh giới đạo đức tối thiểu để một dân tộc không tự cắt rễ của mình.
Sai lầm, nếu có, còn có thể sửa. Nhưng khi đã lựa chọn đứng về phía bóp méo, xuyên tạc, lật sử, thì đó không còn là sai lầm.
Đó là phản bội. Và với lịch sử, phản bội là không thể tha thứ.
(Báo Cựu Chiến Binh)
Từ tốn, chịu khó hơn, bác sĩ Phạm Ngọc Thắng, một quân nhân, cựu chiến binh, viết:
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, PHIÊN BẢN XẤU CỦA “PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ”
Xin phép được viết bài này với ngôn từ lính tráng, ai thích thì đọc, không thì thôi.
Lần đầu, đọc Nỗi buồn chiến tranh-NBCT, tôi thốt lên trong đầu: Cái *** gì thế này, một phiên bản Việt của Phía Tây không có gì lạ đây rồi, nhưng phiên bản này xấu và đầy tính ăn cắp. Nhưng xấu thì xấu hơn, ăn cắp ý tưởng thì trắng trợn và không thấy cái đẹp của Số phận con người, không hướng thiện.
Xin nói về tác giả và tác phẩm Phía Tây không có gì lạ trước.
Erich Maria Remarque là tác giả của Im Westen nichts Neues dịch sang tiếng Việt là Phía Tây không có gì lạ, hay Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh. Ông là một cựu binh Đức từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, sau đó về làm giáo viên và bỏ nghề thành nhà văn, từng được đề cử giải Nobel văn chương. Ngày nay, tại quê hương ông có con đường mang tên ông; có giải thưởng mang tên ông như một sự tri ân và ghi nhớ dù ông bị trục xuất khỏi nước Đức dưới thời Quốc xã.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Phía Tây không có gì lạ, đã được viết trong vài tháng năm 1927, nhưng Remarque không tìm được một nhà xuất bản, mà phải đợi mãi tới năm 1929 mới được xuất bản. Ngay lập tức, nó gây chấn động trên toàn thế giới.
Tiểu thuyết này mô tả các kinh nghiệm từng trải của những người lính Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ông cũng là tác giả của cuốn Zeit zu leben und Zeit zu sterben- Thời Gian Sống và Thời Gian Chết, dịch sang tiếng Anh, được dựng phim với tựa đề A Time to Love and a Time to Die, Thời gian để Yêu và Thời gian để Chết.
Tác phẩm Phía Tây không có gì lạ miêu tả cuộc đời từ lúc cùng nhập ngũ với sáu người bạn học đến khi chết của một anh lính Đức trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Cuốc sống lính tráng được mô tả chân thực đến đậm đặc, bất cứ người lính nào trải qua chiến trận đều thấy bóng dáng của mình trong ấy: Lười tập; ăn cắp thực phẩm được thứ gì thì ăn trộm thứ ấy... chỉ để thỏa mãn cơn đói triền miên; văng tục *** xíu; trùm chăn đánh chỉ huy; trốn trại đi chơi gái; bị thương nằm viện và nỗi nhớ nhà; diễm phúc được đi phép về thăm mẹ; chiến hào bẩn thỉu; trận chiến đầu tiên-kẻ thù đầu tiên và lần g.iết người đầu tiên... nhiều lắm, vỏn vẹn trong gần 200 trang sách.
Anh lính Paul Bäumer chết vào một ngày tháng 10 năm 1918, một ngày mà tình hình trên suốt Mặt trận yên ả đến lạ kỳ, tới mức các báo cáo quân sự từ mặt trận phía Tây chỉ chứa gọn một câu "Ở phía Tây, không có gì lạ" và nó đã được lấy làm tựa đề cho cuốn tiểu thuyết.
Lúc người ta lật người anh lính lên, gương mặt anh vẫn toát ra vẻ bình thản chứ không hề có một biểu hiện đau đớn gì cả.
Có vẻ như anh hài lòng vì sự kết thúc đã đến.
Tác phẩm mô tả sự thật: Con người trong chiến tranh nó nhỏ nhoi đến bi thương, nó đầy nét sống tiêu cực đến bẩn thỉu và kiếp sống phổ biến cho tất cả những người tham gia trận chiến không từ một ai.
Và cũng mô tả một sự thật: Tất cả những người lính chiến đều thanh thản nhận số phận của mình, và đều chỉ mong về với mẹ.
