Học Tam thiên tự ngày trước là chữ phồn thể, hiện tại TQ dùng chữ giản thể nên có khác biệt nhưng vừa đọc vừa luận thì cũng có thể hiểu đại khái. Vấn đề là quen âm Hán Việt rồi có vẻ lại là trở ngại khi muốn học và nhớ cách phát âm chuẩn tiếng Trung.
Nắm vững Hán Việt là một lợi thế của người Việt khi học tiếng Trung, khi so với các dân tộc khác. Càng học lên cao thì càng thấy các từ Hán Việt được sử dụng càng nhiều, nhất là trong các tài liệu chuyên ngành. Khi học tới một mức độ nào đó có thể dễ dàng chuyển âm từ Hán Việt sang Bính âm và ngược lại. Ví dụ: fáng - phòng; fàng - phóng: fāng - phương; chéng - thành; mǎ - mã; mà - mạ; mā - ma; nèi - nội; qiāng - khương; hǎi - hải; gōng - công, v.v. Do số lượng âm tiết được sự dụng của tiếng Trung không nhiều, chỉ tầm 600 để kết hợp lại thành các từ khác nhau, nên việc hình thành trong đầu hệ thống chuyển đổi ngữ âm sẽ không quá vất vả.
Về thanh điệu thì thanh 1 tiếng Trung đổi thành âm không dấu tiếng Việt, thanh 3 đổi thành dấu hỏi hoặc ngã, thanh 2 đổi thành dấu huyền, còn thanh 4 đổi thành sắc hoặc nặng (tất nhiên sẽ có các trường hợp ngoại lệ nhưng không nhiều).
Việc nắm vững Hán Việt sẽ giúp dễ dàng tự luận ra các từ mới. Ví dụ: nếu biết jiě là giải thì có thể đoán được các từ khác như jiěfàng (giải phóng), zhùjiě (chú giải), jiějué (giải quyết), v.v.
Rất nhiều từ giống và gần giống giữa tiếng Trung và Hán Việt mà càng học lên cao càng bắt gặp nhiều: chénggōng (thành công), chéngjì (thành tích), juéxīn (quyết tâm), zhéngzhì (chính trị), nǔlì (nỗ lực), gǎnjué (cảm giác), gǎnqíng (cảm tình), vô cùng nhiều.
Như vậy, nắm chắc Hán Việt là lợi thế khi học tiếng Trung.