[CCCĐ] Hành trình vòng quanh thế giới: Trung Quốc, 28 ngày đêm

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Chỉnh sửa cuối:

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Quay trở lại quầy bán vé, trước đó nhà mình nhắn trước nên người chủ khách sạn ở Hoàng Long đã đánh xe và mang đồ đạc theo để đón nhà mình đi tu viện Rongwu.

Cảm nhận cá nhân của nhà mình thì thấy công viên khá là đẹp khá hùng vĩ. Nhưng không hiểu sao các bạn không thúc đẩy phát triển hoặc quảng bá. Nếu kết hợp thêm hướng dẫn viên bằng tiếng Anh và có nhiều biển hiệu bằng tiếng Anh nữa, cùng với đó cho phép du khách dừng chân ở các tu viện dọc đường cũng như thăm thú một số gia đình người Tạng ở ven đường thì sẽ tuyệt vời hơn.

Mình đem chuyện này hỏi người lái xe tại sao ở đây ít khách vậy mặc dù khá là đẹp. Ông ấy bảo là tao cũng thấy ngạc nhiên tại sao nhà mày lại mò lại chỗ này. Theo ông ấy thì bản thân những người dân địa phương ở đây cũng ít người biết đến công viên này. Ông ấy bảo bởi vì ở đây họ ít tiền nên không quảng bá và tiếp thị nên ít người biết đến công viên :)

Trên đường đi ông ấy hỏi nhà mày tiếp theo đi những đâu, nhà mình bảo nhà tao đi tu viện Rongwo, rồi Labrang và Langmusi. Ông ấy nói mấy cái này đều khác giống nhau, mày phải lên Aba ấy, ở đó hùng vĩ hơn nhiều. Lúc đó mình cũng ko hình dung ra Aba ở đâu sau rồi về nhà xem bản đồ thì biết đó là khu tự trị người Tạng ở Tứ Xuyên, thuộc vùng Kham. Ở đó có độ cao hơn 4000m nên mùa hè nhiều nơi vẫn còn tuyết.

Mất chừng 2,5 tiếng thì đến khách sạn gần với tu viện Rongwo. Trong hình ông béo là chủ khách sạn ở Hoàng Long, người vừa lái xe đưa nhà mình đến Rongwo. Còn ông gầy là chủ khách sạn ở Rongwo. Cả hai ông đều là người Hồi.

PXL_20250612_091743356 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Lấy phòng xong cà nhà đi bộ ra phía tu viện Rongwo. Cảm nhận rõ đời sống phật giáo khi đi bộ trên đường, các cụ già ngồi ở cửa nhà, tay lần tràng hạt miệng đọc kinh

DSC09023 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09025 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09027 by Hieu Tran, on Flickr

Ở những tu viện lớn thế này, họ thường có hàng dài kinh luôn vòng quanh tu viện

DSC09029 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Tu viện Rongwo (Long Vụ Tự) được thành lập vào khoảng năm 1301 bởi vị sư Sakya tên là Samten Rinchen, con trai cả của Dodebum — người cai trị vùng Rebkong lúc ấy. Ban đầu tu viện thuộc phái Sakya (Trắng xám). Năm 1630, Shar Kelden (Shartsang) Gyatso đã chuyển đổi tu viện sang phái phái Mũ Vàng (Gelug), và từ đó tu viện được mở rộng, phát triển theo truyền thống Mũ vàng.

Qua các triều đại tiếp theo (Ming, Thanh), tu viện được các chính quyền trung ương (triều đình) ban tặng nhiều danh hiệu, ấn tín, cũng như được bảo trợ tài chính và văn hóa. Ví dụ, năm 1626 Ming Tông hoàng đế ban bảng “Wonderland of the Western Regions” (Tây Vực kỳ phong) cho tu viện

Trong thế kỷ 20, ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa (1966-76) làm cho tu viện bị hư hại nghiêm trọng. Sau 1980, tu viện được phục hồi và mở cửa trở lại. Năm 1996, tu viện được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa quan trọng được bảo vệ cấp quốc gia ở Trung Quốc.