Trở lại tiêu đề bài viết, tại sao tôi gọi NBCT là một phiên bản của Phía Tây không có gì lạ, thì bạn hãy đọc nó đi: Cũng ra trận không vui vẻ gì, cũng đói khổ, cũng nhầy nhụa gái mú, cũng suy ngẫm như thật về người lính hai bên chiến tuyến... Cái thêm của NBCT là cuộc sống hậu chiến với đầy tiêu cực: Lính lác ăn trộm ăn cướp, gái nhà lành thì thành buôn gia bị tổ thuế cựu chiến binh cưỡng hiếp trấn lột, cuộc sống hậu chiến đầy bế tắc... một motif hậu chiến giống như trích từ các trang sách Âu Mỹ đầy rẫy.
Nhưng Cái gì đẹp thì không đẹp bằng, cái gì xấu bẩn thì xấu bẩn hơn, tôi không muốn nhắc lại chi tiết, bẩn bài viết của mình.
Đọc Nỗi buồn chiến tranh, không thấy chút tự hào của người lính tham gia cuộc chiến giành lại độc lập tự do của đất nước, đặc biệt, không thây tinh thần Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của những người tham gia Giải phóng Dân tộc khỏi giặc ngoại xâm, không thấy khí thế Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước của bao lứa trai lên đường đánh giặc Mỹ và sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ, hy sinh tương lai và đã nằm xuống vì chính nghĩa.
Đọc NBCT, chỉ thấy bẩn thỉu và oán hận.
Tôi không hiểu sự tri ân vừa qua cho tác giả cuốn tiểu thuyết này có ý nghĩa gì.
Hay, những người tri ân này họ muốn phỉ nhổ vào Cuộc chiến tranh thần thánh mang lại thống nhất đất nước, mang lại độc lập tự do của Dân tộc Việt Nam mà bao lớp trai ra trận và bao người đã nằm lại không về với mẹ.
Điều đó, hãy để cho những người có trách nhiệm trả lời, phần tôi, một người lính sẵn sàng hy sinh thân mình vì Đồng bào mình, vì Tổ quốc của mình chỉ biết nói như vậy./.
..
Bài tiếp theo của ông:
VĂN HỌC LÀ NHÂN HỌC, KHÔNG THỂ LÀ BIẾT CHỮ HAY CÓ NGHỀ VIẾT THÌ MUỐN VIẾT GÌ THÌ VIẾT
Có lẽ, chúng ta mãi nhớ cuộc tranh luận Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh từ những năm 30”s-40”s thế kỷ trước.
Một bên thì khăng khăng, nghệ thuật là một thứ cao quý, không lệ thuộc vào cái gì cả ngoài ý muốn của người viết.
Bên kia, tiêu biểu là Hải Triều, buộc nghệ thuật phải gắn với nhân sinh, với thăng tiến xã hội, nghệ thuật phải gắn với cuộc sống của dân tộc và của nhân loại. Hay, nghệ thuật là của cuộc sống đại chúng chứ không phải là của riêng một mớ ông bà thích viết gì thì viết.
Tôi nhắc lại để nhắc những ông bà đang ca tụng Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh hãy nhớ đến điều cơ bản nhất của một người cầm bút là phải hướng thiện, phải hướng đến cuộc sống của đại chúng, của dân tộc, của thời đại và của nhân loại.
Không thể bao biện: Văn đẹp, chữ mới, dám dũng cảm đi vào những cái bẩn thỉu nhất của cá nhân... để biện hộ cho việc làm sai trái của Bảo Ninh: Đi ngược lại khí thế hào hùng của dân tộc, xoáy sâu vào cái bẩn thỉu của cá nhân khi nhìn tính dục như một biện pháp giải thoát khỏi ẩn ức thất bại, hèn nhát và trốn tránh.
Không thể ca tụng việc bịa đặt vu khống bôi nhọ cuộc chiến tranh chính nghĩa, đánh đồng hai bên chiến tuyến làm một.
Không thể ca tụng cả những thứ bẩn thỉu khốn nạn nhất như là một việc dũng cảm khi dựng chuyện bộ đội Việt Nam hiếp dâm tập thể, bịa đặt việc bộ đội bắn chết đồng bào tưởng là vượn, bịa đặt việc tàn nhẫn của chính thể với cá thể..v..v.
Xin nêu một ý kiến đánh giá NBCT của anh Nam Nguyen:
"Đánh giá Nỗi buồn chiến tranh dưới ánh sáng mỹ học Hegel & Kant – hai nền tảng đã được thế giới công nhận suốt 200 năm qua để thấy rõ sự phản giá trị của truyện và nguỵ biện xảo ngôn của nhóm biện minh, ủng hộ cho rác phẩm này.
⸻
1. Tại sao phải dùng Hegel và Kant để đánh giá một tác phẩm văn học?
Trong lịch sử triết học phương Tây, Immanuel Kant và G.W.F. Hegel là hai nhà tư tưởng đặt nền móng cho mỹ học hiện đại – tức lý luận về cái đẹp, về nghệ thuật, về giá trị của sáng tạo.
