Bác
X_axe (và có lẽ không chỉ bác ấy) đều mắc một sai lầm phổ biến, đó là cứ ai ủng hộ cung tiền vào nền kinh tế (đặc biệt là từ nhà nước), thì đều bị gán nhãn Keynes cả (nếu hiểu ngây ngô thế thì chúng ta có Keynes ở khắp nơi nơi). Thậm chí một số người, học giả còn
cố tình hiểu sai như vậy thì tôi viết bài này để làm rõ:
1. Điểm thứ 1, cần phải nói rõ, đó là không phải cứ tăng cung tiền là Keynes.
Keynes yêu cầu tăng cung tiền phải theo
đúng quy trình, chính sách và mục tiêu rõ ràng. Nếu tăng cung tiền bừa bãi, qua tín dụng tư nhân, không có mục tiêu đầu tư sản xuất, thì đó không phải Keynes.
Keynes chủ trương chính sách tài khóa chủ động (fiscal activism), nhà nước chi tiêu vào các dự án thực (infrastructure, R&D, công nghiệp nặng, dịch vụ công). Mục tiêu là để tạo aggregate demand bền vững.
Không hề có chuyện "tăng tín dụng cho dân vay tiêu xài" là biện pháp cứu kinh tế trong mô hình Keynesian nguyên bản.
Chính Keynes đã nhấn mạnh trong The General Theory rằng:
- Hiệu quả đầu tư công mới là mấu chốt phục hồi kinh tế.
- Chi tiêu thiếu kiểm soát, lãng phí hay chỉ làm tăng đầu cơ, cũng sẽ thất bại như chi tiêu tư nhân vô tội vạ.
Sai lầm lớn của nhiều phân tích hiện đại, đó là cứ thấy chỗ nào tăng cung tiền → gán nhãn "Keynesianism". Họ không xét cách thức và mục tiêu sử dụng cung tiền.
Nhắc lại điều đã viết, "Ngay cả nhà nước tự chi tiêu, nếu không đúng quy trình và mục tiêu theo Keynes thì cũng không phải Keynesian."
Tóm lại, như tôi đã nói, Keynes yêu cầu:
- Đường lối đúng.
- Cách thức đúng.
- Đích đến đúng.
Nếu không tuân thủ 3 yếu tố này, thì dù có tăng cung tiền cũng không phải là kinh tế học Keynes.
Gói cứu trợ 2008 (TARP, QE1, QE2), Fed bơm tiền cho hệ thống ngân hàng, cứu các tập đoàn tài chính, cổ phiếu. Không tái đầu tư vào hạ tầng, giáo dục, công nghiệp sản xuất thực.
Dẫn đến hậu quả, kinh tế tài chính phục hồi (chứng khoán tăng mạnh), còn tầng lớp lao động vẫn trì trệ.
Đây KHÔNG phải là Keynesianism. Đây là chủ nghĩa tài chính hóa (financialization) gần như điên cuồng chứ không phải "Keynes cứu kinh tế."
2. Điểm thứ 2, như đã nói, Friedman Chỉ kiểm soát cung tiền, không kiểm soát hình thức phân bổ
Milton Friedman chỉ đề xuất kỷ luật tốc độ tăng cung tiền (monetarism rule). Không yêu cầu kiểm soát đích đến, hình thức, mục tiêu của dòng tiền.
Friedman lập luận cung tiền cứ tăng ổn định theo quy tắc (money growth rule), còn thị trường sẽ tự phân bổ vốn tối ưu.
Ông không yêu cầu, Phân phối cung tiền phải nhắm vào đầu tư sản xuất, hay ngăn chặn tín dụng chảy vào đầu cơ (nhà đất, chứng khoán).
Hậu quả là Ở môi trường tự do tín dụng, cung tiền vẫn tăng ổn định (theo lý thuyết), nhưng tiền chảy vào đầu cơ tài sản, bong bóng nợ, khủng hoảng tài chính.
Friedman muốn cung tiền tăng 3–5% mỗi năm đều đặn, nhưng không quan tâm dòng tiền đó đi vào đâu (đầu tư thực hay đầu cơ tài sản).
Keynes thì quan điểm nếu cung tiền tăng mà chỉ chạy vào bất động sản, chứng khoán, đầu cơ tài chính, thì đó là thất bại, không phải Keynesianism.
Do đó chỉ nghe đến tăng cung tiền mà gán nhãn Keynes là sai.
3. Điểm thứ 3, như đã noi, rất nhiều học giả, trường phái đều nói đến cung tiền, nhưng dĩ nhiên không thể quy đồng tất cả đó là Keynes được.
"Cung tiền" (Money Supply) là một khái niệm chung trong kinh tế vĩ mô. Bất cứ trường phái kinh tế nào cũng phải bàn tới cung tiền:
- Chủ nghĩa Keynes.
- Chủ nghĩa tiền tệ (Monetarism) của Friedman.
- Chủ nghĩa Áo (Hayek, Mises).
- Kinh tế học tân cổ điển (Lucas, Sargent...).
Cách mà Keynes bàn về cung tiền mới là điểm mấu chốt. Keynes nhấn mạnh:
- Cung tiền chỉ là công cụ phục vụ cho mục tiêu phục hồi tổng cầu (Aggregate Demand).
- Phải phối hợp cung tiền với chi tiêu công hữu ích, tạo việc làm,
thúc đẩy sản xuất thực.
-
Tiền phải dẫn vào khu vực sản xuất, tiêu dùng thực tế, không dẫn vào đầu cơ.
Như vậy, Cung tiền trong Keynesianism là phải đảm bảo:
- Mục tiêu.
- Cách thức đúng public investment).