DSC09043 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09036 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09037 by Hieu Tran, on Flickr
 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Quảng trường lớn phía trước tu viện có tượng phật quan âm quay bốn hướng, có rất nhiều người đến đây hướng về tu viện và nằm rạp ra vái lậy
Việc nằm rạp xuống đất để vái lạy trước các tu viện, đền chùa, bảo tháp hay tượng Phật được gọi là “prostration”
Người Tạng tin rằng khi nằm rạp toàn thân xuống đất, họ đang dâng hiến cả thân – khẩu – ý (thân thể, lời nói và tâm ý) lên Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng. Đây là cách thể hiện lòng tôn kính tuyệt đối với các bậc giác ngộ, cũng như sự khiêm hạ của con người trước vũ trụ và chân lý.
Trong giáo lý Phật giáo Tây Tạng, mỗi lần lạy rạp xuống được coi là một hành động tịnh hóa nghiệp xấu, gột bỏ kiêu mạn, ngã chấp và những ô nhiễm tâm thức. Nhiều người thực hiện hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lạy trên hành trình hành hương (ví dụ trên đường tới tu viện Jokhang ở Lhasa hoặc núi thiêng Kailash).
Người Tạng quan niệm rằng quãng đường càng gian khổ, số lạy càng nhiều thì công đức càng lớn. Có những tín đồ hành hương đi hàng trăm km, mỗi bước lại quỳ và nằm rạp xuống đất, tiến dần đến tu viện hoặc ngọn núi thiêng. Họ tin việc này giúp mình và gia đình được phước lành, sức khỏe, mùa màng thuận lợi và chuẩn bị cho kiếp sau tốt đẹp hơn.

DSC09035 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09039 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09041 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09042 by Hieu Tran, on Flickr

 

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Lúc này đã cuối giờ chiều muộn nên mình tranh thủ đi vào tu viện còn mấy mẹ con thì chơi bên quảng trường. Lúc mình đi vào thì chẳng thấy ai soát vé gì cả nhưng đi được một đoạn đang giơ máy ảnh lên thì có một ông ra nói tiếng Trung mình không hiểu nhưng cũng đoán ra là ông ấy bắt mình phải mua vé. Mà lúc này thì đã khá là muộn, mà trời lại trở giông, nghĩ bụng bây giờ mà mất tiền mua vé thì hơi phí. Thế là mình ra hiệu là tao không hiểu. Thế là ông ấy vẫy tay kiểu thôi mày cứ vào đi
🙂


DSC09045 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09046 by Hieu Tran, on Flickr



DSC09047 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09049 by Hieu Tran, on Flickr

 
Chỉnh sửa cuối:

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Thời kỳ Cách mạng Văn hóa tại Rongwo để lại ký ức tập thể đau thương trong cộng đồng người Tạng vùng Amdo. Nó cũng khiến Phật giáo ở Thanh Hải bước vào giai đoạn suy thoái kéo dài, cho đến khi được khôi phục mới dần phục hưng.

Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng (1966-1976) đã coi tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Tây Tạng, là “tàn dư phong kiến” cần xóa bỏ. Các hồng vệ binh (Red Guards) và chính quyền địa phương nhận lệnh phá bỏ chùa chiền, tượng Phật, kinh sách, cùng với việc buộc các tăng sĩ hoàn tục. Tu viện Rongwo, vốn là trung tâm Phật giáo Gelug lớn nhất vùng Rebkong (Tongren), trở thành một trong những mục tiêu quan trọng.

Thời kỳ này nhiều điện thờ, tượng Phật, thangka, tranh tường Regong tại Rongwo bị phá hủy hoặc đốt cháy. Những pho tượng dát vàng, các bảo tháp, pháp khí quý giá bị lật đổ, nấu chảy để lấy kim loại. Các bộ sưu tập kinh sách cổ, nhiều bản sao KangyurTengyur, cũng như các bản thảo quý bằng chữ Tây Tạng, bị đốt sạch hoặc vứt bỏ. Kiến trúc của tu viện bị hư hại nghiêm trọng: nhiều tòa điện chính như Main Assembly Hall và một số học viện (tratsang) bị đóng cửa hoặc biến đổi công năng thành kho chứa, chuồng gia súc. Hàng trăm tăng sĩ của Rongwo buộc phải hoàn tục, trở về nhà hoặc bị ép tham gia lao động sản xuất. Một số người bị đấu tố, giam giữ hoặc lao động cải tạo. Các buổi tụng kinh, tranh luận, lễ hội Phật giáo như Kalachakra, Monlam đều bị cấm. Việc giảng dạy triết học, tantra, nghệ thuật Regong tại các học viện trong tu viện tạm ngưng, dẫn đến một thế hệ tăng sĩ bị bỏ lỡ cơ hội học tập truyền thống.