• Mỹ học Kant xác định tiêu chí cho cái đẹp, cái gì mới gọi là “nghệ thuật đẹp”:
vô tư lợi
phổ quát
nâng tầm tinh thần
hài hòa lý tính – trí tưởng tượng
không ép buộc cảm xúc người đọc chìm trong bản năng thấp
• Mỹ học Hegel xác định tiêu chí cho nghệ thuật lớn, đặc biệt là nghệ thuật mang tầm vóc dân tộc:
phản ánh tinh thần thời đại
thể hiện ý niệm lịch sử
nâng cao tâm hồn cộng đồng
thống nhất giữa cá nhân và dân tộc
hướng con người đến sự hòa giải tinh thần
Hai bộ mỹ học này đã được giảng dạy trong:
• Đại học Harvard
• Đại học Chicago
• MIT, Yale
• Oxford, Cambridge
• Paris-Sorbonne
• Tokyo University
và toàn bộ hệ thống giáo dục nghệ thuật – triết học thế giới.
Đây không phải “quan điểm cá nhân”, mà là nền móng triết học được thế giới công nhận.
Ngay cả trong phân tích văn học quốc tế, khi đánh giá một tác phẩm “có tầm vóc hay không”, người ta luôn quay lại các tiêu chí Kant – Hegel.
⸻
2. Chiếu theo Kant & Hegel: Nỗi Buồn Chiến Tranh đứng ở đâu?
A. Theo Kant: Tác phẩm không đạt chuẩn “cái đẹp nghệ thuật”
(1) Không vô tư
Kant yêu cầu nghệ thuật phải tạo khoái cảm tinh thần không dính tới bản năng, không bị chi phối bởi:
• dục tính,
• ám ảnh,
• rối loạn tâm lý,
• đau đớn cá nhân
NBCT lại tràn đầy:
• ám ảnh tình dục,
• cảnh xác thịt,
• hoảng loạn tinh thần,
• cảm xúc tăm tối dồn nén → Mất tính vô tư → vi phạm tiêu chí mỹ học căn bản nhất.
⸻
(2) Không phổ quát
Cảm xúc thẩm mỹ phải có tính “phổ quát”, tức ai có khả năng cảm thụ cũng thấy đẹp.
NBCT chỉ phản ánh bi kịch của một cá nhân, không đại diện cho cộng đồng → Không thể trở thành “chân lý thẩm mỹ”.
⸻
(3) Không hài hòa trí tuệ – cảm xúc
Kant yêu cầu nghệ thuật phải giúp trí tuệ sáng ra, chứ không làm người đọc chìm trong:
• tuyệt vọng
• hoang mang
• hỗn loạn cảm xúc
NBCT đẩy người đọc vào khoảng tối tâm lý, không hề mở ra bất kỳ “chơi tự do của trí năng” nào → Không đạt chuẩn nghệ thuật đẹp.
⸻
B. Theo Hegel: một tác phẩm không phản ánh tinh thần dân tộc khi
(1) Không biểu hiện được “Ý niệm tinh thần của thời đại”
Hegel nhấn mạnh: tác phẩm lớn phải nói lên được tinh thần dân tộc.
Nhưng NBCT:
• không tôn vinh tinh thần chiến đấu của dân tộc
• không phản ánh ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến chính nghĩa
• biến sự hy sinh của hàng triệu người thành bi kịch tâm lý cá nhân
→ Không thể là tác phẩm nghệ thuật lớn theo Hegel.
⸻
(2) Tách cá nhân khỏi dân tộc
Hegel cho rằng nghệ thuật phải hòa giải cá nhân với cộng đồng.
NBCT lại:
• tuyệt đối hóa nỗi đau cá nhân
• tách người lính khỏi ý nghĩa chung
• khiến cuộc chiến trở thành nỗi sụp đổ riêng của một người
→ Vi phạm tinh thần mỹ học Hegel.
⸻
(3) Không nâng cao tinh thần mà kéo nó xuống
Hegel yêu cầu nghệ thuật phải:
• hướng con người đi lên
• khơi dậy tinh thần
• đưa người đọc đến sự hòa giải với lịch sử
NBCT làm ngược lại:
→ dẫn người đọc vào bóng tối tâm lý → đánh mất ý nghĩa lịch sử → xuyên tạc tinh thần dân tộc.