- Kỷ luật sử dụng.
- Tính bền vững (không gây bong bóng đầu cơ).
Như đã nói, Các trường phái khác cũng tăng cung tiền, nhưng mục tiêu rất khác. Hãy so sánh
Keynes: Tăng cung tiền có định hướng, dùng để kéo tổng cầu sản xuất thực, do nhà nước dẫn dắt
Monetarism (Friedman): cung tiền tăng ổn định đều đặn, thị trường tự phân bổ,, nhà nước không can thiệp dòng chảy vốn
Tân tự do (neoliberalism thực tế): cung tiền linh hoạt để cứu thị trường tài chính, chủ yếu cứu ngân hàng, tài sản tài chính
Chủ nghĩa Áo (Hayek, Mises): phản đối tăng cung tiền quá mức, coi nó là nguồn gốc khủng hoảng, chủ trương hạn chế tiền tệ tối đa
Tóm lại: Mỗi trường phái nói về cung tiền, nhưng bản chất tư tưởng và mục tiêu khác nhau hoàn toàn. Cùng là cung tiền, nhưng cách thức khác nhau rất đến kết quả vĩ mô rất khác nhau. Hiển nhiên không quy chụp tất cả là Keynes được
4. Hiện tượng cố ý gán ghép bất kỳ trường pháo nào ủng hộ cung tiền là Keynes để bôi xấu Keynes
Nhiều tài liệu đã cố tình viết sai lệch đi theo hướng này, nên nếu bác X_axe mà dựa vào ChatGPT hay các công cụ AI để học kinh tế, thì rất dễ bị biais, và sai lầm, nếu các công cụ AI này được training theo những dữ liệu này
Hiện tượng bôi xấu, hay nhẹ nhàng hơn là hạ thấp Keynes (dù họ đã từng vực dậy khỏi khủng hoảng nhờ Keynes) diễn ra rất thường xuyên, đặc biệt trong môi trường chính trị, kinh tế Mỹ, châu Âu từ thập niên 1980 đến tận bây giờ.
Sau thập niên 1970 (đặc biệt sau khủng hoảng lạm phát "stagflation" 1970s), có hiện tượng cố ý gán ghép "ủng hộ cung tiền" = Keynes
Các chính trị gia và học giả bảo thủ (conservative) ở Mỹ, Anh... bắt đầu chiến dịch tấn công tư tưởng Keynes.
Chiến thuật của họ, đó là
- Đánh đồng mọi hình thức bơm tiền, lạm phát, bong bóng, khủng hoảng nợ ➔ với Keynes.
- Gán ghép: Cứ chỗ nào "tăng cung tiền" ➔ "Đấy, hậu quả của tư tưởng Keynes đây!"
Dù thực tế cách bơm tiền đó không hề tuân theo quy trình Keynesian.
Có một vài động cơ cho điều này
- Động cơ chính trị: Dọn đường cho chủ nghĩa tân tự do
Để triển khai các chính sách tự do hóa tối đa (thị trường tự do tuyệt đối, cắt giảm vai trò nhà nước), họ cần:
Phá hoại uy tín của Keynes, người biện hộ cho sự can thiệp nhà nước vào kinh tế.
Muốn thúc đẩy Friedman, Reaganomics, Thatcherism, thì phải bôi xấu Keynesianism như:
Nguyên nhân của mọi khủng hoảng lạm phát, Thủ phạm của chủ nghĩa xã hội ngầm, Thủ phạm khiến nhà nước phình to, thị trường bị méo mó,
- Động cơ kinh tế: Bào chữa cho thất bại của tân tự do
Khi các cuộc khủng hoảng (1997, 2008) xảy ra do bong bóng tài sản, vỡ nợ tiêu dùng, vỡ nợ tín dụng ngân hàng. Thay vì thừa nhận rằng tự do hóa tài chính thiếu kiểm soát đã thất bại, nhiều học giả tân tự do lại gán trách nhiệm cho "tư tưởng Keynes cũ kỹ", với mấy chiêu trò sau
"Do các chính phủ bơm tiền!" (mặc dù bơm tiền đó chủ yếu cứu ngân hàng chứ không cứu sản xuất thực!)
"Do phung phí chi tiêu công!" (dù thực ra chi tiêu công không chạy đúng theo mô hình Keynesian).
Đây là một cách né tránh trách nhiệm rất tinh vi.
Một minh họa lịch sử cực kỳ rõ, đó là sau 2008, khi QE (Quantitative Easing) cứu ngân hàng ở Mỹ:
Nhiều chính trị gia cánh hữu la lối: "Lại Keynesianism tồi tệ!", nhưng thật ra QE chỉ cứu hệ thống ngân hàng, không xây dựng hạ tầng, không đầu tư sản xuất, không phải Keynesianism thực thụ.
Đây là một sự bóp méo trắng trợn.
Tóm lại, hiện tượng cố tình gán ghép bất kỳ hình thức tăng cung tiền nào với Keynes để bôi xấu Keynes, có Động cơ chủ yếu là chính trị (bôi nhọ can thiệp nhà nước) và kinh tế (né tránh thất bại của tân tự do) và kinh tế; kết hợp nhiều chiến dịch truyền thông đã liên tục tạo thành định kiến sai lệch trong công chúng.
Keynes giống như một bác sĩ kê đơn thuốc đúng bệnh, đúng liều. Nhưng người ta đem đơn thuốc ấy đi chế biến bậy bạ, uống sai cách, rồi đổ thừa rằng bác sĩ tệ.
Hiện nay có các trường phái phản biện hiện đại (như Joseph Stiglitz, Mariana Mazzucato) đang phục hồi danh tiếng Keynesianism