Rongwo vốn là cái nôi của nghệ thuật Regong (tranh thangka, điêu khắc, thêu, sơn mài Phật giáo). Trong thời kỳ này, các nghệ nhân bị cấm sáng tác theo đề tài Phật giáo; thay vào đó, họ buộc phải vẽ chân dung Mao Trạch Đông hoặc các biểu ngữ chính trị. Nhiều bức thangka cổ, vốn là bảo vật vô giá, bị hủy diệt. Điều này tạo nên khoảng trống lớn trong di sản nghệ thuật của cả vùng Rebkong.

Sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và chính sách “Cải cách & mở cửa” (từ 1978) được áp dụng, nhà nước Trung Quốc bắt đầu nới lỏng kiểm soát tôn giáo. Năm 1980, tu viện Rongwo chính thức được khôi phục: các tăng sĩ được phép quay lại, hoạt động tôn giáo được nối lại.

DSC09050 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09051 by Hieu Tran, on Flickr

Lối vào đại điện

DSC09052 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09053 by Hieu Tran, on Flickr

 
Chỉnh sửa cuối:

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Người Tạng là một dân tộc gốc Himalaya, tổ tiên họ sinh sống trên cao nguyên Thanh–Tạng từ hàng ngàn năm trước, làm nông nghiệp ở thung lũng và chăn nuôi yak, cừu, dê trên thảo nguyên. Trước khi Phật giáo du nhập, người Tạng theo tín ngưỡng Bön – tôn thờ thiên nhiên, núi, sông, trời, linh hồn.

Songtsen Gampo (617–650) thống nhất các bộ lạc, lập nên Vương quốc Thổ Phồn (Tubo) với thủ đô Lhasa. Ông đưa Phật giáo vào Tây Tạng, tạo chữ viết Tạng dựa trên mẫu chữ Ấn Độ. Các đời vua sau mở rộng lãnh thổ, khiến Tây Tạng trở thành một trong ba cường quốc châu Á (cùng nhà Đường và Ả Rập). Thế kỷ 9, sau khi vua Langdarma bị ám sát, đất nước rơi vào thời kỳ phân liệt.

Từ thế kỷ thứ 10 đến 13, Tây Tạng tan rã thành nhiều tiểu vương quốc và lãnh địa tôn giáo. Vào thế kỷ thứ 13, Phật giáo được “truyền bá lần thứ hai” từ Ấn Độ và Nepal, tạo nên nhiều trường phái. Thời kỳ này văn hóa nghệ thuật thăng hoa, nhiều tu viện, tranh thangka, điêu khắc mandala xuất hiện.

Khi Mông Cổ lập đế chế Nguyên, Tây Tạng trở thành chư hầu. Phái Sakya được nhà Nguyên bảo trợ, giữ quyền cai trị. Đây là giai đoạn Phật giáo Tây Tạng có ảnh hưởng đến triều đình Mông Cổ, lan rộng ra Nội Á.

Dưới nhà Minh, Tây Tạng vẫn tự trị, chỉ có quan hệ triều cống. Thế kỷ 17, phái Mũ vàng (Gelug) nổi lên, nhờ sự ủng hộ của Mông Cổ. năm 1642 Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 nắm quyền chính trị, lập nên chính quyền tu viện Gelug ở Lhasa.

Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Tây Tạng trở thành tâm điểm trong cuộc đối đầu Anh – Nga (“Great Game”). Năm1904 Quân Anh tiến vào Lhasa. Năm 1912, sau khi nhà Thanh sụp đổ, Đạt Lai Lạt Ma 13 tuyên bố Tây Tạng độc lập de facto, nhưng không được nhiều nước công nhận.