⸻
3. Kết luận: NBCT không đạt chuẩn nghệ thuật theo cả Kant lẫn Hegel
Nói một cách công bằng và thẳng thắn:
NBCT là cuốn tiểu thuyết tâm lý hóa cá nhân
không mang tầm vóc nghệ thuật lớn
không phản ánh tinh thần dân tộc
không đạt chuẩn mỹ học quốc tế
không phù hợp đưa vào bậc phổ thông
không đại diện cho lịch sử chiến tranh vệ quốc
Nếu đem chiếu theo Kant: → không còn là “cái đẹp”
Nếu đem chiếu theo Hegel: → không phải “nghệ thuật của tinh thần dân tộc”
Tức là: Không đủ tiêu chuẩn để đại diện văn học Việt Nam trong sách giáo khoa.
Khi nói về NBCT, đừng tranh luận bằng cảm xúc cá nhân mà Hãy dùng nền tảng triết học thế giới – Kant và Hegel – thứ mà mọi ngành nghệ thuật văn chương nghiêm túc đều dựa lên để đánh giá một tác phẩm.
Và khi đặt NBCT vào chuẩn thế giới, ta thấy rất rõ:
Đây chỉ là rác phẩm thể hiện góc nhìn lệch lạc méo mó của cá nhân Bảo Ninh, nhưng không đạt tầm vóc tư tưởng để trở thành một truyện đúng nghĩa chứ đừng nói đến chuẩn mực văn học quốc gia như đã "bị" trao giải.
Một tác phẩm không đạt chuẩn triết học về cái đẹp và tinh thần dân tộc không nên được ép vào đầu học sinh phổ thông."
Tôi cũng vậy, tôi nói NBCT là một tác phẩm rác rưởi, bẩn thỉu được viết ra từ một cá nhân hèn nhát.
Xin nhớ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này: Nó ra đời khi Dương Thu Hương được giải thưởng của nước mẹ Đại Pháp của bà, khi trào lưu xét lại ý nghĩa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, khi những ý tưởng đòi đa nguyên đa đảng manh nha bùng phát... Nó là một tác phẩm a dua a tòng, tưởng rằng chửi rủa Cuộc chiến tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam là sẽ được bố Mỹ, mẹ Pháp, cha tàu tung hô và dung túng trao giải, là được lưu vong ngoại quốc.
************* Việt Nam đã có công lãnh đạo dân tộc Việt Nam thống nhất đất nước, giành độc lập tự do, điều đó không ai có thể bác bỏ hay bôi nhọ được.
Cho dù có những sai lầm, có những thiếu sót, thậm chí có những tổn thất nặng nề đến cuộc sống cá thể nhưng với điều kiện dân trí, điều kiện kinh tế, điều kiện chiến tranh liên miên như trong thời gian đó, đa nguyên đa đảng thì chỉ có tan vỡ, có mất nước.
Xét bất cứ điều gì, phải đặt Dân tộc lên trên hết, Đồng bào lên trên hết và nếu suy rộng ra, Nhân loại phải trên tất cả.
Không thể chỉ vì cá nhân mà lờ đi, mà viết ra những câu chữ làm bẩn thỉu trang giấy trắng. Đặc biệt, không thể đưa vào sách giáo khoa, không thể làm vấy bẩn học sinh phổ thông- tương lai của Dân tộc Việt Nam./.
Bác sỹ Phạm Ngọc Thắng.
Bằng 2 bài viết này, ông đã lật mặt mọi luận điệu có thể dùng để tô vẽ, biện minh cho việc tôn vinh rác phẩm NBCT. Kể cả từ giá trị văn chương đến đạo đức người viết văn.
Trước đó, ngày 11/12/2025, Kênh truyền hình An Ninh TV đã lên bài "Cần xử lý nghiêm các đối tượng ********* ‘lật sử’, bôi nhọ Anh hùng dân tộc nhằm chống phá Nhà nước" không chỉ về ấn phẩm NBCT mà còn về việc tôn vinh hàng loạt nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi thông qua đặt tên đường.
...
Do đó tôi đề nghị, những thông tin không còn gì "bí mật, vùng cấm" ít nhất cần được dư luận biết rõ.
Em cũng thế, cái gì gọi là kết cấu phi tuyến tínhCũng không biết được cụ ạ. "Thân phận Tình yêu" gặp các thầy ghét thì cũng bị phê kiểu : Tình yêu nước mà nó viết là thân phận, trời ơi. Mà đọc quyển này nửa tỉnh nửa mơ, đọc rõ mệt, em đọc đúng 1 lần, không muốn đọc lại.
, đọc mệt bỏ xừ dza, mụ mị như hít lá hồng ma trong cơn mưa rừng lê thê. Chả nhớ là đã đọc hết hay chưa, chỉ đọng lại mấy đoạn 18+. Hây za, thời trẻ trâu chỉ vậy là nhanh
.