DSC09054 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09055 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09056 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09057 by Hieu Tran, on Flickr
 
Chỉnh sửa cuối:

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Tháng 10/1950, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tiến vào Chamdo, miền Đông Tây Tạng. Đây được coi là bước mở đầu cho việc “giải phóng hòa bình Tây Tạng” theo cách gọi của chính quyền Trung Quốc. Quân đội Trung Quốc nhanh chóng đánh bại lực lượng vũ trang Tây Tạng nhỏ bé, chiếm được quyền kiểm soát phần lớn khu vực Kham.
Ngày 23/5/1951, đại diện chính quyền Tây Tạng tại Bắc Kinh ký “Hiệp định 17 điều về giải phóng hòa bình Tây Tạng”. Nội dung chính của hiệp định:
  • Tây Tạng công nhận thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
  • Chính phủ Trung Quốc cam kết duy trì chế độ chính trị – tôn giáo truyền thống, để Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục giữ chức vụ, tôn trọng tự do tôn giáo.
  • PLA được quyền đóng quân và quản lý ngoại giao.
Tuy nhiên, tại Lhasa nhiều người Tạng cho rằng hiệp định này bị ép buộc, không phản ánh ý chí thực sự.
Ban đầu, tại Lhasa, tình hình còn tương đối yên ổn, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Tenzin Gyatso) vẫn nắm vai trò lãnh đạo tinh thần. Nhưng tại vùng Kham và Amdo, chính sách cải cách ruộng đất của Trung Quốc (tịch thu đất của quý tộc, tu viện, chia cho nông dân) đã vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ. Từ giữa thập niên 1950, phong trào nổi dậy vũ trang lan rộng. Nhiều nhóm kháng chiến người Tạng, đặc biệt ở Kham, tổ chức đánh du kích chống PLA.
Tháng 3/1959, căng thẳng bùng nổ ở Lhasa khi tin đồn cho rằng PLA định bắt cóc Đạt Lai Lạt Ma. Ngày 10/3/1959, hàng chục nghìn người Tạng tụ tập quanh cung Norbulingka để bảo vệ Ngài. PLA đã nổ súng đàn áp, hàng nghìn người chết. Đạt Lai Lạt Ma cùng đoàn tùy tùng vượt qua dãy Himalaya sang Ấn Độ, chính thức lưu vong. Tại Dharamsala (Ấn Độ), Ngài thành lập Chính phủ Tây Tạng l.ưu v.ong. Từ đây, Tây Tạng hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Trung Quốc.

DSC09059 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09061 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09062 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09063 by Hieu Tran, on Flickr
 
Chỉnh sửa cuối:

hieutcnd

Xe container
Người OF
Biển số
OF-304539
Ngày cấp bằng
10/1/14
Số km
9,472
Động cơ
582,990 Mã lực
Trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng (đặc biệt là phái Mũ vàng Gelug), hai vị cao tăng được coi là tối cao về tâm linh và có ảnh hưởng sâu rộng là Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma.
Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama)
  • Danh hiệu do vua Mông Cổ Altan Khan ban cho Sonam Gyatso (thế kỷ 16).
  • “Dalai” trong tiếng Mông Cổ nghĩa là “Đại dương”, còn “Lama” nghĩa là thầy tu/đạo sư.
  • Được coi là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara) – hiện thân lòng từ bi.
  • Lãnh tụ tối cao cả về tôn giáo lẫn chính trị của Tây Tạng từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20.
  • Đứng đầu hệ thống Mũ vàng, cai quản chính quyền Lhasa.
  • Ngày nay, Đạt Lai Lạt Ma 14 lưu vong ở Ấn Độ, vẫn là lãnh tụ tinh thần của đa số người Tạng.
Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama)
  • Danh hiệu do Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 phong cho thầy mình (thế kỷ 17).
  • “Panchen” kết hợp từ Pandita (học giả) + Chenpo (vĩ đại) → nghĩa là Đại học giả.
  • Được coi là hóa thân của Phật A Di Đà (Amitabha) – hiện thân trí tuệ.
  • Chủ yếu là lãnh tụ tinh thần, học thuật, đứng đầu tu viện Tashilhunpo (Shigatse).
  • Không nắm quyền chính trị trực tiếp như Đạt Lai Lạt Ma.
  • Thường đóng vai trò thầy và giám hộ trong việc giáo dưỡng, xác định tái sinh Đạt Lai Lạt Ma.
Để dễ hiểu thì có thể coi Đạt Lai Lạt Ma giống như thủ tướng Anh, người nắm quyền thực sự còn Ban Thiền Lạt ma giống như vua của Anh (trước đây là nữ hoàng), chủ yếu đứng đầu về mặt tinh thần.

DSC09064 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09065 by Hieu Tran, on Flickr

DSC09066 by Hieu Tran, on Flickr
